73, Như Long kiên nhuyễn, Long cảnh nhược, thì định huyệt vừa khéo giống như con chuột, giống như chuyển da đợi kỳ hình mượn mạch. Như Long mạch kiên nhuyễn cảnh nhược, có nghĩa là hoạt động có sinh khí, vừa khéo kết huyệt, dẫn đến ẩn giấu bờ sườn, giống như một dạng con chuột, giống như chuyển da mà đợi kỳ hình mượn mạch.
74, Như mạch tình mộ huyệt bất thuận, trước mặt thì không nên tham lam có Triều sơn, phải đề phòng sơn cước đảo giày tháo chạy. Mạch tình toạ dưới Mộ huyệt không đúng, thì không nên tham làm được Triều sơn trước mặt, bởi vì bản thân đã mất huyệt, thì Triều sơn tuy đúng, ở phong cước thuận thủy cũng sẽ thoát chạy, chỉ có không chạy thoát, mới là Chân triều, cho nên nói: Đỉnh tuy tiêm viên khả ái, cước tất chạy thoát mà nhìn lại nó, chính là nói chỗ này.
75, Long mạch đến nghiêng, thì thủ cắm chính huyệt, như Long mạch đến chính, thì thủ huyệt cắm bên sườn. Như Long Mạch đến nghiêng, thì mộ huyệt phải cắm chính mà lấy được lưỡng thủy giao kim làm chỗ dựa. Như Long mạch đến chính, thì mộ huyệt phải cắm nghiêng sườn để nghênh lấy Minh Đường, tình hình loại này là Long chính Huyệt nghiêng, xưng là Phiên thành Hoành khoáng.
76, Mộ huyệt lạc ở Ao Oa ( chỗ lõm), tất cần phải chỗ lõm Bình chính (ngay ngắn, vuông vắn). Chỗ nói Ao (lõm) tức là Oa. Mộ huyệt lạc ở nơi ao oa, thì tất yêu cầu phải chỗ ao bình chính, nếu như không bình chính, thì sẽ giới thủy, không phải là Chân huyệt.
77, Mộ huyệt chỉ cần có Nhũ trường phía trước mặt, nhưng đằng sau lưng đơn độc cũng không ngại. Nếu Mộ huyệt nhũ trường, thì phía đằng sau cũng không ngại. Như mặt sau lưng đơn độc mà nhũ không trường, thì cần phải có Quỷ thác, nếu không thì sẽ thành hình trạng mái ngói ngửa mặt, là hung.
78, Long mạch ngộ Quỷ, nếu như có thể Hoàn khí lại là Thần kỳ. Long mạch ngộ quỷ sẽ đoạt khí mộ huyệt, nhưng nếu như Quỷ này có thể ở phía sau ngăn cản được gió thổi đến, ở phía dưới nước chảy bế tắc, thì lại thành dụng thần mộ huyệt, lại là hết sức đặc biệt.
79, Mộ huyệt gặp Kiếp nhưng có tình, thì phản hung thành cát. Mộ huyệt gặp nhưng vốn là sẽ chia đi Long khí, nhưng Kiếp này nếu như có tình bảo vệ Chủ sơn, lại là điềm cát. Long ngộ Quỷ Kiếp, vốn là điềm hung, cho nên không phải là chỗ hỉ con người, nhưng nếu như có thể có tình hoàn khí, tự kết Viên cục, thì môn hộ cũng kỳ diệu, sẽ phản hung thành cát mà khả dụng.
80, Tác huyệt thì phải Hậu tuần mạch khí, không làm cho khí mạch giống như sợi tơ rời kim đứt đoạn, lại cần phải tiếp khí tiền đường, không làm cho Huyệt tình và Đường tình giống như vợ chồng bất hoà thì trờ thành nghịch. Nguyên tắc căn bản khi Tác huyệt, là phải Nội tiếp sinh khí trong Huyệt, Ngoại tiếp sinh khí Minh Đường. Muốn Nội tiếp sinh khí trong huyệt, thì phải nhận Mạch đến từ phía sau, mà không thể cùng lai mạch nghịch đấu hoặc thoát ly, thì giống như sợi tơ xỏ kim không thể thoát ly. Muốn Ngoại tiếp khí mạch Minh đường, thì phải làm cho Huyệt tình cùng Đường tình tương ứng, giống như một dạng vợ chồng theo nhau, không thể như vợ chồng bất hoà, thì là chủ hung.
81, Chuyển từ Long mạch tình huống đến biến thành đi có thể nhìn thấy hình trạng Loan khúc của nó, lấy đến tình âm dương, có thể nhìn thấy Huyệt tình cao thấp. Long mạch Mộ huyệt là làm sao uốn khúc đến Huyệt, phải cẩn thận tìm kiếm chỗ đi của nó chuyển biến thì biết, thông qua giải thích đến tình âm dương, thì Huyệt tình cao thấp cũng có thể định ra.
82, Mộ huyệt lộ ra hình trạng người đang ngũ ở trong nước, thì phải chú ý không để cho Khâm cư nơi ẩm thấp. Chổ nói ngồi trong nước, là chỉ ở trong Oa huyệt có bọt nhũ nước nhô lên. Như không có bọt nhũ nước nhô lên, thì gọi là ngũ trong nước. Loại này nên phân biệt, thích hợp dùng Oa pháp ở Kim tinh khai thủy. Như mộ huyệt sau khi mở ra không có bọt nhũ nước nhô lên, coi như là La Huyền tác huyệt, gọi là Tàng Đầu tác khí, không như vậy, thì có thể là ẩm thấp.
83, Huyệt cao phải là Vi Oa, giống như ở giữa bức tường có treo sẵn đèn tường, nhưng chớ làm cho tấm đẹm nghiêng đổ dầu ra. Phàm là huyệt cao tất phải có Vi Oa, lấy ở trong dương phải có Thiếu Âm, nếu không thì là Thuần Dương mà sẽ ẩm thấp. Nếu như là trong âm thì phải có Thiếu Dương, Thuần Âm thì sẽ nghiêng đổ dầu. Đạo lý của Địa lý học là thường luôn nhấn mạnh nhắc đến trong âm phải có dương, trong dương có âm mà thôi, sẽ không có nói khác.
84, Mạch hành mà giới thủy không chảy, là chân cơ của Mạch pháp. Chỗ nói nước chảy, là ẩn dụ Mạch đi, chỗ nói nước không chảy, là chỉ hai ranh giới nước không chảy qua trước mặt Hợp Khâm. Loại này Mạch đi không dừng, là thấy được chân cơ của Mạch đi.