Chào mừng đến với Tử Bình diệu dụng.
Trang 2 của 4 Đầu tiênĐầu tiên 1234 CuốiCuối
Kết quả 11 đến 20 của 36
  1. #11
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    (1) Quá trình trời đất diễn hóa vạn vật
    Dụng tìm hiểu nguyên lý môn học mệnh lý âm dương Thái Cực để phá giải.
    Đạo Đức kinh 》"Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, Tam sinh Vạn vật, vạn vật phụ âm nhi bão dương xung khí dĩ vi hòa." Đã đem quá trình trời đất diễn hóa vạn vật phải nói hết sức rõ ràng. Nhưng quá trình này là rất trừu tượng, tìm không ra Nhân Quả.
    + Đạo: Là tổng quy luật vũ trụ.
    + Nhất: Là Thái Cực, có Thái Cực thì có mở đầu thân thể sinh mệnh. Nhất cũng có thể nói là trời đất, khởi nguyên sinh mệnh.
    + Nhị: Là Âm Dương, là chỗ ban đầu phân chia trời đất. Tầng ngoài Âm Dương vẫn không có con người, cũng không có hoàn cảnh cuộc sống con người. Chỗ Địa này không phải là địa cầu, thì cũng không phải là hoàn cảnh cuộc sống con người. Trời đất là Thanh khí và Trọc khí, thực tế vẫn là hai luồng khí, là năng lượng chính là năng lượng phụ, cũng chính là Thần Phật và Tà ma. Không nên đem Địa lý giải thành địa cầu, đất bằng cuộc sống của chúng ta, bởi vì lúc này vẫn còn chưa có con người, khẳng định là sẽ không có đất bằng cho cuộc sống của chúng ta. Mà là khí âm dương, vẫn còn chưa có con người sự vật trên thế gian, vẫn còn là một bầu không gian.
    + Tam: Là kim mộc thủy hỏa thổ, tức là ngũ hành, hoặc gọi là Thiên Địa Nhân, thủy hỏa thổ. Bởi vì mộc hỏa là một nhà, kim thủy là một nhà, trong hỏa đã có mộc, trong thủy đã có kim, thủy hỏa thổ chính là Thiên Địa Nhân. Thổ là địa cầu, nơi cuộc sống của chúng ta, là đất bằng. Thì lúc này có Thiên Địa Nhân, cho nên sau khi có ngũ hành, sản sinh ra vạn sự vạn vật là có đủ điều kiện.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  2. Cảm ơn bởi:


  3. #12
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    + Tứ tượng: Ngũ hành là Địa đạo, khí âm dương Thiên đạo thông qua tứ tượng xuân hạ thu đông rơi xuống trên địa cầu. Nhị là Âm Dương là Thiên đạo, Tam là Ngũ hành là Địa đạo, Thiên Địa Nhân đều xuất hiện, liền có kim mộc thủy hỏa thổ.
    Nhị sinh Tam trung gian bỏ bớt một cái mắc xích. Nhị còn phải sinh Tứ Tượng, tức là xuân hạ thu đông. Nhị là Âm Dương, phải biến hóa thành Tứ Tượng: Thiếu Âm, Thiếu Dương, Lão Âm, Lão Dương, tiếp theo mới là đến Ngũ hành. Mà Tứ Tượng chính là 4 mùa xuân hạ thu đông, cũng chính là Thiên đạo phân bố khí đến địa cầu. Sau khi có đất bằng thổ địa cầu, thì Tứ Tượng biến thành kim mộc thủy hỏa, cộng thêm đất bằng địa cầu là thổ, thì thành ngũ hành. Năm loại khí này lưu chuyển biến hóa, thì vạn sự vạn vật đi ra.
    + Vạn vật: Tam sinh Vạn vật, có một quá trình, Tam chính là Ngũ hành, biến thành thập can, thập can chính là vạn vật, là 10 loại vật lớn ở trên thế gian. Có thể là 10 loại vật lớn ở trong giới tự nhiên, cũng có thể là 10 loại vật lớn trong giới động vật, cũng là 10 loại vật lớn của nhân loại.
    Cho nên con người phân ra 10 loại, không phải là tất cả tính cách, thiên phú con người đều giống nhau, con người có 10 loại tâm tính. Dùng so với loại thủ tượng mà nói, đem vạn sự vạn vật phân ra làm 5 loại lớn kim mộc thủy hỏa thổ, 5 loại lớn này vẫn là khí, còn phải phân chia ra tiếp thành thập can, là 10 loại lớn, tức là 10 loại con người sự vật hữu hình.
    Vì vậy Chu Dịch là nói so với loại thủ tượng, đem hình trạng, tính chất con người sự vật quy về một loại giống nhau hoặc là xấp xỉ ngang nhau, phân thành 5 loại lớn kim mộc thủy hỏa thổ, mỗi loại lớn có trên mấy nghìn vạn loại. Chỉ cần hình trạng, đặc tính, khí chất ngang nhau đều quy về một loại, đây gọi là so sánh loại thủ tượng.
    Con người có 10 loại lớn, bởi vì ngũ hành vẫn là 5 loại khí, vẫn chưa có hình trạng. Mà người trên thế gian còn phải nói hình trạng xấp xỉ nhau, đặc trưng, khí chất, công năng xấp xỉ nhau quy về một loại, chỗ này thì có thập can. Cho nên thập can đại biểu vạn sự vạn vật, đem vạn sự vạn vật quy nạp thành 10 loại. Có thập can chính là Tam sinh Vạn vật, thập can tức là vạn vật.
    + Vạn vật phụ âm nhi bão dương: Vạn vật đều từ chỗ âm dương tổ thành, cho nên thập can đều có hàm lượng và sắp xếp khí âm dương, đây chính là Bát Quái.
    + Xung khí dĩ vi hòa: Là nói hoàn thành Thập Can, khí âm dương cân bằng thì cát, thất hành thì hung.

    Đây là 《 Đạo Đức kinh 》mô tả đối với quá trình trời đất diễn hóa vạn vật, còn khá là trừu tượng. Chúng ta phải tiến vào cảnh giới nhập đạo, dụng một chút mệnh lý bát tự mà phá giải.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  4. Cảm ơn bởi:

    CST

  5. #13
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    (2) Trình tự Mệnh lý phá giải mối quan hệ giữa Thập Can và Âm Dương

    Chúng ta đã biết âm dương là Thiên đạo, chính là Thanh khí và Trọc khí, hình tượng hóa một chút chính là Thần Phật và Tà ma, lại hình tượng hóa một chút Dương chính là phúc báo, Âm chính là Tai báo, tức là Nhân Quả. Năng lượng chính làm bao nhiêu sự tình, thì sẽ nhận được bấy nhiêu phúc báo, Năng lượng phụ làm bao nhiêu sự tình, thì sẽ nhận được bấy nhiêu tai báo, đây chính là Nhân Quả.
    Nếu như không thể đem thập can và âm dương vẻ ngang bằng, như vậy chỗ căn cứ Thiên đạo tạo mệnh cùng với thập can là không có liên quan. Có quan hệ mới có thể thông qua thập can toán mệnh, mà thập can chính là có thể toán mệnh. Thập can chính là đại biểu loại nhân nào: Người phú quý, người bần tiện, người anh tuấn, người xấu xí, thì có thể luận đoán như thế. Có thể luận đoán như vậy mới gọi là phù hiệu Can Chi học, nếu không, thì không thể xưng là phù hiệu.
    Thập can là tái thể của âm dương, đã là tái thể, thuyết minh tính chất của chúng là đối ứng nhau. Vật dĩ loại tụ, nhân dĩ quần phân, cả hai khẳng định là xấp xỉ nhau thì mới có thể nhận tải, nếu không khí đi lên không kèm theo. Không nên đơn giản nắm can chi xem như can chi, nắm âm dương xem như âm dương, như vậy can chi vẫn là vật chết, mộc vẫn là một thân cây, thủy vẫn là nước ở sông ngòi, không hề có ý nghĩa cũng không có cách nào luận mệnh.
    Còn phải đi xem quá trình diễn hóa từ Thiên đạo, Địa đạo, Nhân đạo. Thập can chính là hóa thân âm dương, nhưng phải biết căn nguyên cùng quá trình. Thập can chính là hóa thân phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung, Thần Phật và Tà Ma.
    Tại sao có vài người làm chuyện xấu nhiều lần ngồi tù? Chỉ qua là nhận phải sự trừng phạt mà không thể cải tà quy chính, chỉ vì khí âm quá thịnh mà hóa thân thành tà ma ở nhân gian, cũng chính là người chấp mê bất ngộ. Còn tại sao có vài người lương thiện như vậy, bị người khác khinh miệt lừa gạt nhiều lần, vẫn cứ hành thiện tích đức, bởi vì nó chính là hóa thân Thần Phật. Nó không lấy người khác tổn hại đối với bản thân mình để gây tổn hại, mà cho rằng đây là một loại khảo nghiệm đối với nó, kiếp trước do bản thân làm sai trái, nay phải hoàn trả lại. Loại ý tưởng này là lấy ý tưởng không phải con người, cảnh giới tư tưởng rất cao, hoặc còn gọi là đắc đạo.
    Bởi vậy đối diện với con người không giống nhau đồng dạng với một sự kiện, thái độ hoàn toàn khác nhau. Cho nên có nội tâm như thế nào, thì thế giới sẽ có như thế đó. Bạn cho rằng người xấu trên đời này, kẻ tiểu nhân nhiều, thì xung quanh sẽ có người xấu cùng tiểu nhân rất nhiều. Bạn cho rằng thế giới này nhiều người tốt, rất ít tiểu nhân, lúc bị tổn hại thì đối với nhân tính cũng sẽ không mất đi lòng tin. Người trẻ tuổi phạm sai lầm, thượng đế đều sẽ độ lượng tha thứ. Nó cho rằng người khác thương hại đối với bản thân là xuất phát từ chỗ sai lầm đối với bản thân mình, thì không phải là tiểu nhân. Người làm tổn thương nó đều có thể được lý giải, vậy còn có cái gì là tiểu nhân chứ?
    Cho nên nội tâm con người quyết định ở âm dương, thế giới cũng quyết định chỗ vị trí của bạn như thế nào, chỗ này là rất then chốt. Đương nhiên mặt khác bên ngoài như thế nào, đối với vài người mà nói thì nội tâm sẽ biến thành như thế nào. Như bên ngoài rất tà ác, thì nội tâm cũng từ từ tà ác. Nó đề phòng người khác, cho rằng con người đều không tốt, vậy mình cũng biến thành ác nhân, nội tâm thì cũng trở nên ác.
    Trời có thể tạo nên con người, còn trái lại mà nói chỗ con người làm gây nên biến thành khí đến Thiên đạo, đồng dạng sau đó sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh con người, đặc biệt là vận mệnh con cháu đời sau. Ý là nói con người cũng có thể thay đổi vận mệnh, tất nhiên là thay đổi vận mệnh con cháu đời sau. Cho nên ông trời có thể tạo nên con người, con người cũng có thể thay đổi ông trời.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  6. Cảm ơn bởi:


  7. #14
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Thập can và âm dương nhất định tất nhiên là có quan hệ, thập can mới là phù hiệu phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung, nếu không, thì không có bất cứ quan hệ nào, thập can chính là thập can, âm dương chính là âm dương. Phải xem chỗ nói trong 《 Đạo Đức kinh 》quá trình trời đất sinh hóa vạn vật, thập can là sản sinh ra cái gì.

    Thập can là ngũ hành sinh hóa ra, thập can là con cái của ngũ hành, ngũ hành là Khí, thập can là Hình. Thập can là Nhân đạo, chính là con người sự vật ở trên thế gian. Mà ngũ hành là khí, là Địa đạo. Cho nên ngũ hành là hoàn cảnh, thế cuộc, chính sách, là chủ khí Địa. Khí ngũ hành là hoàn cảnh, không phải là con người sự vật cụ thể. Vì vậy ở trong bát tự khí dương như khí hỏa thổ đắc dụng, thường là con người theo hướng chủ lưu, cho dù không phải là người của chính phủ, chỗ làm việc cũng là hợp pháp.
    Còn khí ngũ hành là khí âm, hoặc là chỗ hoàn cảnh khá kém, sẽ ảnh hưởng đến tâm tính con người. Nếu như trong cuộc sống hiện thực trong thôn xóm có một người dựa vào sự lừa đảo mà phát tài, đem người nhà mang ra ngoài, kết quả toàn bộ trong thôn xóm đều làm kẻ lừa gạt. Như trong thôn xóm có một người làm ăn mua bán khá tốt, sẽ đem toàn bộ thôn xóm đều lôi kéo đi lên. Đây gọi là khí trường, phong thủy, thế cuộc, hoàn cảnh xã hội.
    Cho nên ngũ hành đã khá là lợi hại, có thể thay đổi tâm tính một con người, có thể ảnh hưởng phú quý bần tiện con người. Cho nên Địa mệnh phong thủy sư chân chính là có thể thay đổi hoàn cảnh phong thủy, còn tầng lớp thứ hai theo nghề mệnh học chân chính mưu sĩ, thầy sắp đặt kế hoạch, nếu so với thầy phong thủy càng lợi hại hơn, không chỉ phải nắm chắc phong thủy có thể thay đổi khí trường hoàn cảnh tự nhiên, mấu chốt nhất là phải điều chỉnh hoàn cảnh nhân văn, hoặc tuyển chọn hoàn cảnh nhân văn. Chỗ nói hoàn cảnh nhân văn chính là thế cuộc, cũng chính là hoàn cảnh khí trường.
    Cho nên nhất định phải chú ý, thập can là do ngũ hành hóa sinh ra, mà ngũ hành là khí, khí biến ra 2 loại hình. Vì vậy mỗi một ngũ hành đều có thể phân hóa ra 2 thiên can, thì ngũ hành biến thành thập can. Mộc phân hóa thành Giáp Ất mộc, Giáp mộc là khí mộc, Ất mộc là hình mộc. Cho nên người Giáp mộc đại biểu khí mộc, người Giáp mộc có một đặc điểm là rất có mùi vị nhân tình, rất là lương thiện, cho nên Giáp mộc đại biểu Thần tính, Phật tính. Người Giáp mộc là rất thông minh, bởi vì là khí mộc.
    Nhưng nếu như Giáp mộc bị chỗ thủy khống chế, gọi là Nhâm tính (tùy hứng), cho nên Giáp mộc thấy thủy là phong lưu tài tử, tình nhân vô số, tùy hứng. Nữ mệnh đa số là mỹ nữ, nhưng hôn nhân bất thuận, nguyên nhân chủ yếu là lúc con trẻ quá tùy tiện, lấy tùy hứng tuyển chọn phối ngẫu, nhưng cha mẹ đều không công nhận, cuối cùng khẳng định bản thân phải hối hận. Cho nên gọi là tùy tiện, phóng túng, tình nhân nhiều.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  8. Cảm ơn bởi:


  9. #15
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Giáp mộc là một người thông minh, nhưng thấy thủy vượng thì không được, sẽ bị chỗ âm thủy khống chế. Khí mộc Thiếu Dương là khí hi vọng, khí dương vừa xuất ra gọi là xuất đầu lộ diện vượt trội xuất sắc. Mà khí dương đại biểu thông minh, xinh đẹp, nhưng khí dương quá ít, vẫn là khí âm nhiều, lại gặp đến thủy vượng thì xong rồi. Nếu thủy vượng mộc không hóa tiết, thì biến thành công cụ cho âm thủy, tuy thông minh, xinh đẹp, nhưng mà tùy hứng làm chuyện xấu, cho nên gọi là phóng túng, túng dục, luôn dẫn đến thân thể, hôn nhân không tốt.
    Khí mộc hóa sinh ra Ất mộc, khí nhược mà hình vượng, là hình mộc, đại biểu sách vở, trẻ em, nông dân. Mộc thấy một chút là hỏa, là người có thủ nghệ, là người có đơn vị nhỏ, người làm việc ở đơn vị cơ sở, làm nghiên cứu văn hóa. Nếu bị chỗ thủy khống chế thì trở thành một rễ cây, thô kệch, mê tín, bảo thủ, không thông suốt, rất dễ dàng biến thành ác ôn. Bởi vì bị chỗ âm thủy khống chế, mộc lại khắc thổ, thì biến thành kẻ ác ôn, bị người khác lừa gạt tiền. Thân thể có bệnh thì hóa giải có dấu hiệu bất lợi trở lên. Cho nên Ất mộc thấy Quý thủy gọi là bệnh nhân, thân thể không tốt, có bệnh phong thấp, tư tưởng khá là cố chấp, cổ quái, bế tắc, truyền thống, khó mà khai thông.
    Ất mộc là hình mộc, khí Thiếu Dương rất suy nhược, thuyết minh khí âm rất đủ bị chỗ âm khống chế, là một nông dân, vẫn không có tiếp nhận giáo dục văn hóa, hoặc chỉ có tiếp nhận rất ít giáo dục văn hóa, là một đứa trẻ, đầu óc vẫn chưa được khai thông, chỉ có thể giải quyết thủ nghệ nhân no ấm, làm chuyện nhà, làm việc ở đơn vị nhỏ, người thu nhập rất thấp.
    Ất mộc nhất định phải thành dương, như thấy hỏa, kim thì thành dương, sẽ biến thành Giáp mộc liền trở nên ưu tú. Giáp mộc là khí Thiếu Dương vượng, khí dương xuất ra, như vậy người Giáp mộc nếu gặp thủy vượng thì có thể hóa tiết một chút, cuối cùng cũng sẽ ăn chay. Người thông minh, cuối cùng đều có thể ngộ đạo, hẳn phải biết không nên sát sinh, ăn chay, tu hành, như vậy thì có thể hóa giải tai nạn cho mình.
    Thập can là chỗ Ngũ hành sinh ra, có thể nói thập can là hóa thân của Ngũ hành, hoặc nói là con cái của ngũ hành, cho nên thập can có thể đại biểu đặc trưng khí và hình của ngũ hành. Bởi vì thập can vốn là con của ngũ hành, chính là đại biểu ngũ hành. Như Giáp mộc đại biểu khí mộc, Ất mộc đại biểu hình mộc, khí biến thành hình, chính là hình thể.
    Thập can là ngũ hành hóa sinh ra, hoặc là nói hóa thân ngũ hành, hoặc là nói đại biểu ngũ hành ở Nhân đạo. Lại nói thêm ở phía trước có thể suy ngũ hành là chỗ tứ tượng hóa sinh, tứ tượng tức là xuân hạ thu đông, là 4 loại khí âm dương: Thiếu Âm, Thiếu Dương, Lão Âm, Lão Dương.
    Tứ Tượng không phải là Ngũ hành, Ngũ hành chỉ là Khí, Ngũ Hành là từ Tứ Tượng mà ra, không nên đem Tứ Tượng và Ngũ Hành xem như ngang nhau, tầng lớp Tứ tượng so với Ngũ Hành cao hơn rất nhiều, Tứ Tượng trực tiếp là Âm Dương, là Âm Dương phân hóa. Phép gọi chính xác Tứ Tượng là Thiếu Dương, Lão Dương, Thiếu Âm, Lão Âm, mà không phải là khí kim mộc thủy hỏa. Kim mộc thủy hỏa gọi là ngũ hành, còn Tứ Tượng là 4 luồng khí âm dương, là mô tả khí âm dương biến hóa cường nhược. Tứ Tượng tức là xuân hạ thu đông, tầng lớp phải cao hơn Ngũ hành. Tứ Tượng là Thiên đạo, phân bố khí ở Địa đạo mới biến thành Ngũ Hành.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  10. Cảm ơn bởi:


  11. #16
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Sau khi biết nguyên lý này, Tứ Tượng có thể cùng Ngũ Hành xem như ngang nhau, nếu không biết nguyên lý thì không thể đem cả hai là ngang nhau, bởi vì cả hai có tầng lớp khác nhau. Tứ Tượng là Thiên đạo phân bố khí đến Địa đạo, đến trên địa cầu mới có đủ ngũ khí kim mộc thủy hỏa thổ, nhưng bản thân Tứ tượng là Thiên đạo, cho nên Ngũ Hành là từ Tứ Tượng mà ra.

    Tứ Tượng chính là âm dương, cho nên có thể đem Ngũ Hành xem như là đại biểu hoặc là hóa thân âm dương. Tứ Tượng chính là âm dương Thiên đạo phân hóa ra, phân hóa thành Thiếu Âm, Lão Âm, Thiếu Dương, Lão Dương, cho nên Tứ Tượng chính là Âm Dương. Chẳng qua đem âm dương phân thành 4 phần, đem từng cái âm dương phân thành 2 quá trình, âm biến thành Thiếu Âm, Lão Âm, dương biến thành Thiếu Dương, Lão Dương. Tứ Tượng là Thiên đạo, thì có thể cùng âm dương xem ngang nhau, Ngũ Hành là chỗ Tứ Tượng sinh ra, Tứ Tượng chính là âm dương Thiên đạo, cho nên Ngũ Hành chính là hóa thân Âm Dương. Mà chúng ta đã biết Thập Can chính là hóa thân Ngũ Hành, vậy thì có thể trực tiếp xem ngang bằng như vậy: Thập Can chính là hóa thân Âm Dương.
    Âm Dương là Thiên đạo, như trong truyền thuyết nói người trời xuống trần, dù sao cũng phải hóa thân, nếu không có hóa thân thì không thể thấy. Thiên đạo là khí nhìn không thấy, đến Địa đạo biến thành Ngũ Hành vẫn là nhìn không thấy, nhất định phải biến thành Thập Can mới có thể trở thành con người sự vật cụ thể. Cho nên nói Thập Can là hóa thân Âm Dương, Âm dương là Thiên đạo, chẳng qua là Thanh khí và Trọc khí, cũng có thể nói Thập Can là hóa thân Thanh khí và Trọc khí. Sắp xếp Thanh khí, Trọc khí là khác nhau, thì biến ra Thập Can, cũng chính là Bát Quái.
    Lại kéo dài ra thêm nữa, Thanh khí chính là Thần Phật, Trọc khí chính là Tà Ma, cho nên Thập Can là hóa thân Thần Phật và Tà Ma. Vì vậy có người nói một người nào đó là thể phụ của tà ma, làm sao người sẽ hung dữ, ác độc như vậy, tại sao nói không rõ như vậy. Tại sao con người với con người lại khác nhau lớn như vậy? Đạo lý đơn giản là có vài người chính là nghe không lọt tai. Như bán hàng đa cốp bị tẩy não, đứa trẻ đều biết là người lừa gạt, mà người ở trong thân chính là nói không hiểu. Có vài người sẽ nói chính là bị thể phụ tà ma, tà ma ở trên thân.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  12. Cảm ơn bởi:


  13. #17
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Có vài người giết người không nháy mắt, quả thực không phải là người, mặc dù là người, nhưng mà bị bản khí âm phụ ở trên, chính là tâm nhập tà ma. Không nên đem tà ma làm sắc thái mê tín, xem thành vật rất sợ hãi. Tà ma chính là tâm nhập tà ma, trong lòng không có tính người và khí dương, đều bị chỗ khí âm kèm chặt, toàn bộ nội tâm bị chỗ khí âm, trọc khí khống chế, mà không có chút khí dương nào. Trọc khí chính là tà ác, ích kỷ vụ lợi, giết chóc, tử vong, hủy diệt, bị những chỗ tư tưởng, ý nghĩ này khống chế.

    Biết chỗ sự tình này, sau khi thông qua bát tự luận mệnh rất thần kỳ đều sẽ hiểu ra, thì cũng có thể phá giải cuộc đời. Tại sao có vài người là như vậy, thì có thể biết nguyên lý, mà nguyên lý đạt thẳng đến Thiên đạo. Con người chính là chỗ Thiên đạo sinh ra.
    Lại kéo dài ra thêm, Thanh khí và Trọc khí ngưng tụ chính là tư tưởng và hành vi con người, là nhận được phúc báo cùng tai báo. Thập Can đã là hóa thân âm dương, Thập Can chính là hóa thân phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung. Như vậy, Thập Can trực tiếp chính là phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung.
    Được phúc báo thì tướng mạo xinh đẹp, lương thiện, thông minh, có thành tựu. Trong Thập Can chỉ cần là lấy khí dương làm chủ, chính là con người như vậy. Tại sao Tân kim gọi là Thiên sứ, người có nhật can tân kim thì có bẩm tính như vậy. Nếu như Hậu thiên không có thay đổi, người nhật can Tân kim chính là rất lạc quan, rộng lượng, rất có phúc khí, hơn nữa còn trợ giúp rất nhiều người.

    Nếu như Địa mệnh Hậu thiên không tốt, người Tân kim cũng sẽ rất ích kỷ, lạnh nhạt, hơn nữa còn là chuyên gia bịa đặt, tổn thương người khác. Bản tính tuy là Thiên sứ, nhưng mà lại chuyên môn tổn thương người khác, cũng chính là nói tâm tính bị khí âm che lấp, khẳng định nguyên nhân là do Địa mệnh.
    Như nhật can Tân kim, sinh ở tháng thủy rất vượng, thủy lại thấu ra, Tân kim dương thấy thủy vượng thì biến thành âm, kim biến thành thủy. Vốn là một Thiên sứ, biến thành thủy thì thành tà ma. Nếu Tân kim không có bị thủy hóa mất, thì bản tính vẫn còn, Tân kim rất thông minh, đều đã qua đào tạo. Vì thế người Tân kim ở dưới tình huống thông thường là có học vấn rất cao, đặc biệt là Tân kim thấy hỏa, hoặc thấy hỏa thổ, chỉ cần có thủy mà không tổn thương, học vấn sẽ rất cao, gọi là tinh hoa kỹ thuật.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  14. Cảm ơn bởi:


  15. #18
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    7, Tổng kết nguyên lý Can Chi luận mệnh

    Can Chi gọi là Phù hiệu học, đã là phù hiệu học, khẳng định là có thể trực tiếp định nghĩa phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung, xấu đẹp thiện ác. Chỗ này thì phải biết can chi là từ đâu mà đến. Can Chi là từ âm dương Thiên đạo diễn hóa ra.
    Âm Dương Thiên đạo chính là đại biểu tâm tính Thần Phật, Tà Ma, cho nên Thập Can thì trực tiếp đại biểu tâm tính Thần Phật, Tà Ma. Thập Can từ âm dương mà ra, khí âm dương thì đại biểu phúc báo và tai báo, phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung. Cho nên Thập Can và những nội dung này thì có thể trực tiếp xem ngang bằng nhau. Đây chính là nguyên lý tại sao Can Chi có thể luận mệnh.
    Nếu như không biết những nguyên lý này là không thể học tốt được mệnh lý, chỉ qua là một chiêu là một chiêu. Mệnh lý truyền lại nhiều năm như vậy, trên xã hội khẳng định là có chút kinh nghiệm, sư phụ này một chút kinh nghiệm, sư phụ kia một chút kinh nghiệm, nếu học thời gian lâu dài, được bái bao nhiêu sư phụ mới có thể học đến một chút kinh nghiệm?
    Mà bát tự thì nhiều biến hóa, kinh nghiệm có đôi khi dùng được, có đôi khi lại không dùng được. Cho nên nhất định phải thông thần, tiếp theo là hiểu Thiên đạo. Con người sự vật của chúng ta đều là từ chỗ Thiên đạo sinh ra, nếu không hiểu Thiên đạo còn có thể toán cái gì. Thì có lúc toán có kết quả là chuẩn xác, cũng không có cách nào kéo dai thêm. Mấu chốt là không có nguyên lý, sẽ là mê tín, tất nhiên sẽ đi lệch hướng. Hơn nữa lúc ngẫu nhiên bạn đoán chuẩn xác, vì kiếm tiền mà phải nói khoác lác, khi nói khoác lác thì sẽ biến thành mê tín. Nếu không nói khoác lác chỉ có thể nói đây là một môn kỹ thuật, nhưng mà không có thăng lên đến độ cao văn hóa, vậy thì rất là ở tầng dưới đáy, nói khoác lác chính là hạng giang hồ ở tầng cửu lưu mê tín hại người.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  16. Cảm ơn bởi:


  17. #19
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Ba, Tam Mệnh thông hội Thiên Địa Nhân
    (1) Ba bộ phận lớn tổ thành Vận Mệnh

    Bên trên là nguyên lý giảng giải can chi tại sao có đủ luận mệnh, tại sao đem mệnh học làm phù hiệu Can Chi học, là chúng ta cho ra được: Trên thực tế can chi là hóa thân âm dương ở Thiên đạo, cũng chính là Thanh khí, Trọc khí, phúc báo, tai báo hóa thân ở Thiên đạo, cũng chính là phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung, xấu đẹp thiện ác. Cho nên dùng can chi thì có thể trực tiếp luận mệnh. Có lúc rất chuẩn, có lúc lại không chuẩn. Trên lý luận nói can chi luận mệnh là rất chuẩn xác, có thể thiết khẩu đoán thẳng sẽ không sai.
    Bởi vì Mệnh học chính là Can Chi học, can chi chính là hóa thân âm dương Thiên đạo, làm sao có thể sai chứ? Nhưng có lúc sẽ sai, như xem một người, cá thể con người thì dùng thập can đại biểu. Nếu như xem nhật chủ là người như thế nào, luận mệnh trước tiên là phải nói cá thể con người tự nhiên, đầu tiên xem nhật can, nhật can chính là loại vật cá thể. Ví dụ như nhật can Giáp mộc, loại vật chính là Giáp mộc, hình thể tướng mạo, tâm tính, hành vi chính là chuyển quanh Giáp mộc làm trung tâm. Giáp mộc nếu như không có bị chỗ âm thủy khống chế, không có bị hỏa tiết thương, không có bị kim chế thương, có căn khí có thể lưu lại, thể hiện ra chính là rất thông minh, đây là sẽ không sai. Tâm tính chính là rất thiện lương, tâm cầu tiến rất mạnh. Bởi vì Giáp mộc là khí Thiếu Dương xuất ra, dương đại biểu thăng tiến, thủy chung ở vật truy cầu là tốt đẹp, bao gồm cả hình thể tướng mạo thanh tú. Mà khi địa chi là một khối thủy, lúc thủy lớn thì mộc phiêu, cho dù không có bị chỗ kim khắc thương, thân thể tất nhiên cũng sẽ sinh bệnh, mặt khác bản thân muốn làm người tốt đi hành thiện tích đức, nhưng trong hiện thực làm không làm người tốt.
    Chỗ này thì phải biết vận mệnh con người thì có 3 bộ phận lớn tổ thành, đó là: Thiên mệnh, Địa mệnh, Nhân mệnh.
    Thập can gọi là loại vật, cũng chính là ông trời căn cứ luật Nhân Quả để làm cho bạn trở thành một loại vật như thế nào. Loại vật nào thì có hình thể tướng mạo, tâm tính hành vi, phúc báo tai báo như thế đó, nhưng đây cũng chỉ là Nhân mệnh. Chỗ nói Nhân mệnh chính là vận mệnh Tiên thiên cá thể con người tự nhiên.
    Địa mệnh chính là hoàn cảnh Hậu thiên, Thiên tạo mệnh, Địa phải dừng lại, Địa chính là hoàn cảnh. Cuộc sống một con người ở một quốc gia, một địa phương, hoàn cảnh như thế nào, ảnh hưởng đối với vận mệnh con người rất lớn.
    Con người không chỉ có Địa mệnh, còn có Thiên mệnh. Thiên mệnh phải xem chủ khí trời. Tam mệnh hoàn toàn dung hòa mới là một vận mệnh hoàn chỉnh.
    Có vài người nhân mệnh khá tốt, nhân mệnh tốt có thể cho là được nhân hòa, vừa thông minh vừa xinh đẹp, quan hệ nhân tế cũng tốt, nhưng chính là có tài mà không gặp thời, chính là Địa mệnh không tốt, hoàn cảnh chỗ ở không tốt. Quan hệ Nhân tế tuy khá tốt, nhưng chính là lãnh đạo đơn vị xem hắn không vừa mắt, hoặc là nói chỗ ở bản thân có thế cuộc xã hội không tốt, là một địa phương nghèo, mặc dù bản thân rất có tài hoa, nhưng địa phương không có chỗ để thi triển tài hoa, chính là Địa mệnh không tốt. Nếu như Thiên mệnh lại không tốt mà không được thiên thời, đại biểu chính sách quốc gia lại không tốt. Người như vậy mặc dù có Nhân mệnh tốt, đại biểu quan hệ nhân tế tốt, người cũng xinh đẹp, có tài năng, cũng chính là so với người bình thường tốt hơn một chút, thậm chí so với người bình thường còn kém hơn. Bởi vì Thiên mệnh không tốt, đi làm một việc bởi vì thay đổi chính sách mà dẫn đến thất bại.
    Vì vậy, vận mệnh con người không phải là đơn giản như vậy, mà trước đây dùng thập thần luận mệnh chỗ quan hệ xã hội chỉ có thể quyết định luận điểm phú quý bần tiện ở bên ngoài, nhân sự tốt xấu.
    Vận mệnh con người không ở bản thân con người, mà là quyết định bởi trời đất, cho nên vận mệnh luôn là dự liệu không đến, người không được coi trọng thì phát tài hết lần này đến lần khác, người xem rất tốt nhưng đến cuối cùng thì cũng không có thành tựu gì lớn. Bao gồm cả đơá trẻ dòng họ bạn bè xung quanh trong nhà, có vài đứa trẻ từ nhỏ thông minh hiếu học lại biết nghe lời, xem như là rất tốt, nhưng mà đến cuối cùng cũng chỉ là hạng tầm thường, còn có vài đứa trẻ từ nhỏ không thích đọc sách đi học, phá phách nghịch ngợm, xem như là rất không tốt, nhưng mà về sau lại rất thành tựu. Chỗ chúng ta xem là tốt luôn đều là chỉ căn cứ vào tính cách, tỳ khí, hành vi con người mà làm ra phán đoán, đây chính là Nhân mệnh. Nhân mệnh mặc dù khá tốt, nhưng mà đến cuối cùng kết quả không tốt, bởi vì vận mệnh con người quyết định bởi có được thiên thời địa lợi hay không thôi.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  18. Cảm ơn bởi:


  19. #20
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    (2) Phân chia Thiên mệnh, Địa mệnh, Nhân mệnh

    1, Thiên mệnh: Thiên mệnh rất nguyên thủy chính là Nguyệt lệnh, nguyệt lệnh chính là Thiên mệnh con người.
    2, Địa mệnh: Địa mệnh là thế cuộc xã hội, cũng chính là kết quả tác dụng của 4 thiên can, 4 địa chi ở trong bát tự, là chủ khí của Địa. Thế cuộc xã hội là sau lúc tác dụng 8 chữ ở trong bát tự, ai là lợi hại nhất, ai là chủ khí của trời đất, ai là lão đại. Chủ khí Địa là Hậu thiên, mà Hậu thiên là nói dựa vào thực lực, nhất định phải xem tổ hợp thập thần hoặc can chi sau khi tác dụng luồng khí nào là lợi hại nhất.
    3, Nhân mệnh: Nhân mệnh chính là loại vật Nhật can, chính là bản thân mệnh chủ.
    (3) Tường luận Thiên mệnh
    Thiên mệnh là lớn nhất, là thiên phú con người, quyết định bởi một vài vật ở Tiên thiên, nhưng thiên mệnh có thể ổn thỏa hay không vẫn phải xem Địa mệnh. Thiên mệnh một khi thể hiện, nếu như Địa mệnh đối với Thiên mệnh không có tạo thành phá hư, giống như có vài người rất kỳ quái, bản thân cũng không muốn sẽ trở thành người như vậy, tại sao lại có hứng thú yêu thích như vậy, tại sao công việc nghề nghiệp sẽ làm cả đời như vậy. Người khác nghĩ không ra, bản thân nó cũng không nghĩ ra, nhưng mà trong cõi u tối có một luồng lực lượng hướng dẫn nó, nhất định nó phải làm như vậy, đó chính là Thiên mệnh.
    Có vài người phạm sai lầm làm trộm cướp, nhiều lần ngồi tù đi ra vẫn cứ làm chuyện như vậy, vẫn là phải ngồi tù. Chỗ này thuyết minh Thiên mệnh chính là rất tà ác, Địa mệnh Hậu thiên lại không có ức chế nó thì khó mà thay đổi. Như sinh ở tháng Hợi Tý Sửu thấu ra thủy mà không thấy thổ, thủy trực tiếp khắc hỏa, tổn thương dương là phạm thượng. Không có thổ đi hóa giải, sửa đổi suốt đời không hết. Cũng chính là nói người này là kẻ tiểu nhân, người phá hỏng cuộc đời.
    Còn có vài người Thiên mệnh tà ác, nhưng Địa mệnh Hậu thiên có thể thay đổi. Như sinh ở tháng Hợi Tý Sửu, tâm tính rất bi quan, hoặc khá là tà ác, đây là tầng sâu kín nhất ở trong tâm tính. Nhưng Địa mệnh Hậu thiên tốt, sau khi có thổ đào tạo thủy thì có thành tựu, tâm tính con người hắc ám, tà ác chuyển hóa thành dục vọng kiếm tiền mãnh liệt và ý thức lo lắng đề phòng ở tương lai. Đem sợ hãi chuyển hóa thành động lực lập mưu thủ danh lợi, mà cuối cùng trở thành người bề trên.
    Nói tìm căn nguyên, là bởi vì kiếp trước làm chuyện xấu quá nhiều, khiến cho nội tâm của hắn rất lo sợ, có chế hóa thuyết minh dùng thủ đoạn hợp pháp, làm đại quan, ông chủ lớn, thông qua làm nên sự nghiệp lớn để khống chế, quản lý rất nhiều người, có địa bàn rất lớn, thì tiền tài của cải đầy. Nhưng nội tâm vẫn cứ lo sợ, muốn làm sự nghiệp càng lớn. Cho nên người như vậy thường là ông chủ lớn thành công sự nghiệp, nhưng trong nhà rất quạnh hiu, đối với ai cũng đề phòng nghiêm ngặt, không tin ai cả.
    Thiên mệnh không tốt nhưng Địa mệnh tốt, tổ hợp can chi chính là thủy vượng, hỏa sinh thổ, thổ khắc thủy. Địa mệnh tốt đại biểu bắt kịp thế cuộc thời đại. Chỗ nói Thiên mệnh chính là do ông trời chú định, bản thân cũng không có cách nào thay đổi và quyết định, bản thân chạy theo Thiên mệnh, bản thân cũng không biết tại sao phải làm như vậy, dù sao thì cũng vui vẻ đi theo, cả đời chỉ làm theo chuyện này. Đây chính là Thiên mệnh chỉ dẫn, là chỗ Thiên mệnh.
    Nhật can là xem hình thể tướng mạo, tâm tính hành vi, tập quán sinh hoạt. Còn linh hồn một con người thì xem Nguyệt lệnh, Nguyệt lệnh chính là linh hồn. Chỗ nói linh hồn chính là chủ tể thần thức tư tưởng, hành vi con người. Nhật can chỉ là tâm tính con người, là bản tính, tính cách, ý nghĩ, tính tập quán tư duy của loại vật, vẫn không phải là linh hồn.
    Nhưng linh hồn loại vật là ở Nguyệt lệnh, trên bản chất con người là bị chỗ linh hồn nguyệt lệnh dẫn dắt. Cho nên bất cứ môn phái nào cũng đền nắm Nguyệt lệnh xem rất coi trọng, như Cách Cục pháp, nhất định phải căn cứ Nguyệt lệnh thủ cách. Thái Cực pháp, bất kể Tiên thiên Thái Cực hay là Hậu thiên Thái Cực cũng nhất định phải lấy nguyệt lệnh định Thể.
    Nguyệt lệnh chính là linh hồn con người, nhưng không phải là lực lượng linh hồn của mỗi con người đều rất mạnh mẽ, cò vài người lực lượng linh hồn là không lớn mạnh, đối với cuộc đời là tỉnh tỉnh mê mê, không biết phải làm gì. Mà có vài người thì từ nhỏ đã có một loại lực lượng linh hồn chỉ dẫn nó phải làm những chuyện gì, mục tiêu cuộc đời khá là rõ ràng.
    Trước đây người ta thường nói con người là một nửa là Thiên sứ, một nửa là Ma quỷ. Như vậy phẩm chất linh hồn là thành phần ma quỷ nhiều hay là thành phần thiên sứ nhiều ? Thì phải xem khí âm dương nguyệt lệnh.
    Phẩm chất linh hồn, khí linh hồn trình độ chuyên nhất thì phải xem can tàng thanh thuần: Tý Ngọ Mão Dậu rất chuyên nhất, năng lượng linh hồn rất lớn; Thìn Tuất Sửu Mùi tứ tạp khí rất phân tán, khí linh hồn rất hỗn tạp; Dần Thân Tị Hợi cũng khá là hỗn tạp.
    Linh hồn Nguyệt lệnh cũng phân ra làm mấy tầng, xem can tàng ở địa chi. Chỉ có một can tàng, thì năng lượng linh hồn rất lớn. Nếu như là khí dương, năng lượng chính rất lớn, nếu như là khí âm, tà khí rất nặng. Một khi thấu ra, thì người này nhất định sẽ bị linh hồn chỉ dẫn.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  20. Cảm ơn bởi:


 

 

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •