Chào mừng đến với Tử Bình diệu dụng.
Trang 3 của 4 Đầu tiênĐầu tiên 1234 CuốiCuối
Kết quả 21 đến 30 của 36
  1. #21
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Đưa ra mấy ví dụ rất đặc biệt, cả đời đều đi làm một sự kiện. Người xung quanh đều sẽ không muốn đến mệnh chủ để làm chuyện này, nhưng nó lại hàng ngày cứ làm chuyện này.

    VD 1, Càn tạo: Canh Tuất, Mậu Dần, Nhâm Thân, Mậu Thân (Tuất Hợi không)
    Mệnh chủ là một chuyên gia Tính danh học, dạy học rất nỗi tiếng. 10 năm trước thì bắt đầu kính tâm làm sự nghiệp công ích tôn giáo, tin phật hành thiện. Rất nhiều người xung quanh không muốn đến hắn sẽ thành tín tôn giáo như vậy, nhưng hắn cứ vui vẻ làm không biết mệt, mà còn làm rất tốt.
    Tạo này chú định kết duyên cùng tôn giáo, tu hành, là không có Thiên mệnh. Nhưng loại vật nhật can của hắn lại là Lão Âm Nhâm thủy có dục vọng danh lợi rất là mãnh liệt. Chỗ này làm sao giải thích? Linh hồn là tháng Dần khí Thiếu Dương, tháng Dần là tháng âm, nhưng đã là mùa xuân, khí dương có chút từ từ lộ ra. Nội tâm vẫn khá là giòn yếu, đối với trước đây cuộc đời có cảm giác chuộc tội. Ví Giáp mộc là đại biểu giác ngộ, sau khi giác ngộ, phải biết chuộc tội, hành thiện tích đức. Cuối cùng phải xem linh hồn là có thể hiện ra hay không.
    Linh hồn ở tháng Dần khí âm vẫn còn nặng, nhưng mà giác ngộ, phải hành thiện. Tuy có cảm giác sợ hãi, cảm giác chuộc tội, nhưng mà giác ngộ. Sau khi giác ngộ có vài người chỉ là thỉnh thoảng làm chút việc thiện mà thôi, nhưng có vài người sẽ đi hành thiện tích đức thực sự. Mệnh chủ có một đoàn đội lớn, bản thân làm lĩnh đạo, hành thiện tích đức.
    Tại sao đem tâm giác ngộ biểu hiện ra, thể hiện là tín ngưỡng tôn giáo, hành thiện tích đức? Mộc là giác ngộ, có vài người chỉ qua là ngẫm lại mà thôi, sẽ không đi làm thực tế. Bởi vì Dần mộc thấy đến Tuất thổ, Tuất thổ chính là miếu tự, thì có dấu hiệu thể hiện ra ở phương diện tôn giáo mãnh liệt. Mấu chốt nhất là ở trong Dần mộc tàng Giáp Bính Mậu, Mậu thổ thấu can. Mậu thổ sau khi giác ngộ thì phải đi làm việc thực tế, còn Bính hỏa là truyền bá. Nếu như thiên can thấu ra Bính hỏa, sau khi giác ngộ phải đi truyền bá tôn giáo. Chỗ mệnh chủ làm cũng là một loại truyền bá tôn giáo, nhưng không lấy việc dạy học làm chủ, chỉ qua thỉnh thoảng tham gia giảng dạy. Bởi vì Mậu thổ cũng đại biểu giảng dạy, nhưng Mậu thổ chủ yếu đại biểu làm việc thực tế. Bởi vậy sau khi giác ngộ, cũng dẽ đi giảng dạy, nhưng chủ yếu là hành thiện tích đức.
    Trước đây mệnh chủ làm Tính Danh học thì cũng phải giảng dạy, hiện tại cũng giảng dạy ở phương diện phật giáo, nhưng lấy làm việc thực tế làm chủ. Nếu như thấu ra Bính hỏa là chuyên môn giảng dạy, còn Mậu thổ cũng sẽ giảng dạy, nhưng mà phải làm việc cụ thể. Vì Mậu thổ là lò lửa nhân gian, là trợ thủ, bí thư, truyền dạy, làm việc, trong Mậu thổ có hỏa, cho nên cũng đại biểu giảng dạy.
    Ai cũng muốn không đến mệnh chủ làm ở phương diện tôn giáo phải có thanh danh. Nhưng vừa nhìn bát tự thì biết có duyên với phật rất sâu, có giác ngộ đồng thời sẽ đi làm. Nếu như không có Mậu thổ chỉ qua là giác ngộ, nhưng sẽ không đi làm thực tế. Bởi vì Dần mộc gặp đến Tuất thổ, trên Tuất thổ có Canh kim, Tân kim gọi là Thiên sứ, còn Canh kim không phải là Thiên sứ, Canh kim thấy hỏa chính là Thiên sứ, tu hành, phương thức hành thiện là quyên trợ tiền tài.
    Giáp mộc là học tập, tu phật, Tân kim là quyên trợ tiền tài cụ thể. Mệnh chủ chính là chuyên môn làm công việc ở phương diện này, liên quan đến quyên trợ tài vật cụ thể. Cho nên trụ ngày Canh Tuất, rất nhiều người sẽ tin Phật, hơn sẽ sẽ thường đến trong miếu tự để quyên trợ tiền tài.
    Mệnh chủ hành thiện tích đức chính là Thiên mệnh, trước đây bản thân đều không có nghĩ đến, nhưng đến sau này thì sẽ đi làm, hơn nữa còn làm với thời gian rất dài. Trừ phi gặp đến tuế vận đem thổ tiêu diệt, như thấu ra mộc, nhưng thổ có kim bảo hộ, cũng khó mà tiêu diệt. Trừ phi tuế vận xuất hiện mộc hỏa, nhưng vẫn cứ sẽ làm, có điều tần suất sẽ không cao như vậy. Có vài Thiên mệnh thấu ra, là chuyện cả cuộc đời.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  2. Cảm ơn bởi:


  3. #22
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    VD 2, Càn tạo: Ất Dậu, Kỷ Mão, Đinh Dậu, Bính Ngọ (Thìn Tị không)
    Mệnh chủ là nhà thư họa nỗi tiếng.
    Tạo này thấu ra Ất mộc, hỏa khắc kim, mộc tự do lại là chủ khí. Cũng chính là nói mệnh chủ có thể trở thành nhà thư họa, mấy chục năm thậm chí cả đời làm chuyện này đều là Thiên mệnh. Có vài người thành công là dựa vào Địa mệnh mà không phải là dựa vào Thiên mệnh, còn có vài người thành công chính là dựa vào Thiên mệnh.
    Trở thành nhà thư họa không có là chuyện trong một, hai năm, thường là sự tình đến mấy chục năm, thậm chí cả đời. Rất nhiều người đều làm qua thư họa, bao gồm cả trẻ em hiện tại, cha mẹ sẽ làm cho đứa trẻ có rất nhiều hứng thú tham gia học tập, như thư họa, khiêu vũ, ca hát. Nhưng mà có vài người học một,, hai năm rồi bỏ, còn có vài người chính là đi học cả đời, đây chính là Thiên mệnh.

    VD 3, Càn tạo: Kỷ Dậu, Giáp Tuất, Bính Dần, Ất Mùi (Tuất Hợi không)
    Mệnh chủ trên cơ bản là cả đời không có tham gia qua công việc, mấy chục năm ở trong nhà tu phật, học tập Chu Dịch, hầu như cả đời đều làm chuyện này. Chỗ này chẳng lẽ đều là Thiên mệnh.
    Cuộc đời như vậy khẳng định là ở chỗ Thiên mệnh, Địa mệnh lại đi ủng hộ, vậy thì rất khó mà thay đổi. Tuất thổ sau khi thấy Dần mộc, Dần Tuất chính là văn hóa, tôn giáo. Dần Tuất hóa hỏa, thiếu khuyết Ngọ hỏa, như vậy thì cảm ứng sẽ xảy ra. Giáp mộc Bính hỏa lại thấu ra, Giáp Bính là tôn giáo, Ất Bính là văn hóa. Linh hồn xem Nguyệt lệnh, tháng Tuất nếu thấu ra Mậu thổ, Đinh hỏa, Tân kim, nếu như trong bát tự có tín hiệu tôn giáo, là phải làm cả đời, hoặc khẳng định là đến một lúc nào đó thì sẽ đi làm phương diện này, hơn nữa sẽ làm cả đời. Mà vật ở trong Tuất đều không có thấu ra, nhưng mà Tuất thổ và Dần mộc sau khi phát sinh tác dụng, thì Dần mộc có thể đại biểu Tuất thổ. Trong Dần mộc có Giáp, Bính, Mậu lúc thấu can, đều có thể trực tiếp đại biểu linh hồn.
    Tuất Dậu hại, là hỏa khắc kim, Hậu thiên không có chút nào công năng ở phương diện danh lợi, cho nên hầu như cả đời đều không có công việc, thì ở trong nhà tu phật, tu đạo, bát tự như vậy có rất nhiều.
    Như bản thân khí tháng Mão, Dậu là rất thuần, lại thấu can, cả đời tử nhỏ đến gìa đều không thay đổi. Chỗ làm sự tình cũng không phải do bản thân chọn lựa, mà là Thiên mệnh.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  4. Cảm ơn bởi:


  5. #23
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Bốn, Khái luận về Hình pháp và Khí pháp

    Luận mệnh phân ra Hình pháp và Khí pháp, phải biết Hình pháp và Khí pháp là nói cái gì, trình tự thao tác và nguyên lý luận mệnh là ra sao.
    Bên trên đã giảng giải luận mệnh trời đất diễn hóa vạn sự vạn vật luận mệnh, tại sao nói thập can có đủ đại biểu phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung. Bao gồm cả thập thần cũng có thể xem quan hệ nhân sự, chỗ thuộc tính xã hội quyết định phú quý bần tiện.
    Đem những nguyên tố này tổ thành bát tự, bát tự có thể tìm đến nguyên lý luận mệnh, tiếp theo chính là chân chính luận mệnh. Luận mệnh chẳng qua là có hai loại, kết hợp Tiên thiên và Hậu thiên, hoặc là nói thông qua xem đến Hình, chính là can chi, thập thần, cung vị ở Nhân đạo và xem Khí không thấy được để luận mệnh.

    Vận mệnh con người bao gồm 3 bộ phận lớn: Thiên mệnh, Địa mệnh, Nhân mệnh. Nhân mệnh quyết định hình thể tướng mạo, tâm tính, tính cách của con người và sự vật, có hay không có, nhiều ít. Nhưng không nhất định là con người xinh đẹp thì có đại phú quý, phú quý chân chính quyết định do thiên thời địa lợi, chỉ có Khí pháp mới có thể nhìn ra, Khí pháp chính là phép nói về Thiên mệnh và Địa mệnh. Nhân mệnh chỉ có thể xem người này thuộc về loại người như thế nào, chân chính đại phú quý, tai họa khẳng định là do tạo hóa từ Thiên mệnh và Địa mệnh. Đây chính là kết hợp tam mệnh Thiên Địa Nhân, kết hợp Hình pháp và Khí pháp, kết hợp Tiên thiên và Hậu thiên. Như vây thì một cuộc đời mới là rất hoàn chỉnh.
    Nguyên lý cùng trình tự thao tác Hình pháp và Khí pháp nói ở phần dưới.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  6. Cảm ơn bởi:


  7. #24
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Một, Điểm thiết nhập dự trắc Hình pháp: Can chi và Thập thần.

    (1) Nguyên tố tổ thành Hình và phương pháp dự trắc Hình pháp
    Phương pháp dự trắc Hình pháp cụ thể chỉ có hai loại, bởi vì trong bát tự lúc căn cứ chế định phương pháp Hình pháp là Hình ở trong bát tự. Hình có 3 loại là: Can chi, Thập thần, Cung vị. Can chi là nguyên thủy nhất là cơ sở nhất, là con người sự vật cụ thể, con người và sự vật trong tự nhiên, là cá thể độc lập; Thập Thần là quan hệ nhân sự sau khi can chi va chạm vào nhau; Cung vị là điểm dừng chân của con người sự vật, không phải là đặc ý sử dụng để biểu thuật nhân sự. Biểu thuật con người và sự vật chỉ có hai bộ phận lớn đó là: Can chi và Thập thần.
    Do vậy chỗ hai phương pháp lớn mà chúng ta cần luận Hình pháp chính là lấy can chi và thập thần làm chủ: Một là phép Can chi “Tự bính Tự”, lấy can chi làm chủ, bởi vì can chi đều là thuộc phạm trù ngũ hành, can và chi đều là thông nhau, còn gọi là Thập Can “Tự bính Tự”; Sau đó là dùng phép Thập thần trung hòa, lấy Thập thần làm điểm thiết nhập.
    Lần sửa cuối bởi Hùng804, ngày 19-04-17 lúc 13:11.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  8. Cảm ơn bởi:


  9. #25
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    (2) Khái thuật phép Thập Thần trung hòa

    Thập thần pháp, hiện tại lưu truyền trên xã hội, mấy chục năm nay xu hướng chính đều dùng ở phép cân bằng vượng suy. Phép cân bằng vượng suy trình tự bản chất trên phương pháp là không có sai, nhưng bởi vì không biết nguyên lý, công năng của nó cũng không có mạnh mẽ như vậy, hơn nữa trên thực tế cũng không phải là xem cân bằng vượng suy. Lấy Thập Thần để luận mệnh, nó không phải là xem cân bằng, mà là xem trung hòa. Mọi người hãy suy nghĩ một chút, tại sao Thập Thần không phải là xem cân bằng? Mà tại sao chỉ xem trung hòa? Những cái nguyên lý này nhất định phải biết. Dùng Thập thần luận cân bằng ở trên xã hội, ví dụ như nói nhật chủ khá nhược, Tài tinh so với nhật chủ phải vượng hơn, có vài người cũng không phải là sợ vợ, hôn nhân vẫn cứ là rất tốt, vẫn cứ là một ông chủ lớn; hoặc là nói một nhật chủ rất vượng, Quan tinh khá nhược, nhưng vẫn cứ là người có địa vị; nhật chủ rất vượng, chỉ có một Thực Thương tiết thân, người này cũng là có kỹ thuật có tài hoa. Ở đây thì mọi người cần phải xem xét một chút, tại vì sao Thập Thần không nói cân bằng?
    Học mệnh lý chính là nghiên cứu cuộc đời, bạn phải nắm nó để làm rõ, nếu như chỗ này đều không làm rõ, thì học mệnh lý là không tốt, nó chính là một loại mê tín. Bởi vậy vật âm dương không phải dễ dàng mà thâm nhập, muốn thâm nhập thì làm hoàn toàn thấu triệt, nếu không chính là một vật rất mê tín. Thì giống như Phật giáo và Đạo giáo, đều là thuộc về tầng lớp Đạo, nhưng mà trên xã hội hiện tại nhìn thấy đa số đều là mê tín, trái lại trở về căn nguyên mê tín.

    Thập thần, là nói quan hệ nhân sự, là nơi xã hội bình phẩm đối với bạn, là nói hài hòa cùng mâu thuẫn, mặt chính và mặt phụ, hữu tình và vô tình, mà không hề nói là cân bằng. Tứ Hung thần Kiêu Sát Thương Kiếp đều thuộc về một loại trạng thái không hài hòa, thái độ và hoàn cảnh không tốt, ở đây không nói đến cân bằng, nếu không tốt thì phải đến trung hòa nó một chút, như Thất Sát vượng, dụng Thực thần chế; Kiêu thần vượng, dụng Tài tinh chế. Do đó quan hệ xã hội là nói sự hài hòa, mọi người muốn ổn định, hài hòa, muốn đi theo trào lưu chính. Chỗ Cát thần đại biểu chính là chỗ này, còn Hung thần là đại biểu phá hư cùng mâu thuẫn, là trạng thái bệnh thái.
    Lần sửa cuối bởi Hùng804, ngày 19-04-17 lúc 13:20.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  10. Cảm ơn bởi:


  11. #26
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Có vài người hung thần trong bát tự không có chế hóa, nhưng mà có Cách Cục hoặc là có Thái Cực, khẳng định người này sẽ có thành tựu, chẳng qua là hoàn cảnh xung quanh và quan hệ nhân tế rất kém, hoặc nó là phá hư quan hệ xã hội, trong xã hội có rất nhiều người thành tựu danh lợi chính là như vậy, thập thần chính là nói ở chỗ này.
    Trái lại mà nói, nếu như thập thần trung hòa, tất nhiên sẽ thể hiện một mặt tốt. Âm có thể chuyển hóa thành dương, dương có thể phát dụng chế âm. Ví dụ như nói Thất Sát rất vượng, bản tính Thất Sát chuyên môn là làm chuyện phá hư, một khi Thất Sát có chế, thì người này chính là chuyên gia xử lý nguy cơ, năng lực xử lý sự vụ xã hội là rất mạnh mẽ, bất kể là chính hay là tà, đều có biện pháp giải quyết cho bạn; hoặc là nói Thương quan rất vượng, Thương quan chính là nghịch ngợm phá phách, làm ra chuyện phiền não cho xã hội, Thương quan có chế, tượng Thương quan phối Ấn làm thầy giáo rất tốt. Thương quan làm chuyện phá phách, là đứa trẻ con, tiểu nhân, cùng với tính chất Thất Sát là không giống nhau, Thất Sát làm chuyện phá hư là mang tính hủy diệt, Thương quan cũng chính là làm một chút phá phách, trong lòng mang tính trẻ con tùy hứng, cho nên Thương quan phối Ấn là rất thích hợp làm nghề thầy giáo, có một bộ phận đối với việc quản lý trẻ con, dạy dỗ sẽ rất thích hợp, trẻ con nhìn thấy nó đều sẽ nghe theo. Có tổ hợp Thương quan phối Ấn, chỉ có thể nói nó có thể xử lý một vài mâu thuẫn có liên quan đến phương diện Thương quan, nhưng mà vị tất là sẽ thể hiện phú quý, chỉ qua là tính cách tỳ khí nhận được ức chế, năng lực xử lý sự vụ mâu thuẫn mạnh, thể hiện ra mặt tốt là trung hòa, những cái khác cũng loại suy tương tự.

    Pháp Thập thần trung hòa là căn cứ mỗi một quan hệ giữa thập thần và nhật chủ, để tiến hành định vị xã hội. Như Tài tinh cùng nhật chủ trung hòa hữu tình, có thể nhận được tài của phú quý, nhưng giàu có tối đa cũng chỉ là tiểu phú, phú quý ở Nhân đạo đều sẽ không lớn bao nhiêu; nhật chủ cùng Quan tinh hài hòa hữu tình, khẳng định là người làm quan hoặc là nhân viên quản lý; nhật chủ cùng Thất Sát hữu tình, là chuyên gia xử lý nguy cơ, có địa vị; nhật chủ cùng Thương quan hữu tình, Thương quan có chế hóa, dụng Ấn làm giáo dục, là người thông minh, Thương quan sinh Tài, thông minh tài trí có thể phát huy trở thành tài phú.
    Lần sửa cuối bởi Hùng804, ngày 19-04-17 lúc 13:19.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  12. Cảm ơn bởi:


  13. #27
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    (3) "Cân bằng" Ngũ hành

    Ngũ hành cân bằng là một bộ phận của trung hòa, chủ yếu còn phải xem âm dương hòa hợp.
    Nếu như âm so với dương vượng hơn hoặc là vượng xấp xỉ nhau, dường như là khó giải quyết vấn đề. Ví dụ như nói thủy vượng, dụng dương cân bằng, có thể dụng hỏa, thổ, mộc. Lúc thủy chỉ cần vượng hơn hỏa một chút, hoặc là cùng hỏa như nhau, đặc biệt thủy lại là Thể, thì hỏa không cần dùng, khẳng định phải tổn thương dương, cả đời nhấp nhô, quan phi khẩu thiệt, thậm chí tử vong. Lúc nào thì gọi là Thủy Hỏa ký tế? Khẳng định hỏa phải là Thể, hỏa so với thủy vượng hơn rõ ràng, đồng thời lại có thể hài hòa hữu tình, mới là Thủy Hỏa ký tế chân chính, mới có thể xưng là cân bằng. Dụng hỏa không được, dụng thổ phải xem tình huống, thổ chỉ cần là tổ hợp đến vị trí Mậu thổ có căn không bị tổn thương, chính là so với thủy nhược hơn rất nhiều đều có thể cùng thủy vượng hình thành trạng thái cân bằng.
    Cho nên, thủy hỏa cân bằng không pphai3 là xem lực lượng, đầu tiên phải xem Thể Dụng, Thể Dụng cũng là căn cứ tuyến lực lượng mà ra, hỏa vượng dụng thủy cân bằng gọi là Thủy Hỏa ký tế, thủy hỏa vượng như nhau, là không cân bằng, là chinh chiến tất có họa. Nhất định phải hoàn toàn lý giải cân bằng, lý giải cân bằng thì mới có thể dùng, nếu như không lý giải được, thì trực tiếp dùng trung hòa.
    Thập thần và Ngũ hành can chi, một là nói thuộc tính xã hội, một là nói thuộc tính tự nhiên, nếu như thuần túy dùng cân bằng quá mơ hồ, là không thỏa đáng. Thập thần là nói trung hòa, can chi cũng có thể nói cân bằng, chỗ cân bằng này cũng là một bộ phận nhỏ ở trong trung hòa, vẫn là dùng đúng vị trí trung hòa. Cân bằng đa số người sẽ lý giải thành lực lượng, đây chỉ là một phương diện ở bên trong đó, chủ yếu vẫn là xem quan hệ âm dương.
    Hình pháp không có phương pháp dư thừa, bất kể một môn phái nào, đều có thể dùng hai loại phương pháp ngũ hành can chi và thập thần để phân loại, Hình là can chi, thập thần, cung vị. Cung vị là nơi dừng chân của con người và sự vật, là nhà, có thể lấy ra rất nhiều tượng, nhưng mà nó chỉ là phục vụ cho con người sự vật, con người sự vật dụng can chi và thập thần để đại biểu, can chi Tự bính Tự và phép trung hòa Thập thần.
    Pháp trung hòa Thập thần không chỉ có thể xem chỗ Tài Quan làm đại biểu danh và lợi, còn có thể xem quan hệ nhân sự và năng lực ở phương diện nào. Thập can Tự bính Tự không hải là xem quan hệ nhân sự, là xem một người cao thấp ốm mập, trắng đen xấu đẹp, công việc nghề nghiệp cụ thể, có tài hoa tài năng hay không, có sự phân công, độc lập nhưng thống nhất.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  14. Cảm ơn bởi:


  15. #28
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    (4) Ứng dụng can chi “Tự bính Tự” trong Hình pháp

    Can chi Tự bính Tự là sự thăng hoa của Tiên thiên Thái Cực, trong bát tự bất cứ một chữ nào cũng đều có thể định vị, có thể dùng để xem con người sự vật. Ví dụ như xem vấn đề học tập và thành tựu của nhật chủ, có thể lấy nhật chủ làm trung tâm, tiền đề tất cần phải học tốt Tiên thiên Thái Cực. Tiên thiên Thái Cực là hệ thống mô tả đối với một con người, mô tả phương diện từ hình thể tướng mạo, tài hoa tài năng, công việc nghề nghiệp, tình cảm hôn nhân, nhưng nó là vật của Nhân đạo, không luận phú quý bần tiện thọ yểu cát hung chân chính, là luận tình huống cơ bản của một cá thể ở trong xã hội.

    VD 1, Càn tạo: Canh Tý, Mậu Dần, Bính Dần, Nhâm Thìn (Tuất Hợi không)

    + Xem Tiên thiên Thái Cực: Tháng Dần, Thiếu Dương phải thành dương, thấy Nhật can Bính hỏa là thành dương, bản thân là con trưởng. Thành dương dùng âm cân bằng, gọi là Dương thành. Dựa vào điểm công năng dương làm việc ở trên xã hội, tất có thành tựu. Con người ở trên xã hội thông qua phương thức nào, lấy cơ sở nào ở trên xã hội nhận được thành tựu, đây chính là điểm công năng. Dương chính là Thể, chính là điểm Thái Cực, là cơ sở hành nghiệp, phương hướng, mục tiêu, nhận được thành công. Dụng thần là thủ đoán và phương pháp.
    Mộc Hỏa dương đại biểu bản thân, nội bộ, Tiên thiên, mộc đại biểu sách vở, học tập, hỏa đại biểu tư tưởng, thành tựu, tài hoa. Cho nên mộc hỏa muốn thành công, nhất định phải dựa vào bản thân, tri thức, thủ nghệ, tài hoa, tư tưởng của bản thân làm trung tâm để thành tựu, thủ đoán dụng âm để cân bằng.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  16. Cảm ơn bởi:


  17. #29
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    Dụng thần Bính hỏa, tốt nhất là thủy, làm sự nghiệp; sau đó là kim, làm quản lý, thương nghiệp, mở cửa hiệu; cuối cùng là thổ, kỹ thuật thực dụng, tầng lớp cao thấp khác nhau. Thành dương dụng âm, điểm then chốt nhất vẫn là có âm dương cân bằng. Dương nhược dụng âm nhược, dương vượng dụng âm vượng. Bính hỏa sinh ở tháng Dần trường sinh, là nhược. Tốt nhất dụng thần là Quý thủy, Quý thủy cũng không thể thái vượng, sau đó là kim, kim cũng không thể thái vượng, cuối cùng là thổ. Lúc dương nhược dụng kim, nhất định không thể kim vượng đi khắc mộc, hỏa dựa vào mộc để sinh trợ, kim tổn thương mộc cũng ngang với tổn thương hỏa, cũng chính là tổn thương dương. Tổn thương mộc là tổn thương thân thể, tổn thương hỏa cáng mất mạng. Mộc Hỏa là một nhà, đều đại biểu nội bộ Tiên thiên, mộc đại biểu thân thể, hỏa là mức độ sức khỏe, tư tưởng, tài hoa.
    Tháng Dần Mão dương nhược, Hậu thiên không có sinh trợ, thiết kỵ không thể dùng Nhâm thủy, dễ tổn thương dương là có họa. Bát tự này dụng kim rất tốt, dụng thổ cũng được, lực lượng Mậu thổ tiết hỏa lớn, nhưng ở tháng Dần là tử tuyệt, tiết không bao nhiêu, hơn nữa còn có thể dùng để khắc thủy. Kỷ thổ cũng được, lực lượng Kỷ thổ tiết hỏa lớn, là tiết Đinh hỏa, đối với Bính hỏa mặt hình khí có lực tiết rất nhỏ. Có dụng thần, có thể thành Tiên thiên Thái Cực, tất có thành tựu. Trụ năm Canh kim không vượng, có thể dụng, trụ tháng Mậu thổ có thể dùng, trụ giờ thì Nhâm thủy vượng, rất sợ Nhâm thủy, là âm phạm dương, tất có họa. Ngoài ra Bính Đinh hỏa ở tháng Dần Mão, ngoại trừ sợ Nhâm thủy vượng, còn sợ kim thái vượng. Nhất là lúc kim vượng làm hại mộc, tất có họa, như tổn thương gân động cốt, tai họa xe cộ, thậm chí tàn tật.
    Năm tháng đều là dụng thần, ở tuổi trẻ có đơn vị, ở năm 1988, 1989 phát tài mấy vạn, kim thủy đại biểu thị trường, tiêu thụ, Mậu thổ có thể là trung giới, ở đơn vị làm nhân viên vật tư phát tài. Đến trụ tháng Mậu Dần, từ đơn vị đi ra, có thể làm văn hóa, mở cửa hiệu, làm trang phục, cũng có thể viết sách, chỗ hành nghề này cơ bản đều làm qua. Thấy Mậu thổ nhược cân bằng chỉ có thể đại biểu y thực phúc khí, không có tiền tài bao nhiêu. Đến trụ giờ thấy Nhâm thủy, làm qua mấy lần sự nghiệp đều thất bại, mở công ti bị phá bại. Loại hình mệnh này làm ông chủ nhỏ cho họ hàng là tốt nhất, không thể làm lớn, làm lớn sẽ phá. Nhâm thủy không phải là dụng thần, mà là kỵ thần. không phải là âm thấy dương hoặc là dương thấy âm là tốt, chủ yếu nhất vẫn là âm dương cân bằng. Dần mộc còn là làm việc động thủ, tháng Dần xuất ra Bính hỏa rất nhược, năng lực vẫn không thể trở thành ông chủ lớn, làm ông chủ nhỏ, còn phải đi động thủ làm một chút sự mới được, nếu như thấy đến Quý thủy, chính là ông chủ nhỏ, có thể mở công ti, chỉ có thể mở công ti nhỏ. Người rất là tài năng, mộc hỏa là có tài hoa, có âm cân bằng là tài năng, chỉ qua là năng lực không đủ mạnh, dã tâm không thể lớn.

    Đây chính là vận mệnh, chính là sự sắp đặt cuộc đời, một người nên làm chuyện gì, nên làm cái gì, đều là có số định. Bát tự chính là cuộc đời, bát tự có dạng nào thì cuộc đời có dạng đó, cuộc đời có dạng nào thì sẽ đối ứng với dạng bát tự đó, hầu như giống nhau như đúc.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  18. Cảm ơn bởi:


  19. #30
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    Jun 2014
    Bài viết
    858
    (5) Ứng dụng phép trung hòa Thập thần trong Hình pháp

    Sự tình cuộc đời có rất nhiều, cũng có rất nhiều mặt, có thể dùng phương pháp khác nhau từ các góc độ để tra xét, chỉ cần có phương pháp đúng, thì có thể nhìn thấy một bộ phận câu chuyện cuộc đời, đều có thể dùng để làm dự trắc, chỉ qua là có chút nhỏ hẹp. Thông thường dự trắc sư, bắt một thập thần, tự bính tự đã là đủ, đã là một cao thủ, nó chỉ qua là dự trắc mà thôi, dự trắc ở trên rất nhiều sự tình cuộc đời chỉ qua là rút ra một bộ phận tượng, nhưng cũng đã đủ.
    VD 2, Khôn tạo: Bính Ngọ, Nhâm Thìn, Đinh Tị, Kỷ Dậu
    Thập thần xem bát tự này, thân vượng, có Quan tinh hợp thân, Quan tinh không vượng mà thiên nhược, trụ giờ Thực thần thiên vượng, Tài tinh không vượng cũng không nhược, có Kỷ thổ sinh, vật có nguồn sinh thì cũng sẽ không quá nhược, cũng không có thụ thương, Tị Dậu hợp, dưới tình huống bình thường là hóa kim, nếu như không hóa là vì Bính hỏa hợp trói Tân kim, Hình Khí lực khắc nhỏ, chủ yếu là thủ tượng tin tức, không giống Dậu Tuất, Dậu Tuất thì trực tiếp sẽ thụ thương.
    Độ trung hòa Thập thần thông qua Nhật chủ và mỗi một Thập thần, để định vị thân phận địa vị và quan hệ nhân sự của nhật chủ ở trong xã hội, Quan Sát hữu dụng hài hòa hữu tình, tất có thân phận địa vị nhất định, thụ thương thì tất có họa. Quan tinh này khá nhược nhưng vẫn có thể dùng, cùng nhật chủ Đinh Nhâm hợp, vẫn tính khá là có tình. Vấn đề chủ yếu là ở Kiếp tài, Kiếp tài Bính hỏa so với nhật chủ phải vượng hơn, ½ vẫn vượng nhiều hơn, Bính hỏa cũng phải phú quý, muốn cùng nhật chủ tranh đoạt Nhâm thủy, năm tháng là đồng gia đầu tiên phát sinh quan hệ rất dễ dàng đoạt mất, cho nên Nhâm thủy và nhật chủ chỉ có thể nói là khá có tình. Hợp mà không khắc, Quan tinh cũng không có thụ thương.
    Kiếp tài là hung thần, cũng phải dụng Quan tinh để chế, cho nên thì xuất hiện khẳng định là sẽ có sự nghiệp nhất định, có đơn vị, còn có thể có một vài chức vụ nhỏ. Bởi vì Bính hỏa tranh đoạt, sẽ từ trong đơn vị đi ra. Quan tinh cũng có thể xem có quan hệ cùng chồng, Đinh Nhâm là hợp ân ái, nguyên nhân vẫn là từ Bính hỏa, nó cũng muốn lấy được người chồng này, hôn nhân dễ dàng có vấn đề xảy ra. Hiện thực là người chồng rất ưu tú, bị người cám dỗ đi, bởi vì Bính hỏa thực lực so với bản thân mạnh hơn, lại cần phải có Nhâm thủy để cân bằng, tranh đoạt rất dễ dàng. Bất kể là xuất danh hay là chức vụ, đều sẽ có người đến cùng mình cạnh tranh, hơn nữa Nhâm thủy này bản thân chính là thuộc về Bính hỏa, năm tháng đồng gia là Tiên thiên, gọi là duyên phận.
    Nhật chủ vẫn có một điểm công năng chính là Kỷ thổ, Kỷ thổ Thực thần có thể cân bằng, Thực thần đắc dụng, dụng tài hoa và kỹ thuật để kiếm tiền, kim là sản phẩm, mang chút sản phẩm, đây cũng là một loại phương thức thích hợp nhất. Nếu như mở công ti làm sự nghiệp, cừa bắt đầu thì có chút thành tựu nhỏ, về sau khẳng định sẽ vì đối thủ cạnh tranh mà thất bại, không thể khuếch trương.
    Con người là có mệnh, bát tự đều sẽ nói cho bạn biết, theo con đường nào sẽ thành công, hoặc theo con đường nào là sẽ thất bại, đây là chuyện tất nhiên. Nếu không con người đều có thể muốn làm gì thì làm, cuộc đời sẽ không có đơn giản như vậy.
    Đức trọng Quỷ Thần kinh,
    Tài cao Long Hổ phục.

  20. Cảm ơn bởi:


 

 

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •