Chào mừng đến với Tử Bình diệu dụng.
Trang 3 của 3 Đầu tiênĐầu tiên 123
Kết quả 21 đến 27 của 27
  1. #21
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Bảy, Mật pháp Âm Dương tốc đoán cát hung

    1) Tổng quyết:

    1, Âm Dương hòa hợp là cát, Âm Dương không hài hòa là hung. Từ Âm Dương chủ yếu là xem đại biểu ngũ hành, thập thần, cung vị, vượng suy.
    2, Dương là tôn, là quang minh, là ấm áp, là chủ lưu, là chính phủ, là đại nhân, là phúc khí, là cống hiến, là phục vụ, chủ quý;
    Âm là Ti, là vật chất, là cơ sở, là tiểu nhân, là hàn lạnh, là giang hồ, là lao khổ, là không phải chủ lưu, là dân gian, là làm việc, là dục vọng, là suy nghĩ, chủ quyền lực.
    Hỏa là xem phúc khí và quý khí, Thủy là xem quyền lực và tài lực.
    3, Âm có chế hóa, Dương có phát dụng, tất cát. Đại biểu âm là kim thủy hoặc là Tứ Hung thần có chế hóa tất có chuyện tốt, đại biểu dương là mộc hỏa hoặc là Tứ Cát thần phát lực tất có chuyện cát.
    4,Tổn thương âm tổn thương dương, là âm trọc dương trọc (Âm trọc Dương trọc), tất tai.
    5, Âm vượng tồn thương dương, là mất phúc khí, không có nơi nương tựa, thiếu quý nhân, nhẹ là có khí vô lực đa bệnh, nặng thì hung tai, ác bệnh mà chết.
    6, Dương vượng tổn thương âm, bệnh, tàn, có phúc khí mà ít thọ; Dương thái vượng làm tổn thương âm là nhiều hung tử, bạo tử.
    7, Âm cường vượng không trực tiếp tổn thương dương, trường thọ, nhưng cuộc sống thanh bần ít êm ấm, là mệnh hòa thượng đạo sĩ thanh bần.
    8, Dương cường vượng không trực tiếp tổn thương âm, có phúc mà thọ kh6ng dài. Nữ mệnh thì kết hôn muộn, độc thân bái Phật là thích hợp.
    9, Dương khống chế Âm, tự do không có ràng buộc, chính là làm ông chủ, làm quan cũng tự do; Dương vượng không có Âm có thể khống chế, là mệnh hòa thượng, đạo sĩ, ni cô, xuất gia.
    10, Âm khống Dương, ít êm ấm, thiếu tự do, cả đời không ngừng phiền não, chính là ó tiền có địa vị cũng không vui sướng, nghiêm trọng nếu không lao tù thì là tật bệnh cả đời. Nam mệnh đa số là kết hôn muộn, không có hôn nhân, nữ mệnh trước có hôn nhân về sau sống riêng một mình.
    11, Dương là lễ pháp, chính nghĩa, chính phủ, khí dương cường vượng thấy kim thủy, khí kim thành hình thì đa số là nhân viên chấp pháp chính phủ. Khí dương cường vượng mang Dương Nhận, là người háo sát thượng võ.
    12, Âm là mưu lược và chính trị, khí âm vượng thấy mộc hỏa, đọc sách mà mưu đồ công danh, lấy quyền thuật mưu cần địa vị.
    13, Kim không thành âm, mộc không thành dương, duy chỉ có chuyên cần cày cấy mới nhận được danh lợi.
    14, Tính thổ tự nhiên không mang phú và quý, gặp thủy có tình thì đắc phú, thấy hỏa có tình thì đắc quý là người có phúc khí; thủy hỏa đều không được, là người rất tầm thường.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  2. Cảm ơn bởi:

    CST

  3. #22
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    2) Bí quyết “Tự bính Tự” Thập can

    (1) Hình và Khí chuyển hóa Thập Can
    Hình là vật đã ổn định thành hình, Khí là vật biến hóa không có hình thể hoặc là hình thể không ổn định. Cả hai ở trong định tính khác nhau rất lớn, như cùng là tổn thương dương, tổn thương Bính chủ quan phi khẩu thiệt, trừ phi Bính tổn thương hai lần mới là mắc bệnh ở phương diện tim hoặc là mắt, tổn thương Đinh là chủ bệnh, hoặc là mắt hoặc là tim hoặc là vì khí tổn thương mà thân thể suy nhược nhiều bệnh. Lại như Canh Tân kim, Canh chế hóa một lần trở thành Tân là chuyện tốt, Tân vừa thấy chế hóa thì bộ vị thân thể tất xảy ra bệnh.
    Hình và Khí là có thể chuyển hóa, chuyển hóa có nguyên tắc, đại khái phép tắc là:
    + Giáp: Thấy thủy sinh hoặc kim khắc thành Ất.
    + Ất: Ở dưới tình huống không bị âm thủy khống chế thấy Bính là biến thành Giáp.
    + Bính: Thấy thổ thành Đinh lò lửa nhân gian.
    + Đinh: Thấy Giáp thành Bính hỏa là thần trên trời.
    + Mậu: Thấy kim thủy vượng thành Kỷ.
    + Kỷ: Thấy mộc hỏa vượng thành Mậu.
    + Canh: Thấy thủy hoặc hỏa thành Tân đắc quý.
    + Tân: Thấy vượng thổ nhất là thấy Mậu vượng thành Canh.
    + Nhâm: Lưu làm tác nghiệp.
    + Quý: Tự thân vượng lại thấy vượng kim thành Nhâm.
    (2) Âm Dương chuyển hóa
    + Mộc thấy hỏa, thoát thai trở thành hỏa dương.
    + Kim thấy thủy, phấn đấu thành âm thủy.
    + Thổ là không có tính chất âm dương rõ ràng, dương vượng theo dương, âm vượng thành âm.
    + Mộc thấy thủy, trăm năm tu luyện hủy hoại trong chốc lát, phản âm, trở thành đứa trẻ đáng thương, nên theo Phật mới có thể giải thoát.
    + Kim thấy hỏa, khí âm ức chế, bỏ gian tà theo chính nghĩa mà hiển quý.
    Thủy là Lão Âm rất khó chuyển hóa, trăm nghìn cay đắng, hao hết phí tổn mới có thể thoát thai hoán cốt. Nghĩ lại thể sinh mệnh cấp bậc thấp phải tu hành bao nhiêu năm, mấy trăm năm thậm chí trên cả nghìn năm mới có thể thoát thai thành người, thì biết độ khó của âm thành dương.
    Hỏa là Lão Dương, thấy thổ lại thấy kim thủy thì có thể chuyển hóa thành âm. Dễ dàng trụy lạc, kẻ lãng tử rất khó quay đầu.

    (3) “Tự bính Tự” Thập Can
    + Ất sợ Quý, Bính sợ Giáp, Nhâm sợ Canh, Đinh sợ Ất. Mậu hỉ Giáp, Kỷ hỉ Bính, Nhâm Quý hỉ Mậu Kỷ...
    + Mộc không bôn hỏa, kim không hướng thủy gần hỏa, thổ không ngăn âm ức dương, nếu như không thành cách cục, đều chỉ là người rất bình thường.
    Nội dung bên trên xem bề ngoài là rất nhiều, thực tế ở lúc nằm chắc Âm Dương đều có thể tự mình suy luận, khỏi cần gánh nặng, cũng không cần nhớ. Mệnh học chỉ có mấy thứ khẩu quyết Âm Dương, hiểu Lý thì Pháp sẽ tự rõ, ai học cũng đều như vậy.
    *---------------------------------------------
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  4. Cảm ơn bởi:


  5. #23
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Jan 2013
    Bài viết
    198
    Trích dẫn Gửi bởi Hùng804 Xem bài viết
    5) Mậu Kỷ thổ

    Mậu Kỷ thổ đối với nhân gian mà nói là rất tốt, có thể cân bằng âm dương. Mậu Kỷ thổ hỉ Tài Quan, bởi vì con người đều ham thích danh lợi, đặc biệt là Mậu thổ, rất thích thủy.
    Lúc Kỷ thổ là âm không quá thích thủy. Lúc Mộc vượng là đối với lực khắc thổ cũng không lớn, nhất là lức Giáp mộc khắc đối với Mậu thổ nhỏ. Nhưng lúc Giáp mộc gặp thủy, lúc biến thành Ất mộc, thì lực khắc đối với Mậu thổ sẽ trở nên lớn. Bởi vì Giáp mộc là khí, bên trong còn có Bính hỏa, Mậu thổ, gặp thủy liền thành hình.
    Từ chỗ này có thể thấy, Mậu Kỷ thổ không sợ Giáp mộc vượng, mà sợ Giáp mộc thấy thủy đến khắc, thổ là da thịt, bị khắc thương, chủ thân thể có thiếu khuyết. Thủy mộc chỉ cần không trở thành một khối, thì không có chuyện gì.
    VD Càn tạo: Quý Mão, Ất Sửu, Mậu Dần, Quý Hợi
    Lúc nhỏ mắc bệnh bại liệt, thay thế lão sư dạy qua một năm, không có đơn vị, Dần mộc gặp Hợi thủy đến khắc Mậu thổ. Nếu như không có thủy, thì có tượng làm thầy. Dần mộc biến thành Ất mộc, thành hình là thực, khởi đến khắc rất nghiêm trọng.
    VD Càn tạo: Nhâm Dần, Quý Sửu, Mậu Dần, Ất Mão
    Thầy giáo tàn tật một tay. Mậu xuất ra từ trong Dần, lực khắc không mạnh, nhưng thấy thủy, thì nghiêm trọng.
    VD Càn tạo: Giáp Tý, Giáp Tuất, Mậu Dần, Giáp Dần
    Nghiên cứu sinh vào đại học trọng điểm của Quốc gia, vận Bính Tý thi đậu. Trụ năm Giáp Tý, lúc nhỏ phần đầu hặn là phải có vấn đề, sau khi trưởng thành không có vấn đề gì. Mậu xuất ra từ trong Tuất, bản thân có mang hỏa, Mậu Dần lực khắc nhỏ, nếu như có Hợi thủy thì sẽ phiền não. Địa chi năm tháng kẹp xuất ra Hợi thủy, ở lúc luận Tượng pháp thì không xem xét. Tạo này thì có thể xem như tượng mộc hỏa thông minh.
    Địa chi Tuất thổ cùng Tý thủy chẳng khác nào thiên can là Mậu Quý hợp, cả hai gọi là Ám hợp.
    Dần Hợi hợp, chỉ có Nhâm thủy ở trong Hợi mới có thể khắc mất Bính hỏa ở trong Dần, Quý thủy là không khắc mất Bính hỏa.
    Trụ ngày Mậu Dần, lực khắc Dần mộc đối với Mậu thổ là rất nhỏ.
    Câu này cháu thấy rất chính xác . Cháu xin bổ xung thêm càn tạo của cháu:

    Càn Tạo : Nhâm Thân - Nhâm Dần - Mậu Dần - Mậu Ngọ .

    Đại vận Ất Mão(1->5 tuổi) = 3 lần mổ sẻ vi khuyết tật @@ .

    MT.

  6. #24
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Bài này là giúp cho chúng ta biết cách dùng phép Âm Dương. Nó là một phần trong Lý Khí pháp (gọi tắt là Khí pháp), nhưng nó phải kết hợp với Hình pháp (Loan Đầu pháp) thì mới luận mệnh hoàn chỉnh, tức là dùng Cách Cục pháp để đoán phú quý bần tiện, cáy hung họa phúc đời người.
    Từ từ, các bạn cứ thong thả nghiền ngẫm phép này xong, tôi sẽ nói cách hướng dẫn luận Cách Cục sau.
    Hình Khí cũng giống như con người chia ra linh hồn và thể xác, thiều một là không được. Cũng như Âm Dương mất một thì cái kia cũng không còn tồn tại vậy.
    Xưa nay, Khí pháp đã thất truyền cho nên nó không có trong các sách mệnh học, nó được truyền bởi Quỷ Cốc Tử tiên sinh lưu lại cho hậu thế. Nhưng bởi vì, ông ấy lưu lại trong chùa cho nên không lưu truyền lại trên nhân gian. May thay, chúng ta có được người học và để lại cho tất cả chúng ta học tập, đó chính là Vương Khánh tiên sinh.
    Cuốn sách kinh điển để lại bí mật nghìn đời về phép luận mệnh, đó chính là Trích Thiên Tủy. Nhưng không phải như Nhậm Thiết Tiều tiền bối chú giải, vì chỗ họ Nhậm không biết Khí pháp, chỉ luận Hình pháp, cho nên mới có chuyện gây rắc rối cho giới mệnh học hiện nay bởi 2 chữ "Vượng Suy", và cứ thế kéo dài mãi cả 100 năm qua không có lối thoát. Cứ ôm khư khư cái gọi là Phép Nhật chủ cân bằng vượng suy, lấy khí trời đất mà cân đo đong đếm, đến mức ngộ nhận làm cho người ta hồ đồ phát minh ra thứ gọi là con số vượng suy, mà không biết rằng chủ khí trời đất bao la vô tận.
    Một điểm nữa, các bạn nếu không biết Tượng pháp thì quả thật không thể luận mệnh đến tầng cao được.
    Vì vậy, các bạn cứ từ từ mà học, chớ nôn nóng, học một hai quyển sách thì đi luận mệnh, cứ cho rằng Ta là số một, không biết rằng bát tự là cuộc đời, cuộc đời có cái gì thì trong bát tự có cái đó, chẳng qua chúng ta không nhìn ra mà thôi.
    Hiện nay, trên mạng và nhà sách in ấn mệnh học quá nhiều nhưng không tinh, bác tạp hỗn loạn. Tôi hi vọng, các bạn hãy nắm chắc âm dương ngũ hành để khỏi bị ngộ nhận. Học là đi đôi với hành, lý luận đi đôi với thực tế. Nếu xa rời thực tế, thì chỉ là một mớ lý thuyết vô danh mà thôi.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  7. Cảm ơn bởi:


  8. #25
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Jan 2013
    Bài viết
    198
    Quỷ Cốc tử còn lưu truyền một môn bói toán nữa với xác suất cao là môn : Quỷ Cốc Toán Mệnh . Theo cháu môn này bổ trợ cho tứ trụ rất hay.Quỷ cốc tiên sinh đúng là ông thần về đoán mệnh .

    MT.

  9. #26
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Nov 2013
    Bài viết
    378
    Cháu chào bác Hùng, cháu đọc phần này thấy hấp thụ khá nhanh và cháu xin hỏi lan man một chút là: " khí âm dương này là chỉ xét trên bát tự thôi, vậy còn nạp âm có được xem xét chung hay không ạ ?

  10. #27
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Trích dẫn Gửi bởi Gemini:
    Cháu chào bác Hùng, cháu đọc phần này thấy hấp thụ khá nhanh và cháu xin hỏi lan man một chút là: " khí âm dương này là chỉ xét trên bát tự thôi, vậy còn nạp âm có được xem xét chung hay không ạ ?
    Với phép nạp âm, thần sát thì rất ít khi dùng chung trong phép tắc âm dương, vì nó đã nói khá rõ về âm dương ngũ hành rồi.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  11. Cảm ơn bởi:


 

 

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •