Chào mừng đến với Tử Bình diệu dụng.
Trang 2 của 3 Đầu tiênĐầu tiên 123 CuốiCuối
Kết quả 11 đến 20 của 25
  1. #11
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    73, Như Long kiên nhuyễn, Long cảnh nhược, thì định huyệt vừa khéo giống như con chuột, giống như chuyển da đợi kỳ hình mượn mạch. Như Long mạch kiên nhuyễn cảnh nhược, có nghĩa là hoạt động có sinh khí, vừa khéo kết huyệt, dẫn đến ẩn giấu bờ sườn, giống như một dạng con chuột, giống như chuyển da mà đợi kỳ hình mượn mạch.
    74, Như mạch tình mộ huyệt bất thuận, trước mặt thì không nên tham lam có Triều sơn, phải đề phòng sơn cước đảo giày tháo chạy. Mạch tình toạ dưới Mộ huyệt không đúng, thì không nên tham làm được Triều sơn trước mặt, bởi vì bản thân đã mất huyệt, thì Triều sơn tuy đúng, ở phong cước thuận thủy cũng sẽ thoát chạy, chỉ có không chạy thoát, mới là Chân triều, cho nên nói: Đỉnh tuy tiêm viên khả ái, cước tất chạy thoát mà nhìn lại nó, chính là nói chỗ này.
    75, Long mạch đến nghiêng, thì thủ cắm chính huyệt, như Long mạch đến chính, thì thủ huyệt cắm bên sườn. Như Long Mạch đến nghiêng, thì mộ huyệt phải cắm chính mà lấy được lưỡng thủy giao kim làm chỗ dựa. Như Long mạch đến chính, thì mộ huyệt phải cắm nghiêng sườn để nghênh lấy Minh Đường, tình hình loại này là Long chính Huyệt nghiêng, xưng là Phiên thành Hoành khoáng.
    76, Mộ huyệt lạc ở Ao Oa ( chỗ lõm), tất cần phải chỗ lõm Bình chính (ngay ngắn, vuông vắn). Chỗ nói Ao (lõm) tức là Oa. Mộ huyệt lạc ở nơi ao oa, thì tất yêu cầu phải chỗ ao bình chính, nếu như không bình chính, thì sẽ giới thủy, không phải là Chân huyệt.
    77, Mộ huyệt chỉ cần có Nhũ trường phía trước mặt, nhưng đằng sau lưng đơn độc cũng không ngại. Nếu Mộ huyệt nhũ trường, thì phía đằng sau cũng không ngại. Như mặt sau lưng đơn độc mà nhũ không trường, thì cần phải có Quỷ thác, nếu không thì sẽ thành hình trạng mái ngói ngửa mặt, là hung.
    78, Long mạch ngộ Quỷ, nếu như có thể Hoàn khí lại là Thần kỳ. Long mạch ngộ quỷ sẽ đoạt khí mộ huyệt, nhưng nếu như Quỷ này có thể ở phía sau ngăn cản được gió thổi đến, ở phía dưới nước chảy bế tắc, thì lại thành dụng thần mộ huyệt, lại là hết sức đặc biệt.
    79, Mộ huyệt gặp Kiếp nhưng có tình, thì phản hung thành cát. Mộ huyệt gặp nhưng vốn là sẽ chia đi Long khí, nhưng Kiếp này nếu như có tình bảo vệ Chủ sơn, lại là điềm cát. Long ngộ Quỷ Kiếp, vốn là điềm hung, cho nên không phải là chỗ hỉ con người, nhưng nếu như có thể có tình hoàn khí, tự kết Viên cục, thì môn hộ cũng kỳ diệu, sẽ phản hung thành cát mà khả dụng.
    80, Tác huyệt thì phải Hậu tuần mạch khí, không làm cho khí mạch giống như sợi tơ rời kim đứt đoạn, lại cần phải tiếp khí tiền đường, không làm cho Huyệt tình và Đường tình giống như vợ chồng bất hoà thì trờ thành nghịch. Nguyên tắc căn bản khi Tác huyệt, là phải Nội tiếp sinh khí trong Huyệt, Ngoại tiếp sinh khí Minh Đường. Muốn Nội tiếp sinh khí trong huyệt, thì phải nhận Mạch đến từ phía sau, mà không thể cùng lai mạch nghịch đấu hoặc thoát ly, thì giống như sợi tơ xỏ kim không thể thoát ly. Muốn Ngoại tiếp khí mạch Minh đường, thì phải làm cho Huyệt tình cùng Đường tình tương ứng, giống như một dạng vợ chồng theo nhau, không thể như vợ chồng bất hoà, thì là chủ hung.
    81, Chuyển từ Long mạch tình huống đến biến thành đi có thể nhìn thấy hình trạng Loan khúc của nó, lấy đến tình âm dương, có thể nhìn thấy Huyệt tình cao thấp. Long mạch Mộ huyệt là làm sao uốn khúc đến Huyệt, phải cẩn thận tìm kiếm chỗ đi của nó chuyển biến thì biết, thông qua giải thích đến tình âm dương, thì Huyệt tình cao thấp cũng có thể định ra.
    82, Mộ huyệt lộ ra hình trạng người đang ngũ ở trong nước, thì phải chú ý không để cho Khâm cư nơi ẩm thấp. Chổ nói ngồi trong nước, là chỉ ở trong Oa huyệt có bọt nhũ nước nhô lên. Như không có bọt nhũ nước nhô lên, thì gọi là ngũ trong nước. Loại này nên phân biệt, thích hợp dùng Oa pháp ở Kim tinh khai thủy. Như mộ huyệt sau khi mở ra không có bọt nhũ nước nhô lên, coi như là La Huyền tác huyệt, gọi là Tàng Đầu tác khí, không như vậy, thì có thể là ẩm thấp.
    83, Huyệt cao phải là Vi Oa, giống như ở giữa bức tường có treo sẵn đèn tường, nhưng chớ làm cho tấm đẹm nghiêng đổ dầu ra. Phàm là huyệt cao tất phải có Vi Oa, lấy ở trong dương phải có Thiếu Âm, nếu không thì là Thuần Dương mà sẽ ẩm thấp. Nếu như là trong âm thì phải có Thiếu Dương, Thuần Âm thì sẽ nghiêng đổ dầu. Đạo lý của Địa lý học là thường luôn nhấn mạnh nhắc đến trong âm phải có dương, trong dương có âm mà thôi, sẽ không có nói khác.
    84, Mạch hành mà giới thủy không chảy, là chân cơ của Mạch pháp. Chỗ nói nước chảy, là ẩn dụ Mạch đi, chỗ nói nước không chảy, là chỉ hai ranh giới nước không chảy qua trước mặt Hợp Khâm. Loại này Mạch đi không dừng, là thấy được chân cơ của Mạch đi.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  2. Cảm ơn bởi:


  3. #12
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    85, Nhìn thấy tình huống chỉ có thủy qua sơn, là biểu thị chỗ diệu kỳ của Huyệt tình. Chỗ nói thủy đi qua, là chỉ hai dòng nước giao qua Hợp Khâm, chỗ nói không qua sơn, là chỉ mạch là giới thủy dừng lại không đi. Phải hiểu chỗ được xứ diệu kỳ của Huyệt tình chính là chỗ này.
    86, Hình miệng Sa giống như mũi thương nhọn, ở lúc nghịch thủy thì là có lực, ở lúc thuận lưu thì là vô tình.
    87, Miệng Sa thuận thủy chảy qua huyệt vị thì toán là hung, như lộ ra Tiêm Sát tàng phong thì lại là cát. Miệng Sa thuận thủy, không thể hoàn toàn nhìn vào xem là vô tình, chúng nó hoặc là vòng thành lan nước chảy xung bắn mộ huyệt, hoặc là ôm ngang qua thân lại thành Án sơn, lại có thể tàng phong mà không lộ ra Tiêm Sát, thì không chủ hung, trái lại giống như một loại văn bút thì chủ cát. Chỗ nói qua thân, là chỉ không lấy thuận thủy là sợ.
    88, Mộ huyệt chỉ có ở dưới tình huống Long chân Huyệt đích, mới có thể thảo luận vấn đề tinh kỳ là màu đất. Tướng địa lấy được Long Huyệt chân chính là sự tình rất trọng yếu, như mộ huyệt không phải là Long Huyệt chân chính, cho dù màu đất tinh kỳ cũng không có gì là ích lợi, cho nên nói màu đất là sự tình thứ yếu.
    89, Nếu mộ huyệt lộ ra Đường sai Sa lỗi, vậy thì bất tất phải xem Huyệt tình. Tình hình Đường Sa như thế nào, có thể làm bằng chứng là mộ huyệt chân chính hay không, nếu như lại sai lầm, thì có thể biết là không có chân huyệt, càng thêm hà tất phải nói đến màu đất tốt xấu.
    90, Thảo luận thủy lưu sinh vượng, đối với Long Huyệt mà nói chỉ luận nước chảy hai bên trái phải uốn khúc vòng quanh hữu tình.
    91, Mộ huyệt nếu là Chân huyệt, tất định là thiên nhiên sinh thành, bản cước tất là tai đối với Cáp Tiêm.
    92, Lúc Thế Long thuận lưu, cắm huyệt phải cùng thủy ngang nhau, Đường Cục cũng phải quan tỏa (khoá cửa), lấy chân khí Long mạch kiên cố. Như lúc Thế Long nghịch hướng thì mộ huyệt phải làm phần cao, cùng hợp với tả Thanh Long hữu Bạch Hổ mở ra, để dung nạp có tình. Lúc Thế Long kết thuận, cắm huyệt không thể quá cao, cùng thủy ngang nhau là được. Nhưng nếu Đường Cục trước mặt mộ huyệt vẫn quan tỏa chu mật, khiến cho chân khí trở lại mà không phân tán, lúc này thì tối kỵ mở ra. Trái lại, như Thế Long kết nghịch, Sa Thủy triều đến, thì phải nên khởi dựng mộ cao, cũng làm cho Thanh Long Bạch Hổ mở ra, để thu nạp có tình, lúc này lại sợ phía trước chật hẹp.
    93, Sa Thủy Mộ huyệt cùng với con người là đồng hữu, không như chỉ vì ta chỉ có một. Phàm là một mình có đủ hưởng dụng Sa Thủy, mà không cùng người khác cùng chung mộ huyệt, mới là Chân huyệt.
    94, Sau lưng Mộ huyệt cuộn không, hình giống như mái ngói ngửa mặt, thì nguyên nhân thất bại đền từ trên trời.
    95, Trước mặt mộ huyệt lộ ra trái nghịch, hình thái bay xéo qua, thì sinh khí cũng sẽ bay phân tán. Như bên trong mộ huyệt có chân khí, thì tự nhiên sẽ có sa thủy bão hộ. Như sa thủy vừa phản lại tà, thì có nghĩa là sinh khí bay phân tán.
    96, Ở dưới tình huống Tinh thần không có hóa khí, có thể tác huyệt hay không, hoàn toàn dựa vào có Tinh thần dung kết. Như chỗ đoạn văn ở trên nói, mộ huyệt nếu như lộ ra trạng thái Ngạnh Lũng đại phu, là biểu hiện không có hóa khí. Nếu như lúc này có Tinh thần dung kết, thì có thể tiến hành cắt xén, tìm đến nơi tác huyệt. Nhưng nếu thiếu khuyết Tinh thần, thì không có bằng chứng tác huyệt.
    97, Tác dụng mộ huyệt phải có thần công, thì phải có thủ đoạn cắt xén, mới có thể biến hung thành cát, điểm thiết thành kim. Điểm huyệt nếu như có thủ đoạn cắt xén, mới có thể có tác dụng đắc pháp, liền có thể biến hung thành cát, điểm thiết thành kim, chỗ này không phải là thần công sao? Chỗ nói thủ đoạn, là chỉ chỗ nói loại Thu sơn, Xuất sát, Khí tử, Ai sinh, Tiếp khí, Nghênh đường, biết dừng tụ, nhận tính tình ở đoạn văn nói trên. Tính huyệt có rất nhiều, nhưng thường là luôn chỉ có tính hình, mà không có tính chủ. Cát Long cũng là khắp nơi đều có, nhưng cho dù có đất tốt, cũng không có người tốt. Cho nên, mộ địa tốt thường luôn tồn tại con người thế gian, nhưng nếu địa sư tốt lại rất khó gặp đến tri kỷ. Có thể hay không đem kỹ thuật của mình bán cho người khác, đầu tiên là phải xem người đó có hay không có đức hạnh, nếu không, e rằng sợ phải có khả năng là người tài giỏi lại không được trọng dụng.
    98, Trong đại tìm tiểu, trong tiểu tìm đại, ở trong sơn mạch to lớn tinh hoa kết huyệt của nó thì ở trong nhỏ bé, trái lại, toàn bộ Long mạch là nhỏ bé thì phải tìm đến nơi kết huyệt lớn nhất!
    99, Thập đại lấy tiểu làm tôn, ở xung quanh bốn phía đất phong thủy đều là đỉnh núi lớn thì phải tìm kiếm tinh thể nhỏ nhất, ở trong chỗ tinh thể nhỏ nhất là chỗ tinh hoa nhất! Nó giống như một ngón tay của con người mặc dù ngòn tay rất nhỏ, nhưng mà nhẹ nhàng gõ đến thì đau đến chết người!
    100, Thập tiểu là lấy đại quý, dưới tiền đề tinh sao xung quanh đều là rất nhỏ bé, chúng ta tất cần phải tìm kiếm đến chủ tinh sao lớn hơn một chút so với những tinh sao này, đại tinh sao này chính là chủ kết, nó giống như con ong chúa ở bên trong đàn ong mật nó có thể khống chế toàn bộ ong mật, đại tinh đầu này cũng chính là chủ soái của những tinh thể nhỏ này, tìm đến chủ soái kết tinh chính là cơ cấu quyền uy tối cao nhất!
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  4. Cảm ơn bởi:


  5. #13
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    II. Chân quyết Điểm Huyệt tầm Long

    Sơn mạch, ở trong Địa lý gọi chung là Long, sơn mạch đi từ cao đến thấp, hình thành thế đi, như Rồng bay Phượng múa, Long bàn Hổ cứ. Sơn mạch có thủy hộ nhau, từ khe núi xếp thành sông biển. Có sơn có thủy, thì sơn thanh thủy tú, sinh động, Long nhờ thủy mà dừng lại, Long dừng thì Khí tụ, có linh khí, nếu ở nơi này, ngày sau tất nhiên khởi sinh phong thủy. Cần phải tìm kiếm nơi này thì chính là Tầm Long, còn gọi là bảo địa phong thủy, nhưng phải có bí quyết.
    Tầm Long, bước thứ nhất, đầu tiên là xem Thái Tổ sơn, phải chăng là Liêm Trinh làm tổ, độc bá một phương. Sau đó lại xem Thiếu Tổ sơn, Phụ Mẫu sơn, xem Long xuất thân và bác hoán, hành tẩu, phải chăng là mở màn trùng điệp, Xuyên điền Quá hạp, lại xem Nhập thủ, lưỡng sa giao hội có tình hay không, Long có âm dương giao phối, hóa khí kết huyệt hay không, đây chính là một quá trình Tầm Long.

    1, Thái Tổ sơn: Tức là Tổ tông sơn Long, tức là đất khởi nguồn. Tổ sơn đứng sừng sững ở trong bầy quần lĩnh vạn sơn, cao lớn hung vĩ, chọc thẳng vào trong mây trên bầu trời, mây mù mây tía ôm lấy mưa, tú lệ hung tráng, có Long lâu, Phượng các, Thiên trì, Thiên thê, hộ vệ. Vật cát tường ở trong đám mây mù chợt ẩn chợt hiện, đạt đến chân núi trông về nơi xa như bước vào cảnh thần tiên, khiến cho con người vui tươi thanh thản.
    Tác dụng tìm Thái Tổ sơn:
    (1), Có phải là Liêm Trinh làm tổ. Cao lớn.
    (2), Xem Thái Tổ sơn quý tiện, có thể biết hiệu ứng khí thế cùng phúc lộc của Long.

    2, Thiếu Tổ sơn: Đi theo Thái Tổ sơn, thuận theo sơn mạch mà đi, nhấp nhô lên xuống, uốn khúc quanh co, hoặc nhỏ hoặc lớn, hình giống như rắn bò đi, có lúc, đột nhiên biến nhỏ, lại biến lớn, có lúc đột nhiên gồ lên như một hình cầu mà còn có hai bên sơn mạch hộ tống, hành trình hình trạng dần dần từ hẹp biến rộng, từ rộng biến hẹp, bỗng đột nhiên nhô cao lưu luyến núi đại sơn, chính là chỗ gọi Thiếu Tổ sơn.

    3, Phụ Mẫu sơn: Đi theo Thái Tổ sơn cưỡi gió mà đi xuống, không ngừng trải qua liên tục nhấp nhô lên xuống, bỗng chốc hạ xuống, đi đến chỗ gần kết làm chỗ lại tạo nên đỉnh núi, như con Hạc đứng ở trong dãy núi cao vút, đây là Thiếu Tổ, từ đây một mạch mà đi lại trải qua không ít lên xuống, tả hữu bàn Long, kết huyệt thẳng đến đỉnh Huyền Vũ ở sau một đoạn Tinh phong là Phụ Mẫu sơn, chỗ rơi mạch ở dưới Phụ Mẫu sơn có bọt nước chính là Thai Tức, sau khi trói khí lại khởi Tinh diện, thì đỉnh kết huyệt gọi là Dựng (có thai), nơi kết huyệt gọi là Dục (sinh đẻ). Bên trên là nói Tổ tông sơn, Thiếu Tổ sơn, Phụ Mẫu sơn, Thai Tức, Dựng, Dục của sơn mạch. quan hệ một mạch truyền là thành Huyệt. Xưa nói: "Thai dục Dựng dục, biến hóa vô cùng", "Vạn lý sơn đều khởi từ Tổ tông, mà tất phải trải qua Phụ Mẫu, mới có thể Thai tức Dựng dục, sau đó mới thành hình, để nhận hình thủ huyệt, biết rõ chỗ cha sinh, chỗ mẹ dưỡng.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  6. Cảm ơn bởi:


  7. #14
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    4, Xuất thân Long: Cũng cùng con người giống nhau, có phân ra phú quý bần tiện, hung ác thiện lương, gian tà hại nước hại dân, chính trực thiện lương, thiên hạ được phúc. Đặc trưng Long thiện lương phú quý là tiền hô hậu ủng, sinh động hoạt bát, nỗi lên linh khí, vui tươi thanh thản. Đặc trưng Long hung ác là đá to lởm chởm, cây cối rất hiếm, tả băng hữu khuyết, thân đầy bén nhọn, hung khí áp người, hàn khí áp người, sát khí đằng đằng, xung quanh vô tình. Đặc trưng Long bần tiện là: Cứng nhọn, lười nhác, rời rạc. Vô tinh vô trướng.

    5, Bác Hoán Long: Bác hoán chính là biến hóa, vô cùng vô tận, có tốt biến xấu, cũng có xấu biến tốt, Long biến hóa, là sơn thủy tuân theo Nhật Nguyệt tinh hoa ở trời đất mà diễn biến. Ở giữa sự Huyền diệu, cát tiết họa phúc. Cơ ứng nghiệm, "Nhất Bác nhất Hoán lớn sinh nhỏ, từ lớn bác nhỏ tối kỳ dị, Bác Hoán thoái lui kiến Chân Long, tiểu sơn như cũ Lang tinh khởi. Bác hoán như người đổi hảo trang, như ve lột xác tầm thoát y."
    * Phép Bác Hoán có 3 loại như sau:
    1, Thuyết ngũ hành:
    (1) Dương giúp Âm dục, tức là Dương (kim mộc hỏa) bác biến (thủy thổ);
    (2) Âm mượn Dương sinh, tức là Âm (thủy thổ) bác biến (kim mộc hỏa).
    2, Thuyết Thể sơn:
    (1) Thoái cởi Bác (lột bỏ) Hoán (đổi) thô biến nhỏ, hung tinh biến cát tinh;
    (2) Lão Long bác hoán sinh cành non giảm đoạn không sợ nhiều;
    (3) Từ lớn bác nhỏ tối kỳ dị, bác hoán thoái cởi thấy Chân Long.
    3, Thuyết Cửu Tinh: Cổ nhân nói: "Phàm xem một Tinh dễ xem biến, nhận biết biến Tinh biết xa gần, từ xa Tham Lang đến Phá Quân, hoán tận Long lâu sinh Bảo điện, một bác một biến hình khác nhau, sao có nói hết nhìn Tổ tông, nếu anh nhận biết Biến Tinh pháp, nghìn dặm tram dặm tầm Lai Long" .
    (1) Tham, Cự, Phụ, Bật là Cát tinh;
    (2) Văn, Liêm, Lộc, Phá là Hung tinh.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  8. Cảm ơn bởi:


  9. #15
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    6, Khai trướng: Lai Long khai trướng, hình giống như cái lều bạc, phân rõ hai bên, rộng có hơn 10 dặm, hoặc 5, 6 dặm, hẹp có 1, 2 dặm, là một chứng cứ trọng yếu để kiểm nghiệm kết huyệt. Lấy khai tâm xuyên trướng là quý, khai trướng mà xuất ra rất có lực, nhị tinh kim mộc khai trướng là Thượng cát, thủy tinh khai trướng là thứ, xuất từ ở giữa là Thượng, xuất từ hai bên là thứ, đá lớn bên hải là Thiên Quan, bên trái là Địa Trục, hình tựa như Rùa Rắn, các cách Xuyến châu Ấn kiếm càng hay. Còn có khai trướng xuyên tâm phải khởi từ bên cạnh, mà cuối vai giống như Cung sảo, phô ngang xa rộng, bao bọc hữu tình cũng là cát.
    Các loại Khai trướng có mấy loại là: Thập tự Trướng hình, Đinh tự trướng hình, Xuất Trướng quý nhân, Nhập Trướng quý nhân.

    7, Quá Hạp (cái eo): Giống như cổ họng con người, là nơi nhỏ nhất, là nơi chân khí Long tụ tiết, cho nên thầy phong thủy biện luận Quá Hạp là hết sức trọng yếu. Hạp cùng có phân ra cát hung, lưng đàn Hạc là tối quý, kỵ gió thổi, thủy kiếp, cho nên Chân Long quá hạp tất phải có Nghênh (đón) có Tống (đưa), có Giang (gánh) có Giáp (kẹp), hộ vệ chu mật, phân thủy rõ ràng, miễn tránh gió thổi thủy cướp. Như dưới đây là mấy loại tình hình xét Hạp định Huyệt:
    (1), Hạp chính xuất, thì huyệt cùng chính, xuất bên trái, thì huyệt ở bên trái, xuất bên phải thì huyệt ở bên phải.
    (2), Chính xuất quá nghiêng, thì huyệt cũng chính xuất mà đảo nghiêng, xuất từ bên sườn mà quá chính, thì huyệt cũng xuất từ bên sườn mà đảo chính.
    (3), Xuất mạch thấu đỉnh, thì huyệt cư ở dưới chân, xuất mạch dưới chân, thì huyệt cư ở trên đỉnh.
    (4), Sơn hộ, huyệt kết ở cụm núi, Thủy hộ, huyệt kết ở bên thủy.
    (5), Bỏ núi nhỏ mà không có nghênh đón, khí mang muốn hạ, kết huyệt ở chỗ gần, bỏ núi lớn có nghênh đón, khí chính phát thì huyệt tất kết ở chỗ xa.
    (6), Trong Hạp sa bên trái ngắn, thì trước huyệt sa bên trái tất đến trước, trong Hạp sa bên phải ngắn, thì trước huyệt sa bên phải tất đến trước. Các loại Hạp có rất nhiều, có Dương hạp, Âm hạp, Khúc hạp, Trực hạp, Trường hạp, Đoản hạp, Khoát hạp, …
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  10. Cảm ơn bởi:


  11. #16
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    8, Nhập thủ Long:
    Là xem Long quý tiện, bất tất phải xem từ nơi rất xa, lại không nên xem từ nơi Thái Tổ, đó chỉ là thứ yếu, chủ yếu hơi là nhập thủ từ sau 2, 3 đoạn, bên trong 4, 5 đoạn, hoặc đến Thiếu Tổ sơn đoạn này có cự ly trọng yếu nhất, Hảo Long tất cần phải gần Huyệt, chỗ nói Lai Long xem chỗ chấm dứt, chính là đạo lý này. Nhập thủ Lai Long, có Long lai xa thì không được tốt, phải đem lúc nhập thủ gần huyệt thì bác biến thành Hảo Long, là cát địa, nhưng có niên đại lâu, khí vận hành đến chỗ phía sau giảm đoạn, khí Long không tiếp nhận là bại, lại còn có Long lai ở xa vẫn tốt, ở lúc nhập thủ gần huyệt thì biến xấu, chủ hung, không thể hạ táng. Thường thấy cách thức Long nhập thủ có 5 loại, ở ngày sau trong lúc thao tác, tất nhiên cẩn thận quan sát thẩm định, mới có thể tạo phúc cho muôn dân.
    (1), Trực Long nhân thủ cách, cách này là tối cát, Long từ phía sau nhập thủ, đỉnh đối diện với lai mạch, mà kết huyệt, loại này đụng bối Long kết huyệt phát phúc rất nhanh, loại cách thức này khí thế to lớn, tất có dư khí làm đệm thần.
    (2), Hoành Long nhập thủ cách, mạch đi ngang nhập thủ mà kết huyệt, hoặc đến từ bên trái, hoặc đến từ bên phải, nhưng nhất định phía sau huyệt phải có Lạc tinh, có Quỷ vĩ, mới là Chân huyệt.
    (3), Phi Long nhập thủ cách, tức là ngẩng mặt hội tụ ở trên cao mà kết huyệt, xu thế cao mà ngẩng đầu, cho nên viết là "Phi Long", tất phải có bốn bề đều cao, thẳng đứng tụ ở trên, thế ngửa mặt nhận huyệt, mới là chân kết, huyệt này có lực lượng rất lớn là quý trọng phú khinh, chủ yếu là thủy đến không tụ, là Thiên Hoa cục, Sa bay Thủy chạy, nhưng hai Sa tất phải giao khớp quan tỏa.
    (4), Du Long nhập thủ cách, Long khí xòe ra rơi vào đất bằng mà kết huyệt, gọi là Tiềm Long, tất cần phải bằng mà có lõm, hoặc có mở khẩu, thế thủy vờn quanh, mới là chân kết.
    (5), Hồi Long nhập thủ cách, lật mình lại nhìn về tổ sơn mà kết huyệt, gọi là Hồi Long, Kinh nói: "Uyển chuyển Hồi Long tựa móc câu, chưa tác kết huyệt trước tác triều, Triều sơn đều là Tông và Tổ, không chấp mười dặm xa vạn dặm." Ngoài ra còn có các cách Đại Hồi Long, Tiểu Hồi Long, cùng Bàn Long Không.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  12. Cảm ơn bởi:


  13. #17
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    9, Nhập Thủ Long quý tiện (Bí quyết Dương Công)
    Hợi Long thụ huyệt gọi Tam Công,
    Tử tôn phú quý thọ tiên ông.
    Nhâm Quý thủy Long xưng Thiên Phụ,
    Vũ tướng gia đình nhiều phúc lộc.
    Tử Long cao khởi Khảm khí thanh,
    Định xuất cao quan người học vấn.
    Sửu Long song hành thêm chân Cấn,
    Nam nữ đa ứng hưởng gia phong.
    Cấn Long Thiên Lộc hiếu nghĩa môn,
    Cục có tài phong tước vương hào.
    Giáp Dần Hành Long nếu nhận huyệt,
    Chứng bệnh khất tàn bệnh lao chết.
    Mão Long hướng Canh Sa Thủy Canh,
    Vũ tướng tinh kỳ chiếu Trung Hoa.
    Ất Long Tài tinh Tài tiếp mộc,
    Khó tránh hoán dưỡng làm con nuôi.
    Thìn sơn yểu vong trộm tống nhi,
    Cục tiễn vào Oa nhân đinh hiếm.
    Tốn Long làm quan đến Thượng thư,
    Nữ vinh Nam quý khánh hữu dư.
    Tị Long Thiên Tài phong tài bạch,
    Cũng chủ phú quý hào anh kiệt.
    Bính chủ ưu du tài có dư,
    Cục tiễn thanh quý hào danh dự.
    Ngọ Long chậm chạp nhảy cao quý,
    Thìn Tuất Hợi chiếu hại hình khắc.
    Đinh Long nam cực người khéo thọ,
    Không nhiễm Mùi khí vinh hoa sớm.
    Mùi ai đinh hành nên hướng Cấn,
    Huyệt ai tả vị người quý hiển.
    Khôn Long cục mỹ phú cũng đến,
    Còn không tương làm tăng ni.
    Thân long huyệt tọa Canh kim tinh,
    Vi ai Lão Âm tài đinh thịnh.
    Canh Long địa lộc chủ uy phong,
    Cục có Tướng quân đảm khí hùng.
    Dậu Long thanh hương ít bình thản,
    Văn chương khoa giáp điểm huyện châu.
    Tân là Thiên Tiết chủ trung hiếu,
    Không nhiễm Tuất khí đăng giáp khoa.
    Tuất Không cô dâm người xấu tật,
    Cục mỹ dần phú sau bình bình.
    Càn Long cô quả thiếu sinh dưỡng,
    Cục mỹ nhiễm khác cũng danh thành.
    Hợi Cấn Tốn Tân Mão Long chí,
    Mẹ con phức tạp là nhiễm khí.
    Hợi Càn bình phân là Hành Long,
    Càn Hợi rút bỏ nên cân nhắc.
    Hợi đa Càn thiếu kham cắm táng,
    Càn đa Hợi thiếu không thể làm.
    Càn Hợi nhổ đỉnh nên lạc phải,
    Hợi Nhâm nhổ đỉnh nên lạc trái.
    Bản này một điểm làm ví dụ,
    Sửu Cấn Dần Long cũng thuận suy.
    Cấn Long lạc Sửu là nửa cát,
    Trục Cấn đỉnh Dần sinh phong tật.
    Ngọ Bính tạp lai hồi lộc họa,
    Thìn Tốn cùng lạc hại nữ nam.
    Đinh tạp Ngọ Mùi gia linh tẩu,
    Chân Long phú quý tùy ngụy lai.
    Chân lạc chân mạch là thông đạt,
    Nhưng sợ trên tình có hưng suy.
    Thẩm Long chân ngụy định chủ Huyệt,
    Đón khí thu vào có huyền cơ.
    Nếu như hiểu được thiên cơ bí,
    Đuổi kịp Tiên sư cùng thế hệ.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  14. Cảm ơn bởi:


  15. #18
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    10, Phân biệt Tinh Thể rất trọng yếu:
    Nó là một môn tri thức để phân biệt Tinh phong cát hung như thế nào. Là môn học không thể thiếu ở trong phong thủy, Long tốt xấu là quyết định ở thân, thân cát hung thì tìm ở Tinh, chưa nhập sơn, đầu tiên nhìn thấy là Tinh phong, Tiêm, Viên, Phương, Tú là Cát, Phá, Toái, Y, Nhược, Cốt lộ là Hung.
    (1), Ngũ tinh, tức là dụng kim, thủy, thủy, hỏa, thổ, dụng ngũ hành đem sơn phong tiến hành phân loại. Hình Kim tinh: Đầu tròn, chân rộng, hình tròn, Ca quyết nói: "Kim tựa úp nồi kiêm trắc nguyệt, là Vũ tinh". Hình Mộc tinh: Đầu tròn mà thân thẳng, hình thẳng, Ca quyết nói: "Mộc tinh đốn hốt hình khác biệt, là Văn tinh". Hình Thổ tinh: Đầu bằng mà thể tú, hình vuông, Ca quyết nói: "Thổ như tủ bát hoặc bàn lật, là Tài tinh". Hình Thủy tinh: Thủy bình mà có gợn sóng, hình cong, Ca quyết nói: "Thủy tựa Xà hình eo thắt lưng, là Tú tinh". Hình Hỏa tinh: Đầu nhọn mà chân rộng, hình nhọn, Ca quyết nói: "Hỏa tinh góc nhọn lê đầu sắt, là Vũ tinh, cũng kiêm Văn tinh" .
    (2), Hình Cửu tinh, tức là Dương Công Cửu tinh: Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, Tả phụ, Hữu bật.
    + Tham Lang tinh: Chính Mộc tinh, đầu tròn thân thẳng, "Tham Lang đốn Hốt măng mới sinh". (Chú: Cái Hốt, ngày xưa vua quan ra chầu đều cầm cái hốt, hoặc làm bằng ngọc, hoặc làm bằng tre, ngà, có việc gì định nói thì viết lên giấy để phòng cho khỏi quên. Ðời sau hay làm bằng ngà voi mà chỉ các quan cầm thôi.)
    + Cự Môn tinh: Chính Thổ tinh, đầu bằng thể tú, "Cự Môn Thiên Mã bình phong liệt".
    + Lộc Tồn tinh: Thổ kim kiêm hình, đầu như đốn cổ, chân như trảo bào, "Duy hữu Lộc Tồn trư thỉ tiết".
    + Văn Khúc tinh: Thủy tinh, hình như cuộn vải, sinh Xà hình, "Văn Khúc đa số là Mạch tinh".
    + Liêm Trinh tinh: Đếm hỏa tinh ngay cả tọa, đầu nhọn mà quý, đeo tầng thạch lăng, "Liêm Trinh chải răng treo phá y".
    + Vũ Khúc tinh: Chính Kim tinh, đầu tròn chân rộng, "Vũ Khúc man đầu tròn lại cong".
    + Phá Quân tinh: Hình như cờ bay, đầu cao đuôi thấp, đầu tròn chân nhọn, mấy vị kim tinh đem chân tay tung bay, "Phá Quân phá tán giống đánh nhịp".
    + Tả Phụ tinh: Thị miên thể tác hộ tống tinh, dữ vũ khúc tinh loại tự, đãn giác đê ải, "Tả phụ man đầu vô soa biệt" .
    + Hữu Bật tinh: Là hãm diệu, vô hình tích, ở sơn Long Quá hạp, Xuyên điền, "Bình thản vô bối xử cập bình địa" .
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  16. Cảm ơn bởi:


  17. #19
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    11, Khí thế và Cách cục của Long
    (1) Khí thế Long tức là thế khí, phân ra có lực và vô lực. Có lực là cát, vô lực là hung, thế Long có phân biệt 10 loại thướng thấy là: Sinh, Tử, Cường, Nhược, Thuận, Nghịch, Tiến, Thoái, Bệnh, Phúc, Sát.
    + Sinh Long: Tinh phong (Phong ý là ngọn núi) quang minh, nhánh chân hành độ đong đưa có lực, trên dưới nhấp nhô, tả hữu bàn Long, sinh động hoạt bát, cây cỏ xanh tươi, tiền nghênh hậu tống tầng tầng hộ vệ, có sức hấp dẫn, loại Long này kết huyệt là đại phú đại quý, chủ nhân đinh hưng vượng, mấy đời phú quý.
    + Tử Long: Tinh phong mơ hồ, thể long thẳng cứng, không có nhấp nhô biến hóa tổ ngu cồng kềnh, cây cối chết khô giống như cá chết không có sinh khí, cách hung, có huyệt cũng là giả, chủ cùng khổ hạ tiện.
    + Cường Long: Tinh phong hồi dị, thể cách hùng kiện, trên dưới nhấp nhô, tả hữu cuồn cuộn. Có khí thế dời sông lấp biển, uy vũ bất khuất, áp đảo thiên hạ.
    + Nhược Long: Tinh phong như gầy trơ xương, nhánh chân co ngắn, hành động vô lực, đầu ngỗng cổ vịt, phân tán, đông xuyên tây lưu, xung quanh tiết khí, loại Long này kết huyệt, chủ cô bần tật khổ.
    + Thuận Long: Tinh phong thuận xuất, nhánh chân thuận hành, hành độ đoàn tụ, tôn ti trật tự, bao bọc xung quanh tiến về phía trước, có tình, Long này kết huyệt, chủ phú quý lâu bền, con cháu dông đúc, hiếu thuận an hòa, đa phúc đa thọ.
    + Nghịch Long: Tinh phong lập bên cạnh, nhánh chân nghịch hành, phản phục vô thường quên trước bỏ sau, hành độ bất thường, Long này kết huyệt là tối hung, chủ xuất nghịch tặc cường đạo, con cái bội nghịch.
    + Tiến Long: Tinh phong tuần tự uy nghiêm, chân nhánh đều đặn, hành độ có trật tự, trên dưới nhấp nhô ngừng hạ có thứ tự, tả hữu uốn khúc đều đặn. Thân Long lần lượt đặp cao, giống như gió thổi nghịch nước, Long này kết huyệt rất cát, chủ phú quý song toàn, phát phúc lâu dài.
    + Thoái Long: Tinh phong hỗn loạn không có thứ tự, hành độ chùn lại, Long thấp Huyệt cao, như đi vào hiểm địa, từ cao ngã xuống, Long này là tối hung, chủ vừa phát liền thoái bại, có khí vô lực, lười biếng.
    + Phúc Long: Tinh phong không xấu không thô, tựa như xa rời tổ tông mà đi áp tải, tiền hậu tả hữu không muốn rời xa, nhánh chân không lớn, tinh thể hành Long đái thương đái khố, chủ phát phúc lâu dài phú quý yên vui.
    + Bệnh Long: Thể thái Bệnh Long tuy đẹp, nhưng trong cái đẹp không đầy đủ, bẩm khí thiên Bác, không có Trướng, hành Long lưỡng Sa nhánh chân bên có bên không, bên sinh bên tử, bên đạp bên xấu, một bờ chu toàn, một bờ khuyết hãm, một đoạn hoạt dược một đoạn tử ngạnh, chủ phúc họa mỗi nửa.
    + Sát Long: Thân Long đái sát chưa trút bỏ, tựa như rời tổ để đi, xấu ác thô hùng, lộ cốt mang đá, chân nhánh bén nhọn, phá vỡ, cồng kềng thẳng cứng, Long này rất là hung ác, chủ hung, có tượng giết chóc, ngày sau tất có họa thảm diệt.
    (2) Cách cục của Long là biết Long sinh tử, cát hung, ảnh hưởng đối với Huyệt đã biết, nhưng cách cục của Long, rất trọng yếu, cũng là trọng điểm để phán đoán phú quý bần tiện. Bởi vì cách cục Long có rất nhiều chủng loại, như Đại phúc chung, Vân trung kim, Đại phúc phủ, Tiểu kim tinh, Phong đái long, Cao kim vân lưỡng thế, Cao não tam kim, Cao não tứ kim …, tổng cộng có 273 đồ hình, mời xem tham khảo "Thiên cơ hội nguyên" vừa xem là hiểu ngay.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  18. Cảm ơn bởi:


  19. #20
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    12, Long pháp thập yếu:
    Long pháp thập yếu, là chỗ tinh túy trong phong thủy học. Tiên hiền nói: "Điểm huyệt cần Long mạch, cần đón Long khí, phải biết ý Long". Mạch, Khí, Ý ba chữ này, nhất định phải suy xét cẩn thận, nếu quá thật làm đến mạch, đón khí, hiểu ý, thì phải hồi phục tập trung, dương hòa dường tú, hiểu phương pháp thu sơn xuất sát, Ai sinh tinh khí Tử tinh, sau khi an táng đại địa tất là đại phát, tiểu địa thì tiểu phát, nếu như không ứng nghiệm, chính là không được mạch, không đón khí, không hiểu ý, khiến cho khí lạnh triệu tai, âm sát làm hung, cho dù có thu được sơn, xuất được sát thì cũng vô dụng, đại địa tất là đại hung, tiểu địa tất là tiểu hung, tại sao sẽ có hung chứ? Chính là không biết đạo lý Mạch, Ý, Khí, cho dù được chân huyệt, tất cũng đại hung, châu bảo và hố lửa, chỉ khác một chút mà thôi!
    (1) Phải được Long mạch: Đứng ở ngay Huyệt tràng quan sát Huyệt tinh, xung quanh trong đó chỉ có một mặt, có một sợi mạch, bắt đầu từ đỉnh huyệt, dọc theo một sườn dốc, như sợi tơ kéo dài, mạch này phải mềm mịn, linh hoạt sinh động, có màu sáng trơn mới là chân Long chân Huyệt, cứng ngắc lệch thẳng là Giả huyệt, mọi người nên chú ý đỉnh huyệt không phải là đỉnh núi, mạch ở đỉnh núi, gọi là xuyên đỉnh, cực hung.
    (2) Phải đón Long khí: Hiểu được mạch, phải hiểu đón Long khí, khí theo mạch đi, dừng lại kết huyệt, làm sao hiểu biết được vật dung kết Long khí? Lúc dung kết Long khí, giống như một cái hình cầu, có lúc một nửa nhô ra che ở trên đất, có lúc ngửa xuống dưới, có lúc giống như hạt sương đọng ở trên lá sen, hơi có góc vòng, phải hiểu sâu xa chỗ áo bí "Hơi nhô" cao hơn "Lõm xuống", có khí che bao phủ, ngửa xuống có thủy khí, hơi nhô lên hiện ra ánh sáng tinh hoa, cao hơn giọt sương óng ánh. Đây là nơi đến chân khí, phàm sườn núi mới cũ có chỗ này thì là khí đến, không có chỗ này thì khí giả.
    (3) Phải biết ý Long: Ý Long là tình ý, nếu muốn giữ lại ý Long, nhất định phải được tổ Long. Sào (tổ), tức là núi tàng phong tụ khí có nước ôm quanh, tầng tầng hộ vệ, nơi quan tỏa (đóng khóa). Cho nên nơi tàng phong là ý Long dừng lại, nơi thủy giao là ý Long sinh, trước sau tả hữu, có đầu nhọn tròn, đầu vuông, sa tú lệ, hình thành sào huyệt tàng phong tụ khí, Long khí ở, là ý chân. Giữ chân ý Long, ý chân ý đến mới có thể phát phúc.
    (4) Phải thẩm Long: Biến núi cao sâu tơi vào bình nguyên, cao biến thấp, bình địa bỗng khởi nhô cao, thấp biến cao, câu già rút ra cành non, lão biến thiếu, mạch non biến núi đẹp, thiếu biến lão, trong oa sinh nhũ, trong nhũ khai oa, dương biến âm, âm biến dương, long lai rắn chắc, huyệt phùng chỗ không, thực biến hư, trong cục kết chính mạch ở não, góc xuyên đến, tà biến chính, trong hữu phì có thủ gầy, xứ hoãn thủ khẩn, trong đói chứa no, trong tĩnh có động, tình ý bách đoan, tức là âm sinh dương, dương sinh âm, biến hóa vạn bàn không ngoài cương nhu cứu nhau, đại phàm xem đất thấy chỗ này mới là âm dương cấu tinh, hội hợp tụ kết mới có phát phúc, không đúng chỗ này đều là giả.
    (5) Phải biết thế Long: Sinh, cường, thuận, vượng, bình, phục, ưu thế là Long cát; tử, nhược, thoái, suy, dật, lại, có đủ chỗ này là thế Long hung, phàm là Tầm Long thủ phải xem thế Thanh Long cát hung; phán đoán chân giả, quyết định lấy hay bỏ.
    (6) Phải xem tinh Long kết cục: Có Hoa Biểu Hãn Môn, Cầm tinh tắc khẩu, Quy Xà trấn hộ, Sư tượng bả môn, La tinh thu đường, Cát tinh hộ vệ. Long tinh còn có kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tinh, có Quyền tinh, Tôn tinh, Tài tinh, còn có Cửu Não phù dong, Ngũ Não mai hoa, Tam Thai phẩm tự, Tiên Kiều đại trướng, Thụ Quỹ thương khố, Long Lâu phong các … là Tinh tốt. Xem Long tinh, là chỉ Tinh lai Long kết huyệt: "Thẳng là mộc tinh, tròn là kim tinh, vuông là thổ tinh, nhọn là hỏa tinh, cong là thủy tinh vậy." Tổng cộng có 5 tinh, còn có Cửu tinh. Phàm Tinh kết huyệt, các thế như thị tọa, thị lập, thị đê, còn có trắc lập, trắc tọa, trắc miên, nếu kiêm tam thể, có phân ra các loại Chính Kiêm Thiếp Thị: Chính là chính thể tinh thần kiêm kim thủy; Thiếp như Xích kim Thiếp hỏa, Thị như Thổ phúc là loại kim …. Sau đó lại tiếp tục dùng phương pháp các thế lập, tọa, miên, định huyệt mới có thể có cát không có hung.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  20. Cảm ơn bởi:


 

 

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •