Chào mừng đến với Tử Bình diệu dụng.
Trang 1 của 3 123 CuốiCuối
Kết quả 1 đến 10 của 25
  1. #1
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917

    Phép tầm long điểm huyệt

    PHÉP TẦM LONG ĐIỂM HUYỆT




    I. Bí thuật Tầm Huyệt
    Phong thủy Âm trạch tốt xấu, ảnh hưởng trực tiếp đến cát hung họa phúc con người. Làm tốt phong thủy Âm trạch, là một sự kiện trọng đại để tạo phúc cho muôn dân, nhất là việc chọn đất. Tuyển chọn sơn địa hết sức trọng yếu, tuyển chọn mộ địa thích hợp sơn gia, mới tiến hành an táng. Tục ngữ nói: "Phúc nhân đắc phúc địa", đất tốt là chỗ được tổ thượng tích đức hành thiện, cũng chính là nói sơn gia nhận được một khối đất tốt, là âm công tổ thượng của họ.

    Thế nào là đất tốt? Là nói:
    1, Long mạch vượng, âm dương Long quấn cuộn lấy nhau.
    2, Sa Thủy tú mỹ, La Thành đắc cục.
    3, Huyệt vị đắc khí, chất đất tốt đẹp.

    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  2. Cảm ơn bởi:

    CST

  3. #2
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    Điểm huyệt trước tiên là làm rõ chỗ tìm huyệt, phàm nơi Chân Long kết huyệt, tất có minh chứng rõ ràng. Ở trước Huyệt thì có Triều sơn tốt, Minh Đường chính, thế thủy vượng, trong cả ba thì Triều sơn là trọng yếu nhất.
    + Trước sơn Huyệt gọi là Triều, lấy cùng với Án hữu tình làm chủ, Triều sơn cao, thì Huyệt dễ cao, Triều sơn thấp, thì Huyệt dễ thấp, Triều sơn gần thì sợ bị xâm áp, Huyệt phải tụ trên cao. Triều sơn thấp, sợ phòng khí tán, thì nên hạ Sa tầm Huyệt.
    + Minh Đường có phân biệt Tiểu Trung Đại, Tiểu Minh đường ở dưới Viên Vựng, nếu thấy ngay ngắn có thể cho phép xê dịch người nằm, mới là Chân Huyệt. Trung Minh đường ở giữa Long Hổ, phải lấy nơi giao nhau. Đại Minh đường ở trước Án sơn, lập huyệt phải hướng chỗ dung tụ thế thủy. Phàm có chỗ Chân Long kết huyệt, tất có nước triều nguyên hợp tụ giao hội. Như hình bên trên là bằng chứng trước Huyệt. Ở sau Huyệt, thế Nhạc sơn phải có Quỷ chống đỡ, Long Hổ có tình củng giáp, ở dưới Huyệt, thần thảm phải bằng phẳng ngay ngắn, ở xung quanh, phải ngăn thủy rõ ràng, như hình ở trên là bằng chứng Chân Long huyệt. Nếu ở đây mà thẩm sát rõ ràng, thì điểm huyệt tất không sai lầm.
    + Về phần huyệt kỵ, chỉ có ở giữa Hình Khí, bởi vì xem đất là lấy hình thế, an táng nhận sinh khí, khí có ở hình, cho nên điểm huyệt tất đầu tiên phải xét hình, thì 15 điều kỵ huyệt tự có thể hiểu được.
    Sao gọi là 15 chỗ Huyệt kỵ? Nhớ kĩ các loại:
    Thô xấu, nước chảy xiết, đơn hàn, cồng kềnh, lồi lõm, lộ liễu, gầy còm, phá mặt, hư hao, vỡ đầu, phân tán, nhọn đầu, âm u, mềm mại phóng đãng, ngu cứng.
    Mà phải nói là, 15 chỗ kỵ đều là hình luận khí, cho nên cần chú ý, Lai Long có phân ra cao sơn và bình địa, phép xem đều khác nhau. Nói chung, bất luận cao sơn hay bình địa, nếu phạm phải một chỗ kỵ, thì là tuyệt địa, dụng sai, nhẹ thì chủ bần tiện, nặng thì nhân đinh tuyệt diệt, họa hoạn trăm điều, tất phải cẩn thận.
    Người xưa đúc kết, hàm xưng Tầm Long Huyệt dễ dàng nhưng điểm Huyệt thì khó khăn. Táng Kinh cũng nói: Ba năm tầm Long 10 năm điểm huyệt, lý là chỗ này. Bởi vì tầm Long là cục chưa thành, có thể tuỳ ý tuyển chọn, điểm huyệt là cục đã thành. Một khi đã định, quan hệ đến hưng suy thành bại nhà mình, làm sao không cẩn thận chứ?

    Lưu ý:
    Hình Huyệt vị ở trên, bởi vì không vẽ được, cho nên không dịch ra tiếng Việt được. Nhưng có thể nói rõ hình ở trên như sau:
    Chỗ từ trên đỉnh hình là bắt nguồn từ "祖宗山" Tổ Sơn, rồi đến "主山" Chủ sơn.
    Bên trái hình đối diện chủ sơn là Nhập thủ; phần dưới cùng của đồ hình là Triều Sơn (朝山), tiền vào bên trong (từ dưới hình nhìn vào) là Án sơn (案山). Hai bên Án sơn là có Thủy khẩu (水口) nội ngoại.
    Ở bên trong cùng có hình tròn nhỏ chính là Huyệt (), phía trước Huyệt là Minh Đường (明堂); chỗ gần Huyệt bên trong phía sau có hình móc câu là Long mạch (龙脉).
    Các đường viền trong ngoài (là tượng trưng hai dãy núi: Núi bên phải hình là Thanh Long (青龙) nội ngoại và Bạch Hổ (白虎) nội ngoại.

    Đại khái là như vậy. Còn ý nghĩa từ ngữ thì đã có chú giải thuật ngữ rồi, các bạn cứ theo đó mà tra tìm ý nghĩa. Nhưng lưu ý là: Thanh Long nhìn từ hình là bên phải, nhưng từ trong Huyệt vị nhìn ra thì ở bên trái Huyệt, còn Bạch Hổ thì cũng vậy, nhìn từ bên trong Huyệt vị nhìn ra thì ở bên phải.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  4. #3
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    Về phần Phép Điểm Huyệt, dựa theo ca quyết dưới đây:
    Sơn ngẩng Huyệt hẹp điểm chỗ cao,
    Bốn mặt bình hòa chỗ thấp lõm,
    Sa Cục đều đều làm trung chính,
    Bên rộng bên chặc huyệt nên thiên.
    Thủy tà Sơn loạn ẩn chỗ lõm,
    Nhạc Không hạ ngắn định xoay người,
    Có đến có đi tìm kết huyệt,
    Sơn cùng Thủy tận hướng lưng tìm.
    Bốn đoàn cao bức huyệt dễ nén,
    Tìm dọc đường núi là tối nghi,
    Xung quanh thấp rộng sợ huyệt lộ.
    Chân núi lưu tình giấu kĩ hang,
    Trái cao ngập huyệt nên tìm phải,
    Phải cao áp huyệt bên trái tìm,
    Trước áp huyệt nên dời phía sau.
    Sau áp huyệt nên tìm phía trước,
    Hoặc gần áp mà mắt tìm xa,
    Hoặc bỏ trong mà thu ở ngoài,
    Huyệt cần cao mà luận xung quanh.
    Hoặc xa thô mà nói ở gần,
    Hoặc ngoài hẹp mà bên trong rộng,
    Pháp cần thấp giấu mà yêu cầu,
    Chỗ lõm tụ bốn bề là Loan,
    Nên biết phép xuyên cung giá tiễn,
    Nếu nhiều núi thô to tạp loạn,
    Phải biết phép Di bộ Hoán Hình. (Bởi vì nói trong thô cầu tú, trong tạp cầu thanh vậy)
    Cả hai Sơn Thủy cục đều hiếm có,
    Cả hai Quan Lộc pháp phải biết,
    Sơn không bằng Thủy lại có tình,
    Lộc lúc thành tựu thì thành tựu,
    Thủy cũng không bằng Sơn củng tú,
    Quan ở lúc đón thì lại gần,
    Nếu như tự nhiên Lai mạch đến,
    Nghỉ tham triều xuyên mà chuyển lầm (lời này là nói tham triều thì thất huyệt là huyệt bệnh)
    Nếu như nước vào như phản cung,
    Hỉ được Sa cứu để thâm tàng.
    Lớn nhiều nhỏ ít, thủ trong Thất nữ tọa Khuê mà không lộ. Nhiều ít là một đặc thù thủ Hạc lập ở bầy Kê mà tự lẻ loi. Tọa kỵ Không mà không kỵ đoản, ở đây là thường lý, sao có thể chấp nê kết cục Triều xoay mình trở lại, sơn đến thẳng cắt ngang huyệt, đa số phạm chúng kỵ, như chim biết thoát khỏi Long thì quyền cục, Thế nghịch Sa thuận, ai biết ly hương là thủ quý, thủy triều sa ôm phải biết đất này tốt là cứu bần, nhiều mạch loạn xuất ra có ngã đoạn là Chân Long, tam sơn cùng đến ngắm súc tàng là có thể tầm huyệt, sơn thủy biến thái không đồng nhất, bỗng thay đổi khác liền trong gang tấc, thấp là xấu nhưng chợt nhô cao lên là tốt, bên trái là tốt chợt chỗ này bên phải là ngược tú khí ở dưới điểm cao thì sai lầm, tình ý lệch về bên phải cắm vào bên phải thì thua thiệt, đây là lời Thần Tiên truyền chân bí quyết, rõ chỗ này thì điểm huyệt vĩnh viễn không sai.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  5. #4
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    Phụ lục 100 pháp tìm Huyệt Âm trạch:
    1, Phàm gặp Thạch sơn nên tầm Thổ huyệt, màu sắc đất nơi này giống như hiển lộ màu đỏ vàng, thì nơi này biểu thị khí mạch xung hòa. Ở trên Thạch sơn nếu tìm không thấy thổ huyệt thì không nên cắm vào, như chỗ thấy huyệt thổ có màu sắc là vàng đỏ, thì chỗ này biểu thị trong huyệt có khí mạch xung hòa.
    2, Ở trên Thổ sơn lại nên đi tìm Thạch huyệt, như màu thạch là màu trắng tím, biểu thị chất đất này là ôn nhuận. Nếu ở trên Thổ sơn tìm được Thạch huyệt, thì Thạch huyệt nhất định phải hiện rõ màu trắng tía, hơn nữa chất đất ôn nhuận mới là cát, như cứng rắn như hòn đá ngu thì lại là Chủ sơn.
    3, Nếu như ở trên Thạch sơn chỉ có Thạch huyệt, thì tất phải cần Thạch huyệt mềm dễ vở khến cho cuốc xuống được thì mới cát. Chỗ nói mềm dễ vỡ cũng có nghĩa là chất đất Thạch huyệt ôn nhuận.
    4, Nếu như ở trên Thổ sơn chỉ tìm ra Thổ huyệt, thì tất cần có chất đất tinh túy mạnh mẽ mới tốt. Lúc này chất đất không nên quá trơn sạch.
    5, Như tìm thấy Thổ huyệt, thì yêu cầu đường vân chất đất chặt chẽ, giống như đất mà không phải là đất, đoạn văn trên ý nói tức là chỗ Thổ huyệt tinh túy mạnh mẽ.
    6, Nếu như tìm thấy Thạch huyệt, thì yêu màu sắc chất đá rực rỡ, giống như đá mà không phải là đá, tức là nói giải thích chỗ đoạn văn ở trên là Thạch huyệt phải mềm dễ vỡ.

    (còn tiếp)
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  6. Cảm ơn bởi:

    CST

  7. #5
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    7, Ở trên Thổ sơn tìm Thạch huyệt, tức là ý nói bên trong cứng ngoài mềm. Ở trên Thạch sơn tìm Thổ huyệt, tức là ý nói mềm mà ở gữa giòn dễ vỡ.
    8, Ở trên Chi Long nếu như có rất nhiều tảng đá, chẻ ra để xem tất phải cần có đường hoa văn. Chỗ nói Chi Long tức là Thạch huyệt ở trên đất núi, lấy chất đá lộ ra hoa vân rất kỳ dị là quý.
    9, Huyệt khẩu ở trong Lũng huyệt, cuốc xuống phía dưới không bị bắn tóe lửa bụi mù. Chỗ nói Lũng Huyệt, là chỉ Thổ huyệt ở trên đá núi. Chất đất nơi đó tất phải mịn màng dễ cuốc xuống, như khối đá phức tạp có tảnh đá ngu, dẫn đến cuốc xuống phía dưới bị tóe lửa bụi mù, thì chủ hung, chỗ nói Bình tiêm, tức là Táng khẩu.
    10, Chất đất mộ huyệt ngu cứng, thì không thể tích tụ sinh khí, chất đất phân tán, thì Chân Dương không ở. Bùn đất trong mộ huyệt lấy xung hòa là quý, vừa không nên bị kiên cứng, lại không nên phân tán. Chỗ nói Chân Dương, cũng chính là nói Sinh khí.
    11, Ở bộ vị khai huyệt đầu lưỡi Long có thể hơi thấp, nhưng không nên làm tổn thương đến Long thần. Tổn thương đến bộ vị Long thần, thì Mộ huyệt quá thấp kém trái lại là Thất huyệt.
    12, Ở bộ vị răng Long có thể cho phép cắm huyệt, nhưng không nên quá gần xương cốt, cắm huyệt gần cốt thì vị trí quá cao, lại làm tổn thương Long.
    13, Lúc gặp phải Âm tích giống như xương ngực nhô ra như ngọc thạch, yêu cầu phân rõ Lão nộn và Giao khâm. Gọi là Lão nộn, tức là âm dương, gọi là Giao khâm, tức là giới thủy. Thế đến Âm tích phải giống như xương ngực nhô ra, không thể âm đến âm làm.
    14, Đất bình dương thì phải giống như đuôi con chim gáy, phải phân biệt cương nhu và giới hạn. Chỗ nói cương nhu, cũng chính là âm dương, chỗ nói giới hạn, cũng chính là Giao khâm. Chỗ Mộ huyệt đất bình dương phải giống như đuôi con chim gáy, không thể dương đến dương làm. Ở lúc xử lý những tình hình này, thuyết lý vừa phải rõ ràng, cũng vừa phải có nhãn lực. Nói cách khác, rõ ràng là dương nhưng nói là thành âm, rõ ràng là âm nhưng lại nói là thành dương, như vậy mặc dù đọc thuộc bài kinh văn này cũng không có cái gì là bổ ích?
    15, Mặc dù biện pháp tìm kiếm cát địa rõ ràng, nhưng cũng không có năng lực loại bỏ mộ huyệt, nếu như có tác dụng sai lầm, thì cũng khó mang đến hòa bình hạnh phúc cho con người, bởi vì trong đó có một chút sai lầm, thì sẽ có sai lầm như cách vạn sơn, một thước một tấc khác nhau, thì có khác biệt nghìn dặm. Chỗ nói loại bỏ và tác dụng ở đây, đều là chỉ Huyệt pháp.
    16, Lúc làm Huyệt phát sinh âm dương hút hơi, mang đến họa hoạn bi thảm từ từ khác nhau. Lúc Dương làm tất cần phải mượn khí âm hút một chút, lúc âm làm tất cần phải mượn khí dương hà hơi, đây chính là chỗ nói âm đến dương làm, dương đến âm làm. Nếu dương đến dương nhận, thì họa hoạn mang đến từ từ, lúc âm đến âm nhận, thì họa hoạn đến thê thảm rất nhanh.
    17, Nếu như Mộ huyệt thấy rõ dương nhược âm cường, lúc đang làm huyệt thì phải dụng phép chính hồi. Chỗ nói Phu nhược, chính là dương nhược, thì lúc làm huyệt nên dùng phép chính cầu. Chỗ nói Phụ cường, chính là âm cường, thì lúc tác huyệt nên dùng phép chống đỡ, chỗ này là nói mặt chính và mặt bên cạnh của mộ huyệt.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  8. Cảm ơn bởi:


  9. #6
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    18, Hình trạng mộ huyệt giống như úp bàn tay hoặc ngửa bàn thay, trong đó thì có phân biệt âm dương. Lúc tác huyệt thì dụng phép minh cầu hoặc ám cầu, trong đó có phân biệt cường nhược. Hình Mộ huyệt giống như úp bàn tay, biểu thị là âm. Hình giống như ngửa bàn tay, thì là dương. Hình Âm là dụng phép Minh cầu, hiển nhiên là cường, hình dương thì dùng phép Ám cầu, dĩ nhiên là nhược. Chỗ nói úp hay ngửa bàn tay, là chỉ hình trạng mộ huyệt. Chỗ nói chính cầu hay chống đỡ, là chỉ phương pháp làm huyệt. Đều là tiếp nhận đoạn văn ở trên mà nói. Về phần chỗ nói là thư thảm hấp hư, cũng không phải là nói ý chỗ nhà Tinh tướng nói là âm long dương hướng, dương long âm hướng.
    19, Lúc tương huyệt thì trước tiên phải dùng Đảo Trượng pháp định hạ vị thứ mộ huyệt, lại dùng Thụ can pháp định kỳ tọa hướng. Lúc Tương huyệt thì trước tiên phải xem khí mạch âm dương cường nhược, dùng Đảo Trượng pháp định hạ vị thứ mộ huyệt. Lại theo chỗ chỉ đảo trượng, dựng thẳng cây gậy, phân ra Tọa và Hướng.
    20, Ba phần nước chảy trong tam hợp từ hai bên mộ huyệt, phản ánh ra ý nghĩa Thừa kim của Huyệt thổ, từ trong hai mãnh hai cánh bên của nước chảy, có thể quan sát đến tình hình Tướng thủy Ấn mộc. Thừa kim, Tướng thủy, Huyệt thổ, Ấn mộc là 4 loại Huyệt pháp, Quách Phác có ghi lại ở trong 《 Táng kinh 》, phải từ ba phần tam hợp và hai mãnh hai cánh bên dòng nước chảy bên cạnh huyệt mà truy tìm.
    21, Khí mạch mộ huyệt thì giống như đường đi trong tro bụi, phảng phất mờ mịt khó biện. Khí mạch Mộ huyệt thật là khó tìm, tất cần phải có pháp nhãn tinh tường quan sát mới có thể phát hiện, sao có thể nói lỗ mãng tòng sự.
    22, Mộ huyệt có thích nghi tả thừa, có thích nghi hữu tiếp, thiết kỵ tính sai, hiện ra tình trạng như toa xe phủ đầu. Mộ huyệt có thích nghi tả thừa, tức là dụng phép Thừa kim, có thích nghi hữu tiếp, tức là dụng phép Ấn mộc. Dụng hữu tiếp, hoặc ứng với hữu tiếp mà lại dùng tả thừa, chính là toa xe phủ đầu.
    23, Lúc Mộ huyệt lộ ra hình trạng Hậu súc Tiền thân, thiết kỵ dùng cái trâm cài phụ nữ đục làm tổn thương Long huyệt. Chỗ nói Hậu súc, là chỉ Thôn táng, tức là dụng phép Huyệt thổ. Chỗ nói Tiền thân, là chỉ Thổ táng, tức là dụng phép Tướng thủy. Lúc dụng phép Tướng thủy, nằm ở bộ vị tương thừa Long mộ huyệt, cho nên gọi là Thủy co duỗi. Lú sử dụng hai loại Huyệt pháp này cũng quý ở thích hợp, không thể làm tổn thương Long thất huyệt. Chỗ nói Long huyệt luôn luôn sợ phải hai cái tổn thương này, chính là ám chỉ sợ cái trâm cài phụ nữ đục làm tổn thương.
    24, Song mạch Mộ huyệt tốt nhất là luồng đoản mạch, nếu như huyệt tình bất thuận, thì phải tòng quyền biến thông. Song mạch cầu đoản, đây chính là Chính huyệt pháp, nếu như huyệt tình không thích nghi đoản mạch, thì phải tòng quyền biến thông, bất tất cố chấp nói đến luồng đoản mạch.
    25, Mạch khí nếu như muốn ai sinh, tất cần phải Chẩm bạc (tựa vào gối mỏng) của mộ huyệt, nếu như huyệt tình không hợp, cũng nên thay đổi phương pháp. Ai sinh tựa vào Chẩm bạc, cũng là Chính huyệt pháp. Nhưng nếu như huyệt tình không thích nghi Chẩm bạc, thì lại cần phải thay đổi phương pháp. Đại để Tướng địa chủ yếu là chuông đồng hồ địa phương chỗ tình ý Tướng mộ huyệt, yêu cầu là tùy lúc vận dụng linh hoạt, không thể quá chấp nê mà làm.
    26, Lúc tác huyệt phải quan sát trên dưới Phân Long, Tích Thủy, Tiếp khí trước sau, tình huống Nghênh đường. Bộ vị Phân long thượng bộ, Tích thủy hạ bộ Mộ huyệt, mặt trước Nghênh đường, mặt sau Tiếp khí ứng với việc giúp đỡ bảo hộ, chỗ này là bộ vị không thể đổi ở trong Biến pháp, không thể dời ở trong Tòng quyền.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  10. Cảm ơn bởi:


  11. #7
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    27, Yêu cầu trong Huyệt pháp lấy Thiên tâm chữ Thập, cũng không phải là lúc Phu Phụ đồng hành thì không phối chữ Thập (十). Lúc Tác huyệt thì phải định Thiên tâm chữ Thập, đây là trung tâm bốn phía xung quanh. Trong Long pháp cũng có tình huống không phối chữ Thập, tức là ở lúc Phu Phụ âm dương nhị khí đồng hành. Phu Phụ đồng hành nhất lộ thu, Âm Dương bất phối hai bên chảy, thủy phân thập tự chắm cái giá, nếu cũng không phân chỉ Chẩm cầu, chỗ nói chữ Thập cùng chữ thập thiên tâm khác nhau.
    28, Nhìn thấy tình huống thủy ôm tiêm viên, rất nhiều người sẽ nhận lầm là giới thổ trước huyệt, nếu như nhìn thấy tình huống khí phân hỗ hoán, mọi người thường luôn lầm là tọa dưới Giao khâm. Lời này là nói lúc gặp khí mạch nhanh chóng nhảy vọt, lưu hành mà không dừng lại, mọi người không có nhìn kĩ lúc quan sát, thì cho là tình huống Tướng thủy ôm tiêm viên, nhận lầm là giới thổ trước huyệt và tọa dưới Giao Khâm, lại không có thấy khí mạch lúc này là phân ra hai bên, trao đổi mà đi về phía trước, đây là chỗ sai lầm rất lớn.
    29, Trên dưới hình huyệt giống như Thai Bàn giác, biểu thị Âm đến Dương nhận. Chỗ nói Thai Bàn giác, tức là khí âm.
    30, Trước sau hình huyệt tựa như Thiết Thậm thần, nên mạch dương cắm vào âm. Chỗ nói Thiết Thậm thần, tức là mạch dương.
    31, Thượng bộ hình huyệt bằng phẳng, hạ bộ đầu nhọn biểu thị Dương nhược, thượng bộ đầu nhọn, hạ bộ bằng phẳng biểu thị Âm cường. Hình trạng bằng phẳng như cái xẻng, biểu thị Dương nhược, hình trạng góc đầu nhọn, ẩn dụ Âm cường, đều lấy hình trạng thượng bộ làm chủ để phân biệt cường nhược.
    32, Bởi vì có phân biệt âm dương, mới có Tiền thân Hậu súc khác nhau. Âm huyệt thích nghi Tiền thân, tức là Thổ táng. Dương huyệt thích nghi Hậu súc, tức là Thôn táng.
    33, Thông qua xem xét phân tích sống lưng phân thủy Long liệp (bờm long), là phương pháp quan sát mạch khí âm dương. Quan sát tình huống Long mạch ở đồng bằng hoặc là triền núi, là quy định để chọn Huyệt. Chỗ nói Long liệp, là chỉ tình huống khác nhau của mạch đi sống lưng của phân thủy, từ chỗ này có thể nhìn thấy tình huống mạch khí âm dương. Thông qua phân biệt sự khác nhau của Long đồng bằng và Long triền núi, có thể quyết định tình huống chọn huyệt.
    34, Ở nơi Cô Dương mặc dù không có phân thủy, chỉ cần huyệt chính là được tiếp mạch mà phân thủy. Chỗ nói đất Cô Dương, là chỉ ở dưới nơi có thủy hợp, nhưng ở trên không có phân thủy. Lúc này, như ở giữa có thể lấy chính huyệt, thì không thể bỏ đi, chỉ cần ở nơi khí mạch đến bồi thổ liên tiếp, cũng hai bên ranh giới hợp hướng thủy chảy đi là được.
    35, Chỗ Quả Âm mặc dù không có thủy hợp, nhưng chỉ cần chân Long khí thực, thì có thể thông qua đục khoét tường thành hội khí để bổ cứu. Chỗ nói đất Quả Âm, là chỉ chỗ ở trên có phân thủy, ở dưới không có thủy hợp, nhưng chỉ cần Long khí chân xác, thì không thể vứt đi. Chỉ cần ở trên chỗ mạch khoét đục tường thành quanh thủy, thủy hợp sẽ hội tụ khí, thì có thể bổ cứu. Bởi vì tính quyết định phong thủy Địa lý rất lớn, không thể chỉ dùng lấy trước một biện pháp. Nhưng nếu như không phải là Long chân Huyệt chính, thì cũng sẽ không có chỗ dùng mạnh mẽ, chỗ này thì không thể không biết.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  12. Cảm ơn bởi:


  13. #8
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    36, Mộ huyệt lộ rõ Âm Mạch, thì lý nên thấu nhập, cho dù gấp gáp cũng phải tránh phương Sát mà cắm. Như mộ huyệt lộ rõ Dương Long, thì chính nghĩa phải tránh mái hiên (diêm), cho dù tính chất khoan dung cũng phải cần đấu cầu hạ thấp. Chỗ này là nói phép Minh táng Tiền thân hoặc Hậu súc phải lấy chỗ này làm căn cứ.
    37, Huyệt tự sinh Quy thì Vĩ cấp, khứ vĩ thì tổn thương Long, chỗ nói Quy Vĩ là âm, mộ huyệt như vậy không nên đến gần.
    38, Hình trạng Mộ huyệt giống như con Rùa bị chết mà lưng bằng phẳng, cắm vào thì tổn thương huyệt. Lưng con Rùa là Dương, mộ huyệt không nên quá bằng phẳng.
    39, Oa huyệt ( ổ huyệt) vừa nên sâu cũng nên cạn, nhũ huyệt vừa nên thấp vừa nên cao, chỗ này địa sư hoàn toàn dựa vào tâm minh nhãn chuẩn. Oa huyệt thuộc dương, địa thế bằng phẳng nên chôn sâu, nhưng cũng có khi nên chôn cạn. Nhũ huyệt thuộc âm, huyệt âm ứng với tránh Sát nên chôn thấp, cũng có khi nên chôn cao, phải hiểu được thiên cơ bên trong, ở người có đầu óc thông minh mới hiểu được.
    40, Âm Long tính cấp, cho nên sẽ không có Huyệt đường Phất đỉnh, Dương mạch tính khoan dung, thì sẽ có mộ cục Xuyên nhĩ. Mộ huyệt nếu như là Âm Long, quyết yếu dùng phép chống đỡ, Dương Mạch mặc dù tính khoan dung, cũng có thể dung phép chống đỡ. Chỗ nói đường cục Xuyên nhĩ, Phất đỉnh, là chỉ trời sinh Tọa Hướng, không phải là do chỗ sức người định đoạt.
    41, Nếu như gặp Mộ huyệt vốn dung phép Ỷ Chàng tác huyệt, nếu như Huyệt tình thích nghi phép Cái Niêm tác huyệt, lý ứng với Thấu cấp thì Niêm phiền, hoặc Ai sinh Xuất tử, lấy phù hợp với địa thế thiên nhiên, mà không phiền sức người cưỡng cầu. Có 4 loại phương pháp Tác huyệt là Cái, Niêm, Ỷ, Chàng, bao gồm các phương vị Mộ huyệt là Thượng Trung Hạ Tả Hữu. Nhưng nhìn chung mà nói, đều là phải đem Mạch khí dừng lại. Còn lại Thấu cấp Niêm khoan, Ai sinh Xuất tử, dã đô thị tại chỉ tự thượng tác văn chương. Áp dụng những loại phương pháp này, bản thân Mộ huyệt đều phải phù hợp hình thế thiên nhiên, mà không phiền sức người cưỡng cầu.
    42, Ở trên các bộ vị Nguyệt giác, Quy kiên tác huyệt, thông thường đều sẽ từ trong chỗ thiên lệch tìm ra chỗ chính Phàm tác huyệt ở trên bộ vị Nguyệt giác, Quy kiên, huyệt vị đều ở nơi thiên lệch. Nhưng ở trong chỗ thiên lệch cũng sẽ có chỗ chính. Chỗ nói “đều” trong bài văn, là chỉ không hẳn đã hết.
    43, Ở lúc tác huyệt trên núi hình tựa như cây trúc cao, giống như cây Thương, phải tìm kiếm chỗ đất bằng phẳng.
    44, Nếu như Minh đường kéo dài ra quá dài, thì có thể tìm cách đem Sát khí bỏ vào trong nước. Nhưng nếu như đồng thời gặp phải tình huống thuận cục, thì vẫn phải tác huyệt ở nơi chỗ chính. Nếu như Minh Đường kéo dài ra quá dài, thì sẽ có nước chảy thẳng ngay trước mặt, loại nước chảy này có thể cản trở Sát khí ở trong huyệt. Thì lúc này phải chú ý hai bên tả Thanh Long hữu Bạch Hổ càng phù hợp với huyệt tình xu cát, thì có thể tác huyệt ở sườn ngang bên cạnh, để tiện bỏ đi Sát khí ở trong nước. Nếu lúc vhư vậy thì thuận cục mà chính, không nên tác huyệt theo bề ngang, thì vẫn cần phải tác huyệt ở nơi chính, không cần xem xét Minh đường dài. Làm như vậy, thì người sẽ được nhận phúc chậm hơn.
    45, Lúc hình huyệt giống như con rắn, như đào bới ở ngay đầu rắn thì Thần sẽ chết. Lúc hình Huyệt giống như con cua, nếu như tạc huyệt ở ngay vỏ con cua thì sẽ làm tổn thương Vua. Cho nên gặp phải loại tình huống trước, thông thường đều sẽ tác huyệt ở nơi mắt rắn, gặp phải loại tình huống sau, thì cắm ở chỗ 7 tấc. Nhưng nếu như ở trên chữ Vua ở đầu Thần rắn, khí tụ ở trong nước bọt con cua, thì có thể linh hoạt hành quyền, tùy cơ ng biến. Tác huyệt phải lấy tình huống Thần khí tụ chung làm căn cứ.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  14. Cảm ơn bởi:


  15. #9
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    46, Lúc đụng phải huyệt tình đặc thù, thì học giả cần phải giỏi về truy nguyên nguồn gốc, thông qua suy xét, xử lý thiện biến, từ đó mới đoạt thần công kỷ xảo.
    47, Địa Lý học coi trọng ở một chữ Lý. Nếu như không kể tình huống tọa hướng âm dương mộ huyệt, thì có thể áp dụng biện pháp thủ bản cước định đối với Cáp tiêm. Nếu như không hỏi tình huống âm tác dương tác mộ huyệt tọa một hướng nào đó, thì có thể áp dụng lấy phép Đảo trượng bản cước quan tài định đối với Cáp tiêm hợp với chỗ Giao Khâm để định huyệt.
    48, Phải biết chỗ mộ huyệt nông sâu cao thấp, có thể đem đáy huyệt định cùng Qua lý (nơi bằng phẳng bên trong chỗ xoáy). Tức là lấy Nhất hợp Nhị hợp Thủy để định Mộ huyệt nông sâu.
    49, Như khí hội ở Hợp Khâm Lũng Nhũ, thì chỗ được mộ huyệt sâu lắng. Còn Chi bì thủy giao ở Thọ đái, thì chỗ định mộ huyệt quá cạn. Chỗ nói Lũng Nhũ, tức là chỉ Long ở đất cao, chỗ nói Chi bì, là chỉ Long ở đồng bằng. Chỗ nói Hợp khâm, Thọ đái, phân biệt là Nhất hợp thủy và Nhị hợp thủy. Chỗ đoạn văn ở trước có nói đáy huyệt nông sâu, lấy Bình (bằng phẳng) bên trong chỗ xoáy (Qua lý) làm chuẩn, ở đây Qua lý lại có phân ra Lũng Nhũ và Chi bì. Chỗ mộ huyệt Lũng Nhũ, như Bình đến Hợp Khâm tức là tính toán tác nơi sâu lắng, còn chỗ mộ huyệt Chi Bì, cho dù là Bình đến Thọ đái, cũng tính toán định là quá cạn.
    50, Định độ mộ huyệt nông sâu, thì còn phải xem xét độ sâu của Nhất hợp Nhị hợp thủy. Chỗ nói bỏ đi, tức là chỉ Nhất hợp Nhị hợp thủy, thông thường Mộ huyệt bộ vị hợp thủy không nên quá sâu, cho nên phải xem xét đến điểm này.
    51, Mộ huyệt ở nơi cao hoặc nơi thấp mới có thể đón nhận sinh khí, thì phải xem vị trí Thoả Bình táng khẩu ở đâu. Mộ huyệt không có luận định ở chỗ cao hoặc chỗ thấp, đều phải đón sinh khí. Phàm chỗ Huyệt có sinh khí, thì nhất định phải là trời sinh tự nhiên sẽ có Thỏa Bình táng khẩu, cũng chính là nơi đặt quan tài.
    52, Nếu như bởi vì tuổi lớn thâm niên, dẫn đến các loại thuật hình trạng ở trên khó phân biệt, thì cần phải khảo cứu tinh tường, không thể hành sự lỗ mãng. Điều này là chỗ đón nhận chỗ đoạn văn ở trên nói đến Bản cước, Cáp Tiêm, Huyệt để, Oa lý, Hợp Khâm, Thọ đái, Tiết khứ, Thỏa Bình khẩu mà luận.
    53, Lại có mấy loại tình huống như Long mạch tàng phục dưới đáy nước, cát huyệt giấu ẩn ở trong tảng đá, thì rất khó nhận biết, người bình thường không thể thấy được. Tất cần Phong thủy sư phải là có đạo nhãn, mới có thể nhận biết được Long mạch ở dưới đáy nước và Cát huyệt ở trong đá.
    54, Long Huyệt nếu như Thiếp tích Bình đầu, thì có nghĩa là Mạch đoản, phải đem quan tài sáp nhập cắm vào. Như tình hình Mộ huyệt chỗ Hoành Long lộ ra Thiếp Tích, Bình Đầu không thành lập, thì nói rõ chỗ này là Mạch đoản. Cho nên ở lúc hạ quan thì phải cắm vào, để tiện có thể tiếp xúc với khí mạch, cho nên nói hoành đam hoành lạc, không có Long phải hạ xuống có Long.

    (Còn tiếp)
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  16. Cảm ơn bởi:


  17. #10
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    54, Long Huyệt nếu như Thiếp tích Bình đầu, thì có nghĩa là Mạch đoản, phải đem quan tài sáp nhập cắm vào. Như tình hình Mộ huyệt chỗ Hoành Long lộ ra Thiếp Tích, Bình Đầu không thành lập, thì nói rõ chỗ này là Mạch đoản. Cho nên ở lúc hạ quan thì phải cắm vào, để tiện có thể tiếp xúc với khí mạch, cho nên nói hoành đam hoành lạc, không có Long phải hạ xuống có Long.
    55, Oa huyệt, Kiềm huyệt nếu như lộ ra tình huống Khởi đỉnh, có nghĩa là do Huyệt khí dài, thì phải dùng phép Niêm quan để hạ quan. Khí mạch ở Oa huyệt, Kiềm huyệt, ở bề mặt Khởi đỉnh mà ra, bề mặt phải chưa có huyệt khí mạch dài, lúc này thì phải dụng phép Niêm khoan mà hạ quan, mà không thể dùng Đấu mạch, cho nên nói trực tống trực bôn, hữu khí phải an vô khí.
    56, Lúc khí mạch đi ở trên mặt nước, hiện ra một chữ Thủy tích, dưới đây là nói rõ ràng để phân biệt. Lúc khí mạch dừng lại ở dưới nước, lộ ra là chữ hình nước xoáy, lấy chỗ này mà có thể xác minh xác để phân biệt vị trí Tiểu Minh đường. Khí mạch ở lúc vận hành, sẽ ở mặt nước hình thành một chữ hình trạng, không có chữ này thì không lộ ra mạch rõ ràng. Ở nơi khí mạch dừng lại, ở dưới nước sẽ hợp thành chữ hình nước xoáy, không có loại chữ hình này thì không thể giải thích tình huống Tiểu Minh đường.
    57, Nếu như bộ vị Chu Tước ở phía trước huyệt vị trí chính Án sơn, thì có thể thông qua Cục ngưng lại để điều tiết. Chỗ nói Chu Tước, là chỉ Án sơn ở phía trước huyệt. Như vị trí thủ chính Án sơn, có thể thông qua tả hữu cục Long Hổ để thủ dụng.
    58, Nếu như bộ vị Huyền Vũ ở phía sau Huyệt có núi quá dài, thì phải tìm kiếm nơi Long mạch hội tụ. Tức là lấy thủy giao dừng khí, chỗ Long mạch dừng lại là nơi huyệt mộ. Là lấy đến bên trái, Huyệt cư ở bờ bên phải, đến bên phải, mộ phần ở bên trái.
    59, Sa Thủy đến từ bên trái, chọn mộ huyệt ở bên phải. Sa Thủy đến từ bên phải, mộ huyệt phải chọn ở bên trái. Chổ nói đến, là chỉ hướng Sa thủy đến mà chảy về phía ta. Như tình ý sa thủy mà đến từ bên trái hướng về ta, thì phải lập huyệt ở bên phải để nghênh đón, gọi là Huyệt cư bên phải. Bởi vì sa thủy đến từ bên trái, tất định chúng nó có củng hộ ở đây, cho nên phải đem mộ huyệt định ở bên phải. Tình huống đến từ bên phải cũng giống vậy.
    60, Nếu như sa thủy đến từ chính diện, thì đem chọn ở trung tâm phía dưới mộ huyệt. Tình hình nếu như tình ý sa thủy vừa không theo phía bên trái, cũng không theo phía bên phải, mà lộ ra Án sơn đoan củng, thế Long xa xôi, thì gọi là đáo chính trường lai, có thể đem chọn ở trung tâm đúng phía dưới mộ huyệt.
    61, Như khí mạch nghịch chuyển, thì phải thủ thuận trong nghịch, như khí mạch chảy ra thuận, thì phải thủ nghịch trong thuận. Chỗ nói thuận nghịch, là chỉ biệt danh của hai chữ Âm Dương. Lấy tam dương mạch mà khởi từ đất là Nghịch, lấy tam âm mạch từ trời giáng xuống là Thuận. Lấy Dương mạch là Nghịch, Âm mạch là Thuận, chỗ thuận nghịch này thì nói cùng chỗ nói thuận nghịch khác là có khác nhau.
    62, Ở trong thuận cầu nghịch, thì gọi là Nhiêu Long. Ở trong nghịch thủ thuận, thì gọi là Giảm Hổ. Tức là chỗ nói ở phần trước, Sa Thủy đến từ bên phải, thì chọn huyệt ở bên trái, thì gọi là Thủ Nghịch. Như sa thủy đến từ bên trái, thì chọn huyệt ở bên phải, thì gọi là Thủ Thuận.
    63, Như sa thủy đến từ bên trái hướng về phía bên phải, thì lập huyệt ở bên phải lấy Lan Long. Như sa thủy đến từ bên phải hướng về bên trái, thì phải mượn trợ ở bên trái để lập huyệt đến Quan Hổ. Chỗ nói Quan và Lan ở trong bài văn, đều là nói ở bên dưới. Chỗ nói sa đến từ bên trái hạ xuống bên phải, tức là ý bài văn nói huyệt cư ở bên phải. Chỗ nói từ bên phải đến bên trái, tức là ý nói đặt mộ phần ở bên trái.
    64, Nếu như môn hộ mộ huyệt ngấm chảy, thì sẽ xuất hiện tình huống khí tán. Tức là nói phương pháp Quan Lan chỗ đoạn văn ở trên là không phù hợp, thì sẽ tạo thành thủy khẩu bao la, khiến cho chân khí thoe đó mà phân tán.
    65, Nếu như tường viên mộ huyệt lõm thấp, thì sẽ bị nhận phong hàn. Viên cục Mộ huyệt không đủ chu toàn, tả Thanh Long hữu Bạch Hổ xuất hiện đoạn khuyết, thì ý nghĩa là mộ huyệt sẽ bị gặp phong hàn.
    66, Nếu như phải di dời tu bổ viên cục phong thủy khuyết hãm, có thể thông qua biện pháp tổn cao mà ích thấp, tiệt trường mà bổ đoản để tiến hành. Chỉ cần Long chân Huyệt chính, thì có thể thông qua sức người để di dời tu bổ cái chưa đủ cho nó hoàn thiện.
    67, Nếu như mộ huyệt chỉ tham triều thủy, thì phải đề phòng có họa hoạn đâm sườn khoét ruột. Mộ huyệt triều thủy vốn là cát địa, nhưng thủy quý uốn khúc hữu tình, như không có sa lan thủy, mà thủy chảy thẳng xiết tung toé, thì chủ hung, sẽ có tai hoạ đâm sườn khoét ruột.
    68, Mộ huyệt có núi thấp gần kề là Án sơn chủ cát, như Án sơn quá cao, dẫn đến áp bức chướng mắt, thì chủ hung. Mộ huyệt có án kề gần, là cát huyệt. Nhưng nếu như Án sơn quá cao thì quá áp bức, dẫn đến chướng mắt, thì lại là hung hại.
    69, Sử dụng phép Cái để tác huyệt, nên biết thủ cao, nhưng lại kỵ lộ phong, cho nên phía dưới phải tìm bộ vị Thiền Dực (con ve sầu) rõ ràng. Dụng phép Niêm tác Long, không sợ hạ thấp, nhưng sợ thất mạch, thì phải kiểm nghiệm sợi tu hà (râu con Tôm) giới hợp tình hình. Bởi vì huyệt cao kỵ lộ phong, cho nên yêu cầu bộ vị Thiền Dực rõ ràng. Bởi vì Long thấp đề phòng thất mạch, cho nên phải kiểm nghiệm Tu Hà ( râu tôm) giới hợp.
    70, Hình huyệt tựa như bàn tay cầm cái xẻng, có thể phân ra huynh đệ tôn ti. Hình trạng Mộ huyệt tựa như bàn tay cầm cái xẻng, phân ra một trước một sau, như thứ tự tôn ti huynh đệ, chỗ này là hình dung đối với tả Thanh Long hữu Bạch Hổ.
    71, Phải biết Mộ huyệt chân giả, cần phải xem có phân hợp thủy hay không. Chỗ nói Lâm đầu, tức là ở trên mộ huyệt có phân thủy, chỗ nói Cát cước, là chỉ ở dưới mộ huyệt có hợp thủy, chỗ nói Bào thai, là chỉ mộ huyệt. Chỉ có mộ huyệt ở giữa chỗ phân thủy hợp thủy mới là Chân huyệt, nếu không thì là Giả huyệt.
    72, Mộ huyệt nếu như có trạng thái Ngạnh Lũng Đại Phu, chính là chỗ khối đất không có sinh khí đất không kết, chỗ nói Ngạnh Lũng Đại Phu, là chỉ đất không kết không có sinh khí.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  18. Cảm ơn bởi:


 

 

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •