Chào mừng đến với Tử Bình diệu dụng.
Trang 1 của 2 12 CuốiCuối
Kết quả 1 đến 10 của 18
  1. #1
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858

    Hướng dẫn luận Mệnh học Tử Bình

    Hướng dẫn luận mệnh mệnh học Tử Bình

    Mệnh học Tử Bình là một môn học Thiên Địa Nhân. Nó nói quy luật vận hành và phép tắc tác dụng của Thiên đạo, Địa đạo, Nhân đạo; phân ra 3 tầng lớp là Đạo, Pháp, Thuật; lấy Cách, Cục, Tượng để định vị phú quý bần tiện thọ yểu cát hung đời người; thông qua sinh khắc chế hóa, hình xung hợp hại để tác dụng. Vận dụng ngũ hành, thập thần để mô tả cuộc đời vui buồn tan hợp, yêu giận vui buồn, danh lợi lên xuống và cát hung họa phúc, nó là một môn học dự trắc học cuộc đời thuộc về tầng lớp Thiên đạo hết sức phù hợp ở phép tắc tác dụng Thiên Địa Nhân.
    Nghiên cứu mệnh học Tử Bình, không hiểu rõ đạo Thiên Địa Nhân và phép tắc tác dụng, khó tránh thường phạm sai lầm xa rời thực tế, phương pháp càng ngày càng nhiều, tỷ lệ chuẩn xác càng ngày càng thấp. Không hiểu lý, thì cho dù có học 10 năm, cũng chỉ là vô ích.
    Dưới đây sẽ lý giải mệnh học Tử Bình cùng các loại khái niệm:
    Thuật dự trắc bát tự Tử Bình, là căn cứ quan hệ qua lại và phép tắc tác dụng giữa 3 cái Thiên Địa Nhân, để tiến hành suy tính phú quý bần tiện và cát hung họa phúc con người.
    Mệnh học Tử Bình cho rằng: Con người không phải là trung tâm của giới tự nhiên, con người duy chỉ có thuận theo tự nhiên, nắm chắc tự nhiên, mới có thể sáng tạo cuộc đời tốt đẹp cho mình. Cho nên, luận mệnh không phải là lấy nhật chủ làm trung tâm, mà là lấy chủ khí trời đất làm trung tâm, căn cứ tình huống vận hành và kết quả tác dụng chủ khí trời đất cùng quan hệ nhật chủ, để định ra tầng lớp cuộc đời và cát hung họa phúc.
    Lần sửa cuối bởi Hùng804, ngày 07-04-17 lúc 16:35.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  2. Cảm ơn bởi:


  3. #2
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Chủ đề luận mệnh khá rõ ràng:
    (1) Đầu tiên tra tình huống vận hành chủ khí trời (Thập thần điều khiển nguyệt lệnh) hoặc là chủ khí đất (thập thần có sức sống nhất ở trong thiên can). Chiếu theo nguyên tắc thủ dụng Tứ Hung thần nghịch dụng tức là Tứ Hung thần phải có chế hóa, Tứ Cát thần thuận dụng tức là Tứ cát thần phải được sinh hộ. Xem nó có thể qua 3 cửa ải Hộ vệ, Thanh thuần, Chân Giả hay không. Qua được 3 cửa ải này thì gọi là Thành Cách hoặc gọi là Thành Cục, không quý thì phú. Không có thể qua 3 cửa ải này thì khó có đại phú quý. Lại có thể căn cứ tình huống không qua 3 cửa ải này là cách cục không thành hoặc là phá bại, phân chia ra chi tiết trung phú trung quý, tiểu phú tiểu quý, phổ thông bình thường, hày là hung hiểm bần tiện.
    (2) Sau đó xem cảm ứng nhật chủ cùng cách cục, cũng chính là xem Thể Dụng có hòa hợp hay không.
    + Nếu như nhật chủ có khí trung hòa, tức là có thể hoàn toàn đảm nhận được cách cục, thì lấy cách cục thành bại lúc ở tình huống trạng thái tĩnh để luận phú quý bần tiện.
    + Nếu như nhật chủ thái vượng hoặc bất cập, bản thân có bệnh, như vậy thì phải xem Thể Dụng thần và dụng thần cách cục có mâu thuẫn xung đột hay không. Nếu không có mâu thuẫn, luận bình thường; có mâu thuẫn, nhật chủ sẽ tùy theo mức độ khác nhau mà loại trừ cách cục, kết quả cuối cùng nếu không phải là hạ thấp tầng lớp cách cục, thì là cách cục hoàn toàn bị phá bại. Như cách cục thân nhược Tài vượng, Tài cách tối kỵ Ấn Tỉ, mà nhật chủ nhược lại thích Ấn Tỉ sinh phù, như vậy kỵ thần cách cục trái lại trở thành Thể dụng thần, cả hai là mâu thuẫn xung đột nhau. Cuối cùng sẽ xuất hiện 3 loại kết quả như sau:
    1. Tài cách thành lập, nhật chủ phú quý;
    2. Tài cách tầng lớp hạ thấp, nhật chủ có giảm phú quý;
    3. Tài cách phá bại, nhật chủ bần tiện.
    Rốt cuộc là lấy kết quả nào? Vậy thì phải xem tổ hợp mệnh cục, xem mâu thuẫn giữa dụng thần cách cục và Thể dụng thần có thể vì tổ hợp mà tránh khỏi hay không.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  4. Cảm ơn bởi:


  5. #3
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Tổng kết một câu nói:
    Luận mệnh lấy "Dụng" làm chủ, lấy "Thể" làm phụ, trước tiên xem cách cục thành bại, thứ là tra nhật chủ vượng suy, cuối cùng căn cứ tình huống cảm ứng của Thể Dụng, được ra nhật chủ phú quý bần tiện, cát hung họa phúc.
    Đại Đạo chí giản, thuật luận mệnh Tử Bình thì đơn giản như vậy. Trình tự luận mệnh so với phép vượng suy là đơn giản hơn rất nhiều.
    Phép cân bằng vượng suy ngũ hành sinh khắc luận mệnh, chỉ có bình định nhật chủ vượng suy tức là thân vượng thân nhược, thì phải xem nguyệt lệnh, thông căn, thấu can, cho điểm, còn phải cần Ấn Tỉ là một nhà, Thực Thương Tài Quan là một nhà để so sánh cân bằng, sau đó mới có thể rút ra được sợ bộ vượng suy.
    Không nói độ khó nắm chắc sự cân bằng, chỉ trình tự thao tác thì đã nhiều. Đương nhiên so với trước đây phái mệnh lý pha trộn hợp lại nạp âm, thần sát, cách cục, vượng suy thành một thể thì phải không ít đơn giản.
    Lần sửa cuối bởi Hùng804, ngày 08-04-17 lúc 00:43.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  6. Cảm ơn bởi:


  7. #4
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Tiếp theo là nói một vài khái niệm.
    1, Thiên đạo, Địa đạo, Nhân đạo
    Thiên đạo, Địa đạo, Nhân đạo, ở trong mệnh học Tử bình là chỉ quy luật vận hành và phép tắc tác dụng chủ khí của trời đất, ngũ hành địa chi, tạp khí nhân gian ở trong mệnh cục.
    + Thiên đạo: Là nói quy luật vận hành và phép tắc tác dụng chủ khí trời đất ở trong mệnh cục.
    + Địa đạo: Là nói quy luật tác dụng giữa các địa chi.
    + Nhân đạo: Là nói tạp khí nhân gian tức là tình huống tổ hợp và phương thức tác dụng của những thập thần khác, ngoại trừ chủ khí.
    Chủ khí trời phối hợp tốt đẹp, kết cấu hoàn thiện, có thể làm chỗ dùng cho ta, thì gọi là thành cách. Thành cách, là người được thiên thời, khẳng định là quý nhân ở nhân gian, dẫn đầu hành nghề. Tuyệt đại đa số nhân vật lớn đều là được thiên thời, bạn đi nhìn một chút bát tự của bọn họ là biết.
    Chủ khí đất phối hợp tốt đẹp, kết cấu hoàn thiện, có thể làm chỗ cho ta dùng, thì gọi là thành cục. Thành cục, là người được địa lợi, khẳng định đó là người giàu có ở nhân gian, làm chủ của cải xã hội. Bát tự phú ông ít có ai là không được địa lợi, một vài bát tự đại phú hào đồng thờì còn được thiên thời. Chỗ này là hết sức phù hợp với xã hội hiện thực là Đại phú do thiên, tiểu phú do cần.
    Tổ hợp tạp khí nhân gian tốt đẹp, có thể làm chỗ cho ta dùng, gọi là được tượng cát. Tuy không thể nhận được phú quý khá lớn, ngược lại cũng có cơm no áo ấm, cuộc sống như ý.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  8. Cảm ơn bởi:


  9. #5
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    2, Cách, Cục, Tượng
    Thiên đạo, Địa đạo, Nhân đạo, ở trong bát tự là dùng Cách, Cục, Tượng để biểu thuật. Thiên đạo, Địa đạo là Cách và Cục, Nhân đạo là Tượng.
    Trong bát tự, chỉ có thần điều khiển tổ hợp nguyệt lệnh hoàn thiện, làm chỗ dùng cho ta, mới có tư cách gọi là thành cách. Tổ hợp chủ khí đất hoàn thiện, làm chỗ cho ta dùng, mới có thể gọi là thành cục.
    Thần điều khiển Nguyệt lệnh hoặc là một thập thần nào đó có sức sống nhất ở trong thiên can, là thủ lĩnh bát tự, là điểm trung tâm luận mệnh.
    Chúng nó là xương sống của bát tự, chỉ có chúng nó mới có khả năng khởi thành lập cái khung giá lớn của cuộc đời, tức là thành cách hoặc thành cục.
    + Cách, là được chủ khí trời, là cái khung lớn. Thành cách, giống như vật cao lớn nhất trong giới tự nhiên, như núi cao sống lớn. Ở nhân gian cũng là như vậy, là rồng ở nhân gian, là xương sống của xã hội, đa số là giai cấp thượng tầng ở trong xã hội, lĩnh tụ nghề nghiệp.
    + Cục, là thế cục của bát tự, giống như hướng đi của thế núi địa hình. Bởi vì có lực mới có tư cách và khả năng khởi thành lập cái khung trung đẳng. Thành cục tuy không có cao to bằng thành cách, nhưng cũng là nhân vật có tầm quan trọng ở trong xã hội.
    + "Tượng" là tổ hợp tạp khí, lực lượng không đủ lớn, khởi thành lập cái khung ổn định, rõ ràng, hình dạng lúc có lúc không, giống như cây hoa cỏ yếu nhược ở trong tự nhiên, dân phòng nhỏ bé ở trong thành thị, dân chúng ở trong xã hội, chuyện nhỏ nhặt ở trong cuộc sống, tuy rất nhiều nhưng mà bởi vì bản thân yếu nhược mà không để ý tới, ảnh hưởng đối với xã hội, cuộc sống, cuộc sống là không lớn.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  10. Cảm ơn bởi:


  11. #6
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Kinh Dịch nói: "Tại Thiên thành Tượng, tại Địa thành Hình." Hình là kết quả của Tượng, Tượng là quá trình diễn biến của Hình. Hình là thực thể có thể dùng ngũ quan biết được, một khi thành hình thì rất ít biến hóa, giống như Cách và Cục, sau khi thành lập được hình thành, ở trong tuế vận Hậu thiên rất khó thay đổi.
    "Tượng" là chưa thành Hình, hoặc là hình thể yếu nhược dễ thụ thương mà biến hóa, hoặc là vật ở trên hình không ổn định, là nhiều thay đổi.
    "Tượng" ở trong Mệnh cục là không ổn định, chủ yếu là bởi vì lực lượng tạp khí không đủ hoặc là không phối hợp mà thành.
    Bởi vậy, "Tượng" chỉ có thể luận phú quý bần tiện, cát hung họa phúc.
    Sở trường của "Tượng" là chuyên luận chuyện vụn vặt trong cuộc đời, chuyện tiểu sự như va chạm lời nói qua lại, giận hờn yêu ghét biến hóa bất định. Luận mệnh tuy là lấy tầng lớp cuộc đời làm chủ, lấy cách cục làm trọng, tượng chỉ là phần cuối của mệnh, không có quan trọng. Nhưng luận mệnh là chỉ nói phú quý bần tiện, cũng không nên đơn điệu thái quá, mà đa số bát tự con người đều là không có cái khung sườn, không thành hình, bọn họ thì không có cái gì phú quý bần tiện quá nhiều để luận, thì cũng chỉ quan tâm đến chuyện vụn vặt cuộc đời như việc thất nghiệp, duyên đến duyên đi, lúc nào phát chút tiểu tài, lúc nào thấy vận đào hoa. Thật đúng là chúng ta không thể không bỏ chút tinh lực đi nghiên cứu ở trên Tượng.
    Cuộc đời là vạn tượng, bát tự lại có rất nhiều phép thủ tượng, như tượng thiên can, tượng địa chi, tượng tổ hợp can chi, tượng thập thần, tượng tổ hợp cát hung thần, tượng xung, tượng hợp, tượng cung vị, tượng cát, tượng hung … Không nên cho rằng nhiều là phức tạp, những chỗ này đều là có tuân theo quy luật, đến lúc học sâu nắm chắc thì sẽ thấy rất đơn giản.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  12. Cảm ơn bởi:


  13. #7
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    "Tượng" thực ra chính là một phạm trù về Thuật, chính là chỗ chúng ta nói tuyệt chiêu, kỹ xảo, khẩu quyết.
    "Tượng" là vật sống, dễ dàng biến hóa, khởi học nhanh đến trên tay, nếu muốn nắm chắc chuẩn xác, độ khó là không ít. Thứ nhất bản thân của nó là chưa thành hình, tính khả biến rất lớn. Tiếp theo là, bởi vì cái khung yếu nhược không ổn định, rất dễ dàng bị hoàn cảnh bên ngoài tác dụng mà thay đổi, giống như con tắc kè bông đổi màu, có thể tùy theo hoàn cảnh thay đổi ma thay đổi. Ví dụ như, bạn nhìn đến tướng mạo một người nhìn lấm la lấm lét, loại "Tượng" này của nó sẽ khiến cho trong lòng của bạn có ý nghĩ người này là không tốt. Không giống người tốt thì chẳng khác nào là người xấu, chỉ có chờ lúc hắn làm kẻ trộm, lúc làm chuyện xấu, tượng người xấu này mới là thành hình. Nếu như cả đời của hắn an thân thủ phận, tuân thủ pháp luật, như vậy tượng người xấu này theo cả đời của hắn, cũng sẽ không xuất hiện thành hình, có Tượng mà không có Hình. Nếu như người nhà tin Phật, tu tâm hành thiện, hoặc là làm thủ thuật chỉnh sữa dung mạo, như vậy thì tượng người xấu sẽ thay đổi triệt để.
    Tượng khác với Hình, không có tiêu chuẩn đáp án, có thể khiến cho bạn có cơ hội thiết khẩu đoán thẳng không nhiều. Đây cũng chính là một nguyên nhân chủ yếu bát tự giống nhau nhưng cuộc đời khác nhau.
    Chúng ta luận mệnh, đoán phú quý bần tiện có thể như đinh đóng cột, nhưng lúc luận đoán chuyện ở phạm trù "Tượng" như tính chất công việc, nhân duyên nam nữ, sức khỏe tật bệnh các sự tình mang tính chi tiết, thiết khẩu đoán thẳng rất dễ dàng đá phải tấm thép, cũng không nên quá tự tin.
    Mệnh học Tử Bình từ trên mức độ rất lớn nói thì chỉ có thể định tính, khó mà định lượng; sở trường là thủ Tượng, mà vụng ở định Hình. Đây chính là tính giới hạn của Mệnh học.
    Lần sửa cuối bởi Hùng804, ngày 08-04-17 lúc 00:59.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  14. Cảm ơn bởi:


  15. #8
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    3, Cách — Thiên thời — Thành Cách là quý
    Chủ khí trời phối hợp hợp lý, tổ hợp hoàn thiện, có thể làm chỗ dùng cho ta, là thành cách. Thành cách là tất quý, bởi vì thành cách là người được thiên thời.
    VD 1, Mệnh Lương Khải Siêu
    Quan Thiên Ấn Nhật Quan
    Càn tạo: Quý Dậu, Giáp Dần, Bính Ngọ, Quý Tị (Dần Mão không)
    Đại vận: Canh Tuất/ Kỷ Dậu; Lưu niên: Kỷ Tị
    Tháng Dần Giáp mộc giữ lệnh, thấu ra can tháng, lấy Giáp mộc Thiên Ấn lập cách (Thiên Ấn không thấy Thực thần, thân nhật chủ lại vượng thì không luận là Kiêu thần). Ấn có Quan tinh kề gần hộ vệ, Quan tinh tọa Tài có lực, là chân dụng thần, thành Ấn cách. Chi giờ Quan tinh đồng tính tương hỗn, không phải là làm trọc cục, lấy tầng lớn cách cục hạ thấp mà luận, báo hiệu cấp quan chức, làm quan để ý gặp trở ngại.
    Ấn cách dụng Quan, hỉ hành Tài vận, tối kỵ vận Thương quan. Năm 1910 khởi hành Canh Tuất là Tài vận rất cát, may mắn làm quan đến chức Tổng trưởng Tài chính nội các. Năm 1920 khởi hành Kỷ Dậu vận Thương quan, là hung vận, 1929 năm Kỷ Tị mắc bệnh qua đời.
    VD 2, Mệnh Trần Thủy Biển
    Tỉ Sát Nhật Tỉ
    Càn tạo: Canh Dần, Bính Tuất, Canh Thìn, Canh Thìn (Thân Dậu không)
    Đại vận: Tân Mão; Lưu niên: Đinh Hợi.
    Bát tự này thần giữ Nguyệt lệnh là Tân kim Kiếp tài Dương Nhận mà không phải là Mậu thổ Thiên Ấn. Thần nắm lệnh Tân kim không thấu, lập can tháng Thất Sát cục, lấy chân thần Tân kim thủ lệnh làm dụng thần. Kiếp tài hợp Sát thành Dương Nhận giá Sát cách (nguyệt lệnh chân thần đắc dụng là thành cục, tầng lớp cục thượng thăng thành cách), là quý mệnh. Dương nhận giá Sát, là người kiên cường bá đạo.
    Năm 2000 khởi nhập vận Tân Mão, 5 năm trước Tân kim dụng thần chủ sự, cách thành, trèo lên đỉnh cao của quyền lực; 5 năm sau Mão mộc chủ sự, Mão Tuất hợp, giải Thìn Tuất xung, dụng thần Tân kim trong Tuất bị hợp phá, là phá cách, lại có Sát chế thân, là đại hung. Mão là Tài, là vì Tài mà rước họa.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  16. Cảm ơn bởi:


  17. #9
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Thực Tài Nhật Sát
    VD 3, Càn tạo: Đinh Hợi, Kỷ Dậu, Ất Tị, Tân Tị (Dần Mão không)
    Đại vận: Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ/ Ất Tị/ Giáp Thìn
    Tuổi vận: 5 15 25 35 45
    Niên vận: 1952 1962 1972 1982 1992
    Tạo này thần nắm giữ nguyệt lệnh là Thất Sát thấu ra ở can giờ, lập Thất Sát cách luận thành bại. Sát cần phải chế hoặc tiết, thủ Đinh hỏa Thực thần làm dụng thần, đáng tiếc bởi vì quan hệ tổ hợp Thực thần bị chỗ Tài tinh tiết, cách không thành. Chủ khí trời hung thần Thất Sát Tân kim ở chỗ trạng thái cơ bản là không có chế, Tân có dưới Tị có Bính hỏa đối với nó có một chút tác dụng cưỡng chế, hung mệnh là không sai, chỉ qua là sẽ không chết yểu mà thôi.
    Vận Bính Ngọ, Bính thấu ra hợp Sát; vận Ất Tị, khắc Tài cứu Thực; Thất Sát có chế cuộc sống khá lên, dựa vào cần cù lao động mà dẫn dến hàng tiểu phú. Vận Giáp Thìn, Giáp mộc hợp động Kỷ thổ tiết Thực sinh Sát, Sát vượng chế thân, năm Mậu Dần chạm điện rơi xuống nước mà chết.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  18. Cảm ơn bởi:


  19. #10
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    4, Cục — Địa lợi — Thành Cục là phú
    Chủ khí Địa phối hợp hợp lý, tổ hợp hoàn thiện, có thể làm chỗ cho ta dùng gọi là thành Cục. Thành Cục là phú.

    Tỉ Thực Nhật Tỉ
    VD 4, Càn tạo: Quý Tị, Ất Sửu, Quý Dậu, Quý Sửu (Tuất Hợi không)
    Chủ khí trời không thấu, không xem xét dùng lập cách. Thủ Ất mộc Thực thần lập cục, Thực thần làm điểm lập cục (Tỉ kiên là bản thân không thể làm điểm lập cục). Thực thần là cát thần, phải thuận dụng, phải hộ vệ, thủ Tỉ kiên hoặc Tài tinh làm dụng thần thành cục, Tỉ kiên có lực là chân thần, cục thành, phú mệnh là không sai. Nhật chủ là ức vạn phú ông, hiện vẫn còn đang ở vận phát tài.
    Bát tự này Tài tinh rất yếu nhược, cũng không có Tài khố, Thực thần vô căn không tính là vượng, nếu như dùng các loại phép luận mệnh trước đây là không thể đoán người này là đại phú, chỉ có dùng phép Tử Bình chân tông tra chủ khí trời đất, mới có thể nhìn thấy ngọn nguồn.
    Luận mệnh, đa số người có tập quán dụng hỉ kỵ 3 vị thập thần Tài, Quan, Ấn để định vị phú quý của nhật chủ. Ba vị thập thần Tài Quan Ấn là chủ tượng phú quý, tượng ở trong luận mệnh khởi được tác dụng trọng yếu chính xác, nhưng lúc tượng ở cách cục, cách cục là tượng lớn nhất mà là sự vật định hình. Cho nên, cần nhớ kĩ: Luận mệnh thì Cách Cục là ở trước, Tượng là ở sau.
    Nhớ kĩ: Thập Thần là Tượng, là biểu tượng, có thập thần dạng nào, nhất định sẽ biểu tượng tương ứng xuất hiện, nhưng tượng không nhất định chỉ có dùng thập thần để thể hiện.
    VD 5, Michel Jackson
    Tỉ Thực Nhật Tỉ
    Càn tạo: Mậu Tuất, Canh Thân, Mậu Dần, Mậu Ngọ (Thân Dậu không)
    Thần năm giữ Nguyệt lệnh là Canh kim Thực thần lại thấu can, là Thực thần cách, Thực thần là thần Cách, thủ Tỉ kiên làm dụng thần thành cách. Tỉ kiên có lực, cách thành, phải là mệnh đại quý. Nhìn kĩ địa chi, Dần Ngọ Tuất hợp hỏa cục làm thương hại chân thần nguyệt lệnh, chân thần thụ thương, tầng lớp cách cục giáng thấp, bởi do cách giáng thành cục, chỉ có thể trở thành loại hình nhân vật lãnh tụ một loại hành nghề nào đó mà thôi.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  20. Cảm ơn bởi:


 

 

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •