Chào mừng đến với Tử Bình diệu dụng.
Trang 3 của 3 Đầu tiênĐầu tiên 123
Kết quả 21 đến 26 của 26

Chủ đề: Kham Dư Ngũ kinh

  1. #21
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Trích dẫn Gửi bởi Hieunv74:
    Chữ bốc “卜” trong câu này ám chỉ "Tiên" Khởi sự, hay trước khi lập trạch hay lập thành phố là phải xem thế đất, sông, núi; chứ không phải đem cái mu rùa ra mà bói coi hướng nào tốt rồi làm nhà.
    Ở đây tôi nói nghĩa của chữ "Bặc" là gì? Chứ không phải là giải nghĩa công dụng của chữ "Bặc"! Tôi sẽ lần lượt giải thích Thanh Nang áo ngữ cho bạn hiểu.
    Ngay như việc ứng dụng La Kinh tôi đưa đồ hình lên để lý giải 2 câu thơ:
    "Tả là Dương, Tý Quý đến Hợi Nhâm"
    "Hữu là Âm, Ngọ Đinh đến Tị Bính"

    Nhưng bạn cũng không thấy được.
    Thì bạn lại dịch là Tuất Hợi Càn, đủ thấy sách bạn đang cầm là tam sao thất bổn rồi.
    Câu của bạn dịch là nói vị trí trong bát quái, đúng nghĩa là: "Càn tam liên tây bắc Tuất Hợi" mới đúng.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  2. #22
    hieunv74
    Khách
    .................................................. .....
    (sửa sai)
    Lần sửa cuối bởi hieunv74, ngày 26-09-17 lúc 14:02.

  3. #23
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Vậy thì bạn chớ nên xen vào topic nữa, để topic được liên tục.

    (Tiếp theo)

    5, Đô Thiên Bảo Chiếu Kinh
    Dương Quân Tùng sáng tác

    5. 1. Thượng
    Dương Công diệu ứng không nhiều lời, thực tế chỉ gia truyền;
    Cả đời họa phúc do thiên định, hiền đạt có an mệnh.
    Bần tiện an phần phú quý hưng, toàn dựa chân Long huyệt;
    Long ở trong Sơn không xuất sơn, Quái ở giữa đại sơn.

    Nếu như Sa khúc Tinh Thần chính, thu được định dương thần;
    Quả quyết vừa táng liền hưng long, phụ phát tử truyền vinh.
    Hảo long thoát kiếp xuất bình dương, hơn trăm dặm lai trường;
    Ly tổ ly tông Tinh Thần xuất, đây là cốt Chân Long.

    Tiền đồ liên tiếp xuất nhi tôn, văn võ chia trong Mạch;
    Thẳng thấy suối lớn phương dừa lại, các sơn đều không chạy.
    Từng cái quay đầu hướng trước huyệt, thành quách phải vòng hết;
    Thủy khẩu đống loạn thạch trong thủy, đất này xuất hào hùng.

    Nếu được Long lai thoát xa Kiếp, phát phú không ngưng nghỉ;
    Huyệt kiến Dương Thần triều Tam chiết, đất này xuất quan lại.
    Không hỏi tam nam cùng ngũ tử, phú quý khởi từng nhà;
    Nước ở khe suối xem giống vậy, đoán y lộc vinh hoa.

    Thủy lớn sông lớn đủ khắp nơi, nghìn dặm Lai Long ở.
    Thủy khẩu La tinh khóa cửa lại, giống đại tướng đóng quân;
    Chắc chắn rơi đầu Nhất Tinh hình, không hỏa thổ thì kim.
    Chính Mạch lạc bình năm ba dặm, thấy thủy mới có dừng;

    Nhị thủy giao nhau không dụng Sa, miễn là đá như gai.
    Lại xem giáp thạch cao sơn khóa, dày đặc đến bao vây;
    Đây là Quân Châu đại địa hình, nói rõ cho bạn nghe.
    Thiên hạ Quân Châu vốn ở Không, không hề chống đỡ sau Long đầu;

    Chỉ Hướng thủy thần thủ chỗ triều, chớ nói hậu vô chủ;
    Lập Huyệt động tĩnh tìm bên trong, cần xem Long chấm dứt.

    Dương Công diệu quyết không nhiều lời,
    Vì thấy Hoàng Công vụng tâm tính;
    Toàn dựa trên tay khởi Tinh thần,
    Loại tụ trang thành làm diệu quyết.

    Đại sơn gọi là Phá Quân tinh,
    Chỗ tụ Ngũ tinh khó chia Mạch;
    Nhưng xem xuất thân nhất lộ mạch,
    Cuối cùng phải phân thủy thổ kim.

    Lại theo phân thủy chỗ thân mạch,
    Phải đem La Kinh chiếu lộ ra;
    Lần lượt đồng hành qua chân eo,
    Đi trước tất định vào chỗ tốt.

    Chữ Tý xuất mạch tìm chữ Tý,
    Chớ dạy sai lầm Sửu cùng Nhâm;
    Nếu như Dương soa cùng Âm thác,
    Khuyên bạn bất tất tìm phí tâm.

    Tý Quý Ngọ Đinh Thiên nguyên cung,
    Mão Ất Dậu Tân nhất lộ đồng;
    Nếu có sơn thủy cùng nhau đến,
    Nửa huyệt Càn Khôn Cấn Tốn cung;

    Lấy được Phụ tinh thành ngũ cát,
    Trong Sơn có đây là Chân Long.
    Thìn Tuất Sửu Mùi Địa Nguyên long,
    Càn Khôn Cấn Tốn phu phụ tông;

    Giáp Canh Nhâm Bính là Chính hướng,
    Mạch thủ Tham Lang hộ Chính Long.
    Dần Thân Tị Hợi Nhân nguyên lai,
    Ất Tân Đinh Quý suy thủy lai;

    Lại lấy Tham Lang thành ngũ cát,
    Dần Khôn Thân Cấn ngự môn Khai;
    Tị Bính nghi hướng Thiên Môn thượng,
    Hợi Nhâm hướng được Tốn phong xuy.

    Tham Lang vốn là phát tới chậm,
    Tọa hướng trong huyệt người không biết;
    Lập Trạch an Phần quá lưỡng kỷ,
    Phương sinh quý tử hảo nam nhi.

    Lập Trạch an Phần phải hợp Long,
    Không nên nghĩ đến núi hiếu kỳ;
    Chủ nhân có lễ khách tôn trọng,
    Khách ở Tây hề Chủ ở Đông.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  4. #24
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    5. 2. Trung
    Thiên hạ Quân Châu vốn ở Không,
    Không nên chống đỡ hậu Lai long;
    Thời nay không biết huyền cơ quyết,
    Chỉ nói sau đầu thiếu chống Long.

    Đại để Quân Châu ở Không Long,
    Tiện cùng bình dương trạch mộ đồng;
    Châu Huyền nhân gia trụ Không Long,
    Thiên quân vạn mã tất có dung.

    Phân minh thấy rõ do suy nghĩ,
    Long bất Không thời không Hoạt Long;
    Dạy bạn xem lấy nơi Châu Huyền,
    Đều là Không Long phát tung tích.

    Chớ ngại Lai xa không hậu Long,
    Long nếu không thời khí bất không;
    Lưỡng thủy tầm Long liền sinh Huyệt,
    Huyệt được thủy hề nào sợ phong.

    Chỉ xem cổ nhân khanh tướng địa,
    Bình dương nhất huyệt thắng thiên phong.

    Tý Ngọ Mão Dậu tứ Sơn Long,
    Tọa đúng Càn Khôn Cấn Tốn cung;
    Chớ theo Bát Quái âm dương thủ,
    Âm Dương sai thác bại vô cùng.

    Trăm hai mươi nhà mù không quyết,
    Quyết này huyền cơ đại tổ tông.
    Lai Long cần phải ngắm Long huyệt,
    Hậu nếu không thời tất có công.

    Đế tọa Đế xa cùng Đế vị,
    Đế cung Đế điện hậu làm Không;
    Vạn đời Hầu vương đều cấm đoán,
    Ta này ẩn xuất ở Giang Đông.

    Âm Dương nếu có được chỗ này,
    Con giun nếu gặp liền hóa Long.
    Tý Ngọ Mão Dậu tứ sơn long,
    Chi kiêm Can xuất tối hào hùng.

    Ất Tân Đinh Quý đơn mạch đi,
    Là lúc nửa cát lại nửa hung;
    Tọa hướng Càn Khôn Cấn Tốn vị,
    Kiêm phụ mà thành ngũ cát Long.

    Thìn Tuất Sửu Mùi tứ sơn pha (sườn núi) ,
    Giáp Canh Bính Nhâm táng mộ nhiều;
    Nếu theo lý này không sai sót,
    Thanh quý thanh danh khắp thiên hạ.

    Làm quan tự có đường đứng dậy,
    Con cháu bạch ốc xuất đăng khoa;
    Bát Quái không phải chân diệu quyết,
    Lúc thầy lại đem trong miệng ca.

    Bại tuyệt chỉ vì dùng Quái sai,
    Sao thấy theo Quái xuất quan cao;
    Âm sơn dương thủy đều chân cát,
    Ngày sau con cháu họa trăm điều.

    Thủy nếu triều đến phải được thủy,
    Chớ tham xa tú thích núi non;
    Biết Long nếu theo Đồ Quyết táng,
    Quan chức vinh hoa lập khả quan.

    Huyền cơ diệu quyết có nguyên nhân,
    Hướng chỉ sơn phong cẩn thận cầu;
    Khởi tạo an phần theo quyết này,
    Khiến cho phát phúc xuất công hầu.

    Chân Hướng chi Sơn tìm tổ mạch,
    Can thần hạ huyệt sẽ không lo;
    Dần Thân Tị Hợi cỡi Long tẩu,
    Ất Tân Đinh Quý thủy giao lưu.

    Nếu có sơn này cùng thủy này,
    Bạch ốc khoa danh phát không ngưng;
    Ngày xưa cháu chết cắm huyệt này,
    Từ đây thanh danh biểu vạn thu.

    Lai Long phải xem tọa chính huyệt,
    Hậu nếu Không thời tất có công;
    Châu huyền Quan nha là Cách Cục,
    Tất nhiên thanh hiển lập uy hùng.

    Phạm Lãi Tiêu Hà Hàn Tín tổ,
    Ất Tân Đinh Quý tài đủ hưng;
    Hợi Nhâm phong long hưng tổ cách,
    Tị Bính vượng tướng cùng như nhau.

    Dần Thân Tị Hợi loại ngũ cát,
    Ất Tân Đinh Quý tứ vị thông;
    Áo gấm cẩm bào sao vinh hiển,
    Tam sinh ngũ đỉnh thụ vương phong.

    Long hồi triều tổ huyền chữ thủy (水),
    Khoa danh bảng nhãn cập thần đồng;
    Hậu Không đã thấy bài quyết trước,
    Huyệt phải oa kiềm mạch đáo cung.

    Xem thử Châu Nha cùng đài các,
    Việc ấy dựa vào hậu Lai Long;
    Sa chào Thủy triều là thượng cách,
    La thành ủng vệ ở giữa Huyệt.

    Theo Đồ thủ Hướng không sai lệch,
    Không là Vương hầu cũng Tướng công.
    Thiên cơ diệu quyết vốn khác nhau,
    Bát Quái chỉ có thông Nhất Quái.

    Càn Khôn Cấn Tốn triền vị nào,
    Ất Tân Đinh Quý lạc cung nào;
    Giáp Canh Nhâm Bính đến đất nào,
    Tinh Thần lưu chuyển phải gặp nhau;

    Chớ đem Thiên Cương xưng diệu quyết,
    Cầm sai Bát Quái làm tổ tông.
    Càn Khôn Cấn Tốn xuất quan quý,
    Ất Tân Đinh Quý chỗ điền trang;

    Giáp Canh Nhâm Bính đứng đầu vinh,
    Đời sau con cháu xuất thần đồng.
    Không xét Sơn nào Thủy này tiêu,
    Hợp được thiên tâm công tạo hóa.

    Ngũ tinh nhất quyết không chân thuật,
    Thành môn nhất quyết tốt đứng đầu;
    Hiểu được Ngũ tinh Thành môn quyết,
    Lập trạch an phần đại cát xương.

    Đáng cười sao ngu này nhiều mộ,
    Chớ đem Quái lệ định âm dương;
    Không hướng thân Long xem xuất mạch,
    Lại theo Sa Thủy đoán tai tường.

    Quân Tùng bảo chiếu chân bí quyết,
    Cha con dù thân cũng không nói;
    Nếu người gặp được là tiền duyên,
    Thiên hạ hoành hành Tiên lục địa.

    Thế nhân chỉ thích hay quay vòng,
    Không biết Thủy loạn Sơn điên đảo;
    Lúc thầy chỉ biết nói Bát Quái,
    Lại đem âm dương chia hai cái;

    Âm sơn chỉ dụng dương thủy triều,
    Âm thủy chỉ dụng dương sơn chiếu.
    Tục phu không biết thiên cơ diệu,
    Tự đem Sơn Long đảo nghịch sai;

    Sao làm loạn làm hại thế nhân,
    Phúc chưa tới họa lại tới trước.
    Dương nếu không âm định bất thành,
    Âm nếu không dương định bất sinh;

    Dương thủy Âm sơn đem phối hợp,
    Con cháu thiên phủ sớm đăng danh.
    Đô thiên đại quái tổng âm dương,
    Ngắm thủy xem sơn có chủ trương;

    Có biết tình Sơn cùng ý Thủy,
    Phối hợp mới có luận âm dương.
    Đô thiên bảo chiếu không người có,
    Phùng sơn đạp lộ tầm mạch Long;

    Phía trước đi tới sơn năm dặm,
    Gặp mặt tân chủ giao tiếp nhau;
    Muốn tìm phú quý đến khoảnh khắc,
    Nhớ lấy Quân Tùng diệu quyết chân.

    Thiên có Tam Kỳ Địa Lục Nghi,
    Thiên có Cửu tinh Địa Cửu cung;
    Thập nhị địa Chi thập thiên Can,
    Can thuộc dương còn Chi thuộc âm.

    Lúc thầy chuyên luận cái quyết này,
    Trước cổng hết lầm người thế gian;
    Âm Dương động tĩnh nếu hiểu được,
    Phối hợp sinh sôi tìm chỗ diệu.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  5. #25
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    5. 3. Hạ
    Tầm đắc chân Long Long Hổ phi,
    Thủy thành uốn lượn ôm bọc thân.
    Phía trước cờ trống mã tương ứng,
    Phía sau ly hương mặc cẩm bào.

    Chữ Ất thủy triền ở trước huyệt,
    Hạ Sa thu khóa huyệt thiên nhiên;
    Chính giữa cửu khúc lai triều huyệt,
    Thong dong tích tụ đấu lượng tiền.

    Hai bờ hướng về nghỉ sau huyệt,
    Tất nhiên Long cuộn ở trong thủy;
    Nếu có âm thanh số tiền thủy,
    Thú quan lên ngựa đến thềm vua.

    An phần cần phải xem trung ương,
    Rộng ôm Minh đường túi thủy tụ;
    Xuất thủy kết thành dạng chữ Huyền (玄),
    Hướng đến Loan Phượng múa cát tường;

    Ngoài dương khởi nhãn người đều thấy,
    Chữ Ất (乙) uốn cong mang trường ngọc;
    Lại có trong dương tọa huyệt pháp,
    Thần cơ xuất xứ tìm thuốc tiên.

    Thủy thẳng hướng đến rất bất tường,
    Một nhánh thẳng là một nhánh thương;
    Hai nhánh thẳng danh là Sáp Lặc thủy,
    Ba nhánh thẳng là Tam Hình thương.

    Tứ thủy bắn tới là Tứ Sát,
    Bát thủy danh là Bát Sát ương.
    Thẳng đến lại đi kéo Đao Sát,
    Tay không khách tử thiếu niên vong.

    Lúc thầy chỉ nói Hạ Sa nghịch,
    Họa đến cực nhanh sao chịu nỗi;
    Bờ mương trên đường giống như vậy,
    Rất nên dời sữa miễn tai ương.

    Hướng đến lại vẫy đầu trước thủy,
    Dâm tà hung ác không biết thẹn;
    Càn chảy tự là tên Dây Thừng,
    Có lo thắt cổ vì công bại.

    Bên trái thủy bắn trưởng nam chết,
    Bên phải thủy bắn thiếu nam vong;
    Thủy thẳng nếu bắn đúng trước mặt,
    Trung tử ly hương chết bên đường.

    Đông tây nam bắc thủy bắn yểu,
    Từng nhà đột tử tuyệt căn mầm;
    Nam nữ tham dâm tin đồn xấu,
    Cong gù lưng yểu gia tịch mịch.

    Bên trái thủy nghịch trưởng nam tuyệt,
    Ngỗ nghịch ly hương đều do vậy;
    Bên phải thủy nghịch tổn thiếu nam,
    Gió thổi phụ nữ theo người đi.

    Trước mặt thủy nghịch trung nam gánh,
    Đoán định hai nhà có tổn thương;
    Trái phải giữa nghịch từng nhà tuyệt,
    Phải tránh phần mộ gặp kiếp này.

    Nhất thủy quấn đầu tên Đứt thành,
    Bên dưới dù phát không là vinh;
    Con cháu về sau từng nhà tuyệt,
    Thủy đáo Sa thu lại chủ hưng.

    Trà tào chi thủy thực kham chịu,
    Chớ lấy Ấm Long đồng loạt cầu;
    Trước huyệt to áp chân cát thần,
    Không thấy vinh mà lại thấy sầu.

    Huyền Vũ quấn đầu có nhiều cách,
    Không thể lận mà chấp nhất đoán;
    Hoặc nghiêng hoặc lệch hoặc chính xuất,
    Phải dựa đoạn thẳng đối đường an.

    Quấn đầu thẳng đi là Phân Long,
    Lấy dấu Long mạch nhà ở đâu;
    Đại sơn xuất mạch phân tam khối,
    Không hứa chuyên đem nhất lộ cùng.

    Sau mộ trạch từng nhà treo cao,
    Thái Dương không chiếu đại âm thiên.
    Tất chủ nhà này nhiều cô tịch,
    Nam cô Nữ quả phải chịu đau.

    Tham Vũ Phụ Bật Cự Môn Long,
    Phương có đăng sơn cẩn thận nhìn.
    Thủy khứ Sơn triều đều có đất,
    Bất ly ngũ cát ở bên trong.

    Phá Lộc Liêm Văn Long hung ác,
    Phần trạch thế nhân chớ tương phùng;
    Nếu như ngộ làm âm dương trạch,
    Dẫu có kỳ phong vẫn là hung.

    Bản Sơn Lai Long lập bản hướng,
    Phản ngâm Phục ngâm họa khó đương;
    Thắt cổ ly hương xà hổ hại,
    Làm tặc lưu đày đến pháp trường;

    Hiểu rõ Tam tinh Ngũ cát hướng,
    Chuyển họa thành cát đại cát xương.
    Long chân huyệt đúng lầm lập hướng,
    Âm Dương sai thác hối hận sinh;

    Mấy vị bôn tẩu đến triều đình,
    Mới đến triều đình vua nỗi giận;
    Bởi thầy không hiểu Long hướng nào,
    Mộ phần bên dưới cướp Quan tinh.

    Tầm Long qua khí tầm ba đoạn,
    Phụ Mẫu tổ tông nên phân biệt;
    Mạnh sơn cần phải liền Mạnh sơn,
    Trọng sơn cần phải tiếp Trọng sơn.

    Can chi chẵn lẻ cẩn thận suy,
    Lần lượt chiếu định mạch nào tốt;
    Nếu như Dương sai cùng Âm thác,
    Dù cát Tinh Thần phát không dài.

    Một đoạn cát Long một đời phát,
    Lại phùng tạp loạn dễ tổn thương.
    Trước biết Mạch Long nhận tổ tông,
    Lưng con Hạc tất thị chân tung;

    Phải biết cát địa được Long dừng,
    Lưỡng thủy giao nhau kẹp nhất Long.
    Phu phụ đồng hành rõ lộ mạch,
    Phải biết Lưu lang tìm chỗ khác.

    Bình dương đại thủy thu tiểu thủy,
    Không dụng cửa Sa phát phúc lâu,
    Thủy khẩu đá như hình nhân vật,
    Định xuất kình thiên điều đỉnh thần.

    Long nếu đến thẳng không mang mạch,
    Chi kiêm can xuất là phúc sơn;
    Lập được cát hướng không lầm lỗi,
    Thúc Lộc thúc Quan chỉ nửa ngày.

    Càn Khôn Cấn Tốn qua mạch lõm,
    Liên tiếp đồng hành không lẫn lộn;
    Hướng đối thủy Giáp Canh Nhâm Bính,
    Con cháu liệt thổ liền phân mao.

    Trọng sơn qua mạch không đeo mạch,
    Tam đoạn Sơn Thủy cùng đến trước;
    Đoán định ba đời xuất quan quý,
    Cổ nhân chuẩn nghiệm không hư ngôn.

    Phát long nhiều hướng thủ Chi thần,
    Nếu là Can thần lại khác nhau;
    Chi nếu tải Can là phu phụ,
    Can nếu mang Chi là Quỷ Long;

    Tý Quý là cát Nhâm Tý hung,
    Ba chữ chân giả ở trong đó.
    Càn Khôn Cấn Tốn huyệt thiên nhiên,
    Thủy đến trước mặt là Chân Long;

    Phải biết Chân Long kết Chân Huyệt,
    Long Mạch chỉ ở hai ba đoạn;
    Ba đoạn không loạn là Chân Long,
    Có huyệt tất nhiên là tuyệt diệu.

    Nghìn vàng khó mua huyền văn này,
    Phúc duyên nếu gặp không nên lộ;
    Theo Đồ lập hướng không phân sai,
    Vinh hoa phú quý không ngưng nghỉ;

    Lúc thầy không hiểu cắm miễn cưỡng,
    Dù phát không lâu cũng bại tuyệt.
    Một cái Tinh Thần một đoạn Long,
    Long đến dài ngắn định khô vinh;

    Mạnh Trọng Quý Sơn không tạp loạn,
    Số sinh Nhân Long trên số 9;
    Số đoạn nhiều lúc phú quý lấu,
    Một đời phong quang một đoạn Long.

    (Ghi chú: Mạnh là đầu, Trọng là giữa, Quý là cuối)

    (hết)
    -------------------------------------------
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  6. Cảm ơn bởi:

    CST

  7. #26
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Lời người dịch:
    5 quyển kinh thư ở trên là cấu thành Kham Dư ngũ kinh, tức là 5 quyển sách nói về phong thủy thời xưa.
    Ngày nay viết sách tán loạn không thứ tự, giải nghĩa không đúng bản nghĩa. Tự cho là sáng kiến cá nhân, lấy sai truyền bậy.
    Vì vậy, tôi nghĩ rằng các bạn khi tham khảo để học xem phong thủy cần hiểu rõ những quyển sách này. Đây là tư liệu từ Trung tâm văn hóa Mao Trạch Đông, bài viết là từ một học giả xem phong thủy ở Bắc Kinh, thuộc giới học thuật có uy tín.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  8. Cảm ơn bởi:


 

 

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •