Chào mừng đến với Tử Bình diệu dụng.
Trang 5 của 5 Đầu tiênĐầu tiên ... 345
Kết quả 41 đến 49 của 49
  1. #41
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    16, Luận Thân Long quý khí

    Luận quan phẩm cao thấp, lấy Long pháp mà suy cầu.
    Chú giải: Quan vị cao thấp, là do Long pháp quyết định.

    Thiên Ất Thái Ất xâm vân tiêu, vị cư thai gián;
    Cầm tinh Thú tinh cư Thủy khẩu, thân ở hàn lâm.

    Chú giải: Đỉnh núi Thiên Ất Thái Ất ở hai bên phía sau huyệt, hoặc đỉnh núi ở phương vị Tốn Tân, nếu cao tận mây, địa vị đại quan cư ở bên trong đài can gián. Sơn thạch giống như Rùa Cá đầu hộc thì xưng là cầm tinh, sơn thạch giống như sư tử hổ tê voi ngựa trâu thì xưng là Thú tinh, nếu cư ở Thủy khẩu, chủ xuất đại quan Hàn lâm.

    Số dãy núi cắm bên ngoài bầu trời, tích thế công khanh;
    Cửu khúc nhập Minh Đường, Tể tướng đương triều.
    Chú giải: Số dãy núi cắm bên ngoài bầu trời, mấy đời xuất công khanh; 9 dòng nước nhập vào Minh Đường, là đương triều xuất Tể tướng.

    Tả cờ Hữu trống, Vũ tướng binh quyền;
    Trước che sau bằng, Văn thần tể phụ.

    Chú giải: Cờ trống đóng quân, chủ xuất vũ tướng binh quyền; trước có màn trướng che, sau có xe cộ hộ tống, tất là xuất Tể phụ Văn thần.

    Tê Ngưu vọng Nguyệt, Thanh sam xuất tự Thiên cù;
    Đan Phượng hàm thư, Tía chiếu ban ở Đế Khuyết.

    Chú giải: Tê Ngưu vọng nguyệt, thì Nguyệt là Kim tinh, Thanh tú thấp kém, đa số xuất thần đồng khoa đệ. Thiên cù, giải thích chỗ này là ở trên trời che chở có phúc ấm. Đan phượng hàm thư, trước huyệt có một chữ văn tinh, chủ con cháu quý hiển nhận vua báo phần thưởng cao quý.

    Văn bút liền với Cáo trục, nhất cử đăng khoa;
    Tịch mạo gần với Ngự bình, đông cung hầu hạ.

    Chú giải: Văn bút, là đỉnh núi cao nhọn; Cáo trục, là núi bằng ngang mà đầu hơi cao, ngã xuống đất hình Mộc tinh; Tịch mạo, là đầu cao tròn mà vai rũ xuống như cái nón; Ngự bình, là đỉnh Thổ tinh vuông bằng ngay ngắn lại cao to giống như tấm bình phong. Văn bút liền với Cáo trục, người đọc sách một lần liền đăng khoa cập đệ; Tịch mạo gần với Ngự bình, xuất ra quan đi học phụ đạo cho Đông cung Thái Tử đọc sách.

    Nha Đao Giao Kiếm, danh cầm binh suất;
    Cổ Giác Mai Hoa, thân lĩnh chức Tri châu.

    Chú giải: Một Sa ôm nhọn gọi là Nha Đao, hai Sa ôm nhọn gọi là Giao Kiếm, hai bên thân Long buông xuống Sa nhọn gọi là Bội Kiếm. Có huyệt này xuất ra Đại tướng quân Nguyên soái. Khổn, ý là Tướng soái thống binh ở bên ngoài. Số núi ngay thẳng ở giữa cao viên gọi là Cổ, ở giữa cao tiêm gọi là Giác, 5 đỉnh viên củng mà thẳng đứng gọi là Mai Hoa. Có huyệt này xuất ra quan Tri châu Thứ sử.

    Ngân bình Trản chú, phú sánh Thạch Sùng;
    Ngọc đái Kim ngư, quý như Bùi Độ.

    Chú giải: Núi nhỏ rầu rỉ như như dạng lọ bạc ngọn đèn là chủ đại phú. Thạch Sùng là người giàu có thời Tây Tấn Huệ đế. Thủy tinh ôm cong gọi là Ngọc Đái, Kim tinh tiểu xảo gọi là Kim Ngư. Thân Long mang đến cùng thấy phía trước Sa, chủ xuất đại quý như Bùi Độ. Bùi Độ là Tể tướng thời Đường Hiến Tông, có phong độ thanh tiết, Văn đế phong Tấn Quốc công, cực quý.

    Tam thiên Phấn Đại, gia đình may mắn phú quý;
    Bát bách Yên Hoa, khai vạn cưỡi quý.

    Chú giải: Phấn Đại, Yên Hoa vốn là chỉ cung nữ xinh đẹp, ở đây nói ẩn dụ là đỉnh núi xinh đẹp. Tam thiên bát bách, là ý chỉ rất nhiều. Bầy đỉnh núi mạnh mẽ nghênh tú ở phía trước, tầng tầng núi non trùng điệp theo ở phía sau, chủ xuất ra Công hầu.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  2. Cảm ơn bởi:


  3. #42
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Nga Mị sơn hiện, nữ làm cung phi;
    Kim cáo hoa khai, nam hôn công chủ.

    Chú giải: Nga mị, giống như tháng mới sinh, chủ nữ nhân thanh tú quý có Cung phi. Kim cáo, là thổ tinh giống như cái bàn ngang hai đầu rất cao, chủ nam quý có kèm theo ngựa đi.

    Ngư đại nếu cư Đoài vị, khanh tướng khả kỳ;
    Thiên Mã nếu ở nam phương, công hầu tất chí.

    Chú giải: Ngư đại, vi kim tinh, nếu ở chỗ tây phương, chủ quý có phong hiến khanh tướng. Mã sơn cao thẳng ở phương nam có Mã tinh cư ở đây vĩnh hằng, nên xuất quý công hầu.

    Đốn Bút đa sinh Văn sĩ, Trác Kỳ định xuất Tướng quân.
    Chú giải: Đốn bút là Mộc tinh, núi cao thẳng chủ xuất ra văn nhân hào kiệt. Trác kỳ là Hỏa tinh, đầu cao đặt chân chủ xuất ra Vũ chức.

    Nội Thai ngoại Khổn, văn võ khác nhau.
    Chú giải: Nội Thai là Văn thần, Ngoại Khổn là Võ tướng. Khổn, là chỉ cánh cửa thành quách.

    Một Quận một Châu, phân dã khả đoán.
    Chú giải: Luận quan chức đảm nhận ở nơi nào, xem quý phong xuất ở phương nào, lấy ranh giới cửu châu mà đoán.
    Ranh giới đất phân chia Thập nhị quan: Tề Việt Yến Tống Trịnh Sở Chu Tần Ngụy Triệu Lỗ Vệ. Sách nhà Hán nói nhị thập bát tú lấy tất cả ranh giới chư hầu để cai trị địa phương. Thí dụ như Tú phong xuất ở phương Tị Dậu Sửu, chủ người sinh Tị Dậu Sửu có quý cai trị đất Triệu Việt. Thiên hạ ủng ỏng theo ví dụ này mà suy.

    Ngự tọa Ngự Bình, nhập Nội Thai nhi chưởng hàn;
    Đốn cấp Thương Cổ, quyền trấn giữ Ngoại Khổn.

    Chú giải: Thân Long có Ngự Tọa Ngự Bình, chủ xuất ra quan nội Hàn Lâm. Thân Long có Qua Thương Kỳ Cổ tủng bạt nhi lai, chủ nắm binh quyền trấn thủ ở bên ngoài.

    Mang Thương mang Khố, Đào Y chi phú khả kỳ;
    Sinh Diệu sinh Cung, Vương Tạ chi danh khả vọng.

    Chú giải: Cao mà tròn lớn gọi là Thương, vuông to lớn gọi là Khố. Thân mang Thương Khố cùng chỗ dừng lại có Thương Khố là chủ phú. Đào Y, là chỉ Phạm Lễ Đào Chu công cùng Y Đốn người Tề, trước đây nguyên là Đại phu nước Việt, sau không làm quan mà đi mua bán kinh thương cực kỳ giàu có. Về sau tìm thuật Đào công làm giàu, Đào nói: Nuôi ngũ súc. Theo lời nói, không tới 10 năm quả nhiên rất giàu có. Bên ngoài Long Hổ có dư khí tung bay gọi là Diệu khí, núi khác ở sau Án giống như thế vén tay áo múa bái Long gọi là Quan tinh. Vương Tạ, là chỉ đạo tạ ơn vua, trước đây phò Tấn Nguyên Đế trung hưng, hiệu là Trọng Phụ; về sau cao ngoại Đông Sơn không ra ngoài, Tấn Mục Đế nghe tin đồn là người hiền tài, xuất chinh đến bái tướng.

    Văn tinh thấp mà Nhan Hồi chết yểu,
    Thiên Trụ cao mà Bành Tổ thọ.

    Chú giải: Nhan Hồi úc 32 tuổi chết bởi viì Văn tinh hãm thấp. Bành tổ họ Tiền tên Khanh thọ 800 năm bởi vì chủ sơn cao như Thiên trụ (trụ trời).

    Ấn phù Thủy diện, sáng suốt có văn chương;
    Thủy tụ Thiên tâm, ai chẳng biết là phú quý.

    Chú giải: Núi nhỏ hoặc là tảng đá lớn hoặc là tròn trịa sạch sẽ thấy nước ở bên trong gọi là Ấn, ở đây có xuất hiện Thủy khẩu, chủ xuất Công Hầu xuất Khôi Nguyên. Chúng thủy tụ ở Minh Đường không chảy đi là đại phú quý thanh danh cao bay.

    Khéo dựa nhãn lực, diệu ở tâm tư.
    Chú giải: Dựa vào thị lực là có phân biệt giữa Xảo (khéo léo) và Chuyết (vụng về), lấy được ở tâm tư Huyền và Diệu.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  4. Cảm ơn bởi:


  5. #43
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    17, Luận Hình Huyệt

    Vật lấy Loại suy, Huyệt lấy từ Hình.
    Chú giải: Vật đồng loại có tính chất giống nhau, cho nên dưới đây có thể suy lý. Huyệt có nhiều chủng nhiều dạng, nhưng cùng Hình là có đồng tính, có thể theo ở trên Hình để nắm chắc quy luật thông thường.

    Hổ cùng Sư mạo tương tự, Nhạn cùng Phượng Hoàng khác nhau.
    Chú giải: Hổ và Sư có dung mạo giống nhau, (Đầu tròn là Hổ đầu vuông là Sư tử). Nhạn cùng Phượng Hoàng khác nhau, (Nhạn đầu đuôi ngắn còn Phượng đầu đuôi dài).

    Một hoặc ít khác nhau, chỉ Lộc là Mã;
    Hồn nhiên vô biệt, nhận thức con giun là con rắn.

    Chú giải: Lộc hình thân gầy mà đầu bằng, Mã hình thân phì mà đầu cao. Giun hình nhỏ cong mà thân ngắn, rắn hình uốn khúc mà thân dài.

    Hoặc thủ cong vẹo là Thoa cài, xung quanh bất tuyệt;
    Hoặc thủ ngang thẳng là Kiếm, hai bờ không bao.

    Chú giải: Hình thoa cài tóc là giả kim, dựa vào bao bọc mới chân, nên điểm lưng, không thì khí lạnh khó cắm vào. Kiếm là hình dạng Mộc tinh ngã xuống đất thế cong khúc, không có Long Hổ bao nhau.

    Văn bút Họa bút, cả hai làm sao phân;
    Nha Đao Sát Đao, hai bàn không khác.
    Nếu tọa sơn tú lệ, Sát đao hóa thành Nha đao;
    Hoặc bản chủ ti tiện, Văn bút biến thành Họa bút.

    Chú giải: Đỉnh núi nhọn tú lệ đoan chính gọi là Văn bút, đỉnh núi nhọn nghiêng tà mở ra thì gọi là Họa bút. Sắc nhọn ôm cong gọi là Nha đao, sắc nhọn thẳng cứng gọi là Sát đao. Lai Long đặc đạt cùng chủ sơn tú viên mà theo kề, Sát đao cũng hóa thành Nha đao. Lai Long y nhược chủ sơn ti tiện, tuy có Văn bút cũng biến thành Họa bút.

    Thương nhọn vốn là dụng cụ hung, gặp võ sĩ lấy là thanh kỳ;
    Phù thi cố không cát, phùng quần nha mà lại cát.

    Chú giải: Trước Sa như có hình mũi thương nhọn là khí hung sát, gặp võ sĩ lại thành hữu dụng là cát. Núi Đảo thi (xác chết ngã), xuất người chết đường, điềm không tốt. Từ thị cho rằng, không cát thì phải tránh.

    Cổ Địch không phải Thần Tiên không lấy,
    Không có Đạo khí thì xuất linh quan;
    Ấn Kiếm không phải Thiên sư không cầm,
    Có lư hương thì là thầy mo.

    Chú giải: Đạo khí là loại trống sáo như cờ phướn, báu vật, lò luyện đan, Hạc tiên, cầu Tiên, , chủ xuất thần tiên, không có đạo khí chủ sơn không thanh tú, chủ xuất ra quan âm nhạc. Ấn Kiếm sơn xuất ra Thiên sư, Hương Hộ sơn xuất ra thầy mo. Cổ sơn tròn mà bằng, Địch sơn ngang mà nhỏ. Ấn sơn tròn mà vuông, Kiếm sơn nhỏ mà thẳng, Hương Lô sơn tròn mà nhô lên.

    Hồ lô sơn hiện, thuật sĩ y lưu;
    Mộc tiêu hình liên, ôn tật cô quả.

    Chú giải: Hồ Lô sơn chủ xuất y dược; Mộc Tiêu sơn đầu tròn đuôi nhọn, chủ xuất ra ôn tật cô nam quả phụ. Thẳng đến thấy đầu không thấy cán là chủ phú.

    Hoặc là Hồ tăng lễ phật, nhận sai Bái tướng Phô chiên;
    Hoặc là Thi sơn lạc đầu, ngộ vi tạ ân lĩnh Chức.

    Chú giải: Bái tướng sơn cùng Hồ tăng lễ phật có chỗ giống nhau, nhưng trước là có ải nỉ quý khí, sau là không có rải nỉ quý khí. Mạnh ngu nghiêng tà là Thi sơn, tròn sạch tú lệ là tạ ân lĩnh Chức sơn. Thi sơn cứng thẳng vuông góc, tạ ân lĩnh Chức sơn dán mềm thuần phục. Cả hai đều không thể gặp nhau.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  6. Cảm ơn bởi:


  7. #44
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Hình như tù ngục, cùng Tường Vân phủng Nhật nào khác biệt;
    Thế phướn hoa thẳng, Cùng Gió thổi mạng lưới có gì khác nhau;

    Chú giải: Tù ngục tức là núi xung quanh cao áp như ngồi trên giếng, phủng nguyệt làm bạn bốn bên cao thấp vừa đúng tương xứng. Núi bay nghiêng phân ra thành hai luồng danh là Phướn hoa, hình núi mềm dài thư thái giãn ra phân thành hai luồng danh là Gió thổi như mạng lưới.

    Xuất trận thấy cờ cướp sơn là Kiếp đạo,
    Phán Tử bút gặp Sát thủy là Sát thương.

    Chú giải: Đỉnh núi cao nhọn tách ra mấy chỗ cao thấp không đồng đều, dưới thân có móng vuốt cuốn lên, gọi là Xuất cờ trận. Đầu cờ sinh đá là chỉ trên trận thắng lợi, tâm cờ sinh đá là thua binh. Như móng vuốt không rõ hình trạng phá toái là Quỷ Kiếp sơn. Kiếp là nghiêng tà phá toái, giống như nham thạch xấu xí dựng thẳng. Cờ xuất trận thấy Kiếp sơn này là xuất ra Kiếp đạo (trộm cướp). Bút lớn xà ngang danh là Phán Tử Bút, thủy chảy xiết danh là Sát thủy. Cả hai gặp nhau là Sát thương.

    Một phôi đất cư phía trước chính huyệt, chưa thể đoán là họa mắt;
    Một hòn núi nhỏ kề dưới núi lớn, chưa thể chỉ là sẩy thai.
    Hoặc làm Bàn Long hí Châu, hoặc làm Linh Miêu bắt chuột.
    Quý thông Hoạt pháp, chớ chấp trần ngôn.
    Quyển Liêm thủy hiện, vào nhà vợ bé;
    Đỉnh núi Nhị bút, xúi giục kiện tụng.

    Chú giải: Nước ở trước Huyệt từng bước thấp từng bước trút xuống mà đi gọi là Quyển Liêm thủy, chủ người tán nhà tan, đa số sinh con gái, quả phụ rước người vào làm vợ bé. Đỉnh núi Nhị Bút cũng giống như vậy, một ngọn núi cao thẳng nổi lên một ngọn núi thấp nhỏ nghiêng vẹo, chủ xuất người thích kiện tụng.

    Con cháu ngỗ nghịch, trước mặt nước chảy hình chữ Bát (八);
    Nam nữ dâm bôn, ngoài Án hiện ôm đầu núi.
    Ngọc Ấn hình như phá toái, không mù mắt thì chủ tổn thai;
    Kim Tương đầu nếu cao thấp, không phải Yên bao thì là Hôi đại.

    Chú giải: Hình dạng Ngọc Ấn giống như bị nghiền nát, chủ mắc họa mắt mù tổn thai. Núi nhỉ xinh xắn mà chính phương gọi là Kim Tương sơn, nếu có một núi nhỏ một đầu cao một đầu thấp, thì gọi là Yên bao (túi khói) hoặc là Hôi đại (túi tro), chủ khách chết nơi tha hương.

    Tham Đầu Trắc Diện, đại diện đạo tặc (xuyên du);
    Thức Lệ Chùy Hung, nhà bị tang họa.

    Chú giải: Ngoài núi có núi, đỉnh nghiêng hơi lộ ra gọi là Tham Đầu sơn. Núi lộ sườn ra thì gọi là Trắc Diện sơn. Hai ngọn núi này xuất ra có người làm đạo tặc. Thẳng mà áp bức huyệt gọi là Thức Lệ sơn, khởi đối diện hướng gọi là Chùy Hung sơn, chủ xuất người yểu vong. Du, theo bên tường bò đi qua.

    Thi Sơn cư Thủy khẩu, lộ tử giang thi;
    Thũng Cước xuất phần tiền, ôn dịch phù thũng.

    Chú giải: Thủy khẩu có núi giống như thây người, chủ xuất ra người chết trên đường. Núi giống như trái bí đao mập mạp danh là Thũng Cước sơn, chủ xuất ra người có bệnh dịch vàng da phù thũng.

    Xuất lâm Hổ không thể ăn, thì hại người;
    Phục thảo Xà không thể chế, thì tổn hại mình.
    Ngô Công kiềm lý, Chó ngũ trong lòng.
    Phàm ác hình này, có pháp cắm vào.

    Chú giải: Đỉnh núi kết huyệt lộ cao, giống như Hổ xuất lâm, tất đợi gần Án để bao bọc, không lộ ra tổn thương, nếu không thì hại người. Thế Xà sợ sắc nhọn mang sát, tất phải né tránh xuất sát, chỗ này chính là có chế, không có chế thì bị hại. Hình Ngô Công (con rết) điểm huyệt ở trong Oa Kiềm, hình con Chó điểm huyệt ngũ ở trên vú ở giữa ngực. Huyệt Hổ chuyển ở trán, có thể áp sát. Xà chuyển bên tai, có thể tránh sát. Ngô Công, thiên về trong Kiềm, có thể thoát sát. Khuyển thiên về trong ngực, có thể tàng sát. Phàm gặp ác hình này, không thể đấu sát, tránh đi là hay nhất, phép tắc này là có phép cắm vào.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  8. Cảm ơn bởi:


  9. #45
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Tê Mã tất văn phong ở nơi khác,
    Kinh Xà vẫn sợ vật ở trong sườn núi.

    Chú giải: Mạch đến thẳng xiết, tựa như thế núi mà đổ dốc xuống kết huyệt nơi bằng phẳng, giống như Tê Mã văn phong (tiếng hí ngựa ở nơi khác có thể nghe thấy). Thế Tê Mã văn phong ẩn dụ như mạch xiết chảy đi nơi khác. Bên núi cao bên sườn núi, không cân đối nhau là Kinh Xà hình. Kinh Xà là rắn sợ vật tập kích, chạy băng băng cuồn cuộn, chỗ này ẩn dụ như mạch chảy cấp không dừng, không kết huyệt ở trong sườn núi.

    Thủ Chu (thuyền bè) hỉ ở trước bãi, quý Du Ngư vu thủy thượng;
    Lá Sen không nên chở nặng, dây dưa chỉ nên cắm nhỏ.

    Chú giải: Chu hình hỉ gần thủy, Du Ngư quý nghịch thủy, lực khinh khí bạc không nên trọng táng, mạch mịn khí nhỏ không nên gia tăng búa rìu.

    Bạc ngạn phù bài khởi úy phong,
    Bình sa lạc Nhạn thiên nghi thủy.

    Chú giải: Bạc Ngạn phù Bài, là Long ở đồng bằng không sợ gió thổi. Bình sa lạc Nhạn, là ở đáy thủy hoặc trên thủy hiện lên gò cao, nếu có thạch cốt thông mạch, huyệt này không sợ bốn bên có thủy.

    Ngư Quán mà tiến, Hinh Hương ở chỗ Quyển a;
    Nhạn Trận mà thấp, Tiêu tức cầu ở quay về vậy.

    Chú giải: Ngư Quán, tức là xâu chuỗi nhau liên tiếp không ngừng, Quyển a tức là cuộn khúc, Hinh hương tức là mùi thơn bánh ngọt. Chỗ này nói nhiều mạch cùng đến thẳng không có kết nên chọn uốn khúc. Nhạn trận, tức là bầy Nhạn liên tiếp mà bay, Tiêu tức là chỉ chỗ kết huyệt.

    Nhân hình táng ở tề phúc, lại cần tàng Oa;
    Cầm hình diệu ở Dực a, không câu nệ hai bên.

    Chú giải: Nhân hình đa số là Hỏa Mộc tinh, cao lộ sợ gió thổi, nên tìm Oa huyệt. Cầm hình đầu đuôi đều có thể cắm vào, duy chỉ cần bao tàng, mà Dực đa số ẩn tàng, không thể câu nệ hai bên.

    Không thể một đường mà thủ, sao nói là như nhau?
    Chú giải: Hình thế núi sông thiên biến vạn hóa, không thể câu nệ ở một đường hình tượng mà định thủ dụng, lại càng không cho phép có một ví dụ cát hung thì rập khuôn máy móc.

    Cái, Niêm, Ỷ, Chàng, tế nhận Huyệt tình;
    Thôn, Thổ, Phù, Trầm, việc dựa theo Táng pháp.

    Chú giải: Cái, ý là nói nắp đậy lại. Khí tụ ở đỉnh núi thành thiên huyệt, dụng Cái pháp để tiếp nhận sinh khí. Lúc an táng phải giữ lại đỉnh, sau ót phải có chỗ dựa, không thể quá sâu hoặc là quá cạn, đặc biệt chú ý gió thổi khí tán.
    Niêm, ý là dán lại. Khí tụ ở chân núi thành địa huyệt, dụng Niêm pháp tiếp nhận sinh khí.
    , ý là dựa vào. Mạch thiên không chính, khí tụ bên cạnh, dụng Ỷ pháp tiếp nhận sinh khí.
    Chàng, ý là va chạm. Mạch đến êm mịn, ở giữa kết tụ ở trung tâm không thiên lệch không dựa vào, sử dụng Chàng pháp tiếp nhận sinh khí.
    Thổ, ý là phun đất ra. Mạch thẳng giống thân kiếm, cần đặt quan ở dưới hai phần mái hiên (bộ phận nhô ra ngoài của một số vật dụng có hình mái hiên), dụng Thổ pháp tiếp nhận sinh khí.
    Thôn, ý là nuốt vào. Mạch đến giống như ngửa lòng bàn tay, cần đặt quan ở dưới gần vào mái hiên, dụng Thôn pháp tiếp nhận sinh khí.
    Phù, ý là lộ ra mà không ẩn giấu. Mạch đến lộ ra mà không ẩn giấu, thì đặt quan ở trên mạch, không nên đào tiếp, sau đó thêm đất bùn che quan tài, dụng Phù pháp tiếp nhận sinh khí.
    Trầm, ý là ẩn giấu mà không lộ ra. Mạch đến mịn chìm ẩn giấu mà không lộ ra, tất cần phải đào xuống dưới mới tiếp tục lấp đất, dụng Trầm pháp để tiếp nhận sinh khí.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  10. Cảm ơn bởi:


  11. #46
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Thần, Tề, Mục, Vĩ, Ngạch, Phúc, tam cát tam hung;
    Giác, Nhĩ, Tị, Hiếp, Yêu, Túc, tứ hung nhị cát.

    Chú giải: Thần, Mục, Vĩ lộ ra mà dẹp, là Tam Hung. Tề, Ngạch, Phúc tàng sâu mà ở giữa là Tam Cát. Nhĩ Tị là Nhị Cát, Giác Hiếp Yêu Túc là Tứ Hung.

    Hình tự loạn y, thê tất dâm, nữ tất đố;
    Thế như lưu thủy, gia tất bại, nhân tất vong.

    Chú giải: Núi giống như quần áo hỗn loạn, là đố nữ dâm thê. Thế núi bay đi giống như nước chảy thẳng, là gia bại nhân vong.

    Hoặc gặp núi như thân leo lên, định sinh khất cái;
    Nếu thấy thế Kình quyền, định xuất hung đồ.

    Chú giải: Hai bên Triều sơn giống như dạng thân dây leo, nhất định xuất ra người làm khất cái. Đỉnh núi Long Hổ cao khởi như hình Kình quyền (nắm tay giơ cao) mà có thế cưỡng bách huyệt, chủ xuất ra loại hung ngoan.

    Thủy phá Thái Âm, làm kẻ mây mưa với thầy mo;
    Sơn y Văn Khúc, là kẻ loạn lưu Lạc Phổ.

    Chú giải: Nếu nước chảy phá Nga Mi Kim tinh (Thái Âm), chủ xuất ra tình nữ nhân ân ái thầy mo. Văn Khúc tinh nghiêng tà đong đưa là Thủy tinh, chủ xuất ra phụ nữ tham dâm, nam tử phong lưu du đãng. Lạc phổ: Là chỉ Trần Tư Vương Lạc Phổ, gặp nữ thần thành tính du đãng.

    Đầu mở ra hai ngón giống như móng Dê, xuất người ngỗ nghịch;
    Não sinh số gấp giống như Dê hợp lại, phạm pháp đồ hình.

    Chú giải: Đầu mở ra hai ngón, tức là mặt núi thấu đỉnh có hình giống như hai gò cao ở giữa lõm xuống, hình này dễ sinh thung lũng, cgo nên xuất người bất hiếu bất kính. Đầu núi sinh ra nhiều đường gấp khúc, giống như dạng sườn trâu, thì sẽ xuất hiện nhiều người phạm pháp mà phán hình.

    Văn Bút nếu tọa Huyền Châm, cấp thiết nên cẩn thận;
    Hiếu Mạo nếu lâm Thái Mộ, vật nói không hung.

    Chú giải: Văn bút, chính là Hỏa tinh xung thiên, cư ở chính nam, chủ có hỏa tai, nên đề phòng. Hiếu mạo sơn, mang hai núi nghiêng duỗi, giống như ở trước mặt cùng cung Tứ Mộ, chủ có chuyện hiếu phục.

    Quân tử trong Tiểu nhân, Hạc giữa bầy gà;
    Tiểu nhân trong Quân tử, bồng sinh trong cây đay.

    Chú giải: Tứ sơn tán mạn, trong đó có một núi đoan chính xuất chúng, là Quân tử trong Tiểu nhân, là Hạc ở trong bầy Gà. Tứ sơn đoan chính, trong đó có một ngọn núi thô xấu, là Tiểu nhân trong Quân tử, là cỏ bồng sinh trong bụi cây đay.

    Mân trung Ngọc biểu, đa số thiếp sinh con trai;
    Hồ giả Hổ uy, tất chủ làm con nuôi.

    Chú giải: Mân là mỏ đá, Ngọc là báu vật cực quý. Mân trung ngọc biểu, là chỉ chủ tinh tựa gần huyệt vị sánh như sơn tinh Lai Long tú lệ, đây là tướng tinh của Mẫu tiện Tử quý, đa số thiếp sinh ra con trai thành tài. Hồ ly giống như Mèo, Hổ uy mà không dũng mãnh, lời này nói Lai Long có thế, nhưng cuối cùng chủ tinh yếu nhược, hoàn toàn dựa vào hậu sơn che chở hộ vệ, chủ muốn thành cục, tất là chủ làm con nuôi.

    Là người vô tự, chỉ vì thủy phá thiên tâm;
    Có con xuất gia, định là thủy xung thành cước.

    Chú giải: Thiên Tâm, tức là Huyệt, thủy phá thiên tâm, tức là giới thủy đến xung đầu huyệt. Thành cước, tức là bên ngoài núi Long Hổ thành Lộc, thủy đến xung bắn sụp lở, chủ xuất người làm tăng đạo.

    Cũng có hư củng, vô tình tựa như hữu tình;
    Đa kiến tiền triều, như ấp lại không chân ấp.
    Đỉnh tuy tiêm viên mà khả ái,
    Cước tất chạy đi mà quan tâm người khác.
    Dẫu có cát huyệt nhưng thiên dời,
    Chẳng qua chỉ là hư hoa mà thôi.

    Chú giải: Ẩn sinh ở bên ngoài Án gọi là Ám Củng, xem như vô tình tựa như hữu tình. Trước phương Triều Án, cũng có phân ra Chân triều cùng Giả triều. Tức là cho dù có hình thế huyệt, nhưng mà chỉ có hình huyệt mà không có sinh khí, là huyệt hư hoa giả ngụy.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  12. Cảm ơn bởi:


  13. #47
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    18, Luận Sơn Thủy

    Thổ sụp hãm mà thần hồn không ổn,
    Mộc điêu lạc mà vượng khí tương suy.
    Nguyên tuyền hỗn hỗn xuất Minh Đường, khí theo phiêu tán;
    Bạch thạch lân lân trương hổ khẩu, tất chủ hình thương.
    Phải phòng đông khuất tây thân, rất sợ tả khiên hữu duệ.

    Chú giải: Nếu địa thế sụp thủng, cây cối héo tàn, nước chảy hỗn trọc, Bạch Hổ há miệng, Bạch Hổ sĩ đầu, Bạch Hổ thân thủ, Sa Thủy không liên quan, đều không nên điểm huyệt.

    Nguy lâu tự quan, kỵ nghe âm thanh tiếng chuông;
    Cổ mộc Đàn tràng, kinh kiến âm thanh lôi đình.

    Chú giải: Bên cạnh Huyệt kỵ thấy Nguy lâu Tự quan, bên dưới cổ thụ, gần bên đàn tràng (nơi tế đàn), đều không nên làm huyệt xây nhà, kỵ sợ nghe đến âm thanh tiếng chuông, hoặc là lúc tế tự gặp sấm chớp. Nguy lâu Cổ đại, là chỉ lầu cao, tức là kề gần nhà lầu cao chọc trời. Đàn tràng, là chỉ chỗ thời xưa làm nơi lễ lớn để thiết đàn cử hành tế tự, kế vị, minh hội, bái tướng.

    Quái thạch nếu cư trước Án, tất có hung tai;
    Cát tinh đã tọa hậu long, sao không phúc dầy?

    Chú giải: Án sơn phía trước Huyệt có dựng lên quái thạch, đời sau tất có tai họa. Huyệt vị tốt dẫu có hậu Long thô kệch, vẫn phát phúc lâu dài.

    Hốt kiến sơn liệt, hoành sự tất sinh;
    Thường văn thủy khấp, tang họa tần kiến.

    Chú giải: Chung quanh Huyệt vị có thể núi sụp đổ, đời sau xuất hoành họa. Núi cao nước chảy xiết mạnh hết sức, âm thanh nước chảy thông thường là lạnh lẽo bi ai. Xung quanh Huyệt vị có thể nghe thấy âm thanh nước chảy mạnh mẽ, chủ hung họa liên tục.

    Hoặc có âm thanh như Ngọc bội, tiến lộc tiến tài;
    Chú giải: Âm thanh nước chảy xung quanh Huyệt vị, như âm thanh ngọc bội chạm nhau, chủ vượng tài. Ngọc bội là chỉ chỗ ngọc bội thời xưa.

    Nếu như giọt nước rót vào trong hủ, thủ Châu thủ Quận.
    Chú giải: Âm thanh nước chảy xung quanh Huyệt vị, giống như âm thanh trong trẻo khi giọt nước rót vào hủ đồng, là chủ quan phú quý.

    Đông Đông động động, hưởng nhi lượng là quý;
    Thê thê thiết thiết, bi nhi khấp là tai.

    Chú giải: Đông đông động động là nói tiếng trống, thủy thanh như tiếng trống vỗ trong trẻo vang dội là chủ quý. Tiếng nước kêu vang như kích động thê thảm bi ai, chủ tai họa triền miên.

    Nhưng có âm thanh không bằng không có, Minh củng không bằng Ám củng.
    Chú giải: Nhưng mà nước chảy tốt nhất là không có âm thanh, là yếu pháp tầm sơn vậy, đa số giảng thuật hình thế là sa thủy hiện ra mà dễ thấy, nhưng bên trong không thấy quan hệ rất nặng, phúc trạch xa gần, phát vượt lớn nhỏ, tất là vĩnh hằng. Cho nên nói Minh củng không bằng Ám củng, lại nói không quý chỗ thấy, mà quý chỗ không thấy vậy.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  14. Cảm ơn bởi:


  15. #48
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Một đến một đi, có phúc có họa; Một nhanh một chậm, có lợi có hại.
    Chú giải: Nước chảy đến và đi, có quan hệ phúc họa, Long mạch nhanh chậm, có đủ cát hung.

    Chú ý xung quanh, chậm rãi mà leo.
    Nhị thập tứ sơn, sơn danh thái tạp;
    Tam thập lục huyệt, huyệt pháp ở đâu?

    Chú giải: Chú ý quan sát hình thế xung quanh huyệt vị, từ từ kiểm tra xem xung quanh, chỉ cần hình thế hợp cát hung, không nên câu nệ chỗ tên gọi 24 sơn và 36 huyệt phức tạp.

    Tổ tông Thủy pháp làm người lầm,
    Sơn vận ngũ hành có đúng chuẩn.

    Chú giải: Tổ tông Thủy pháp tức là Thủy pháp Hồng Phạm ngũ hành. Nội dung Thủy pháp chủ yếu là vận dụng Phép toán mệnh thập nhị cung Trường Sinh luận phong thủy, đây là chỗ người lầm lẫn. Lấy phép chính ngũ hành khởi khí vận Mộ địa có chuẩn xác.

    Nghịch thủy Lai triều, Nội đường không được tiết khí;
    Phiên thân tác huyệt, thiết cần từ bên ngoài quay đầu lại.

    Chú giải: Nghịch thủy Lai triều vốn là cát, nhưng Nội Đường tiết khí là hung. Phiên thân tác huyệt, bản thân đa số không có Long Hổ, cho nên cần từ bên ngoài sinh ra một ngọn núi quay đầu lại để bảo hộ che chở.

    Chỗ quý quan tàng, rất sợ trống khuyết.
    Cách thủy là Hộ, ngại gì bày ra như tấm bình phong;
    Thân liền sinh Án, cần phải quay đầu như khuỷu cánh tay.
    Chớ có bạn không bằng mình, nên tìm Triều sơn đặc dị;
    Đồng khí sau đó mà cầu, hà tất thập phần Hậu lũng.

    Chú giải: Núi đối diện không bì kịp Chủ sơn, nên tìm Triều sơn đặc dị; Cùng Tổ sơn đến gọi là Đồng khí, chỉ cầu có tình, bất tất phải cầu hậu sơn.

    Núi nhọn tú xuất, chỉ cần một ngọn hai ngọn;
    Thủy cong đến triều, bất luận sông lớn sông nhỏ.

    Chú giải: Đỉnh núi tú mỹ, chỉ cần có một hai là được, chỉ cần thủy uốn cong đến triều, bất luận lớn hay nhỏ đều là hữu dụng.

    Chúng thủy thuận lưu mà tán mạn, không cần phí công;
    Tứ sơn thẳng đứng mà thô tạp, sao nhọc suy nghĩ.

    Chú giải: Chúng thủy thuận lưu mà tán mạn, tứ sơn thẳng đứng mà thô tạp, đều không có phong thủy tốt.

    Sơn không triều thế dời đổi chiều,
    Thủy có lúc dời đồi đổi huyệt.

    Chú giải: Hình thể thế núi vĩnh viễn sẽ không biến đổi, mà nước chảy thì có thể sẽ có chỗ biến thiên di dời. Lăng thiên Cốc biến, là thành ngữ Hán ngữ, giải thích là ẩn dụ giống như thế sự biến thiên, cao thấp dịch vị.

    Thủy bất loạn Loan, Loan thì Khí toàn;
    Sơn bất loạn Tụ, Tụ thì Hình chỉ.

    Chú giải: Thủy không sợ vòng cong, vòng cong thì tụ khí. Sơn không sợ hội tụ, sơn mạch hội tụ thì Long mạch dừng đi.

    Thiển bạc thì xuất nhân thiển bạc,
    Khoan bình thì xuất nhân khoan bình.

    Chú giải: Địa thế thiển bạc (nông cạn) thì xuất nhân thiển bạc, khoan bình (rộng bằng) thì xuất nhân khoan bình.

    Chích chích Sơn tiêm xạ, chỗ khởi tử phải tai;
    Nguyên nguyên Thủy tà lưu, còn lại không đủ xem vậy.

    Chú giải: Sơn tiêm xạ, Thủy tà lưu đều không thể chọn chỉ điểm huyệt.

    Hậu sơn không nên dựng thẳng, thủy đi rất sợ chảy thẳng.
    Càng lo đến đoản đi dài, thiết kỵ tả hữu xiết nhanh.

    Chú giải: Núi phía sau Huyệt vị không thể vượt qua thẳng đứng cao vút, Thủy khẩu đi không nên chảy thẳng mà không có tường thành ngăn chặn. Nước đến Thủy khẩu nhỏ mà ngắn, nước đi mạnh mà rộng, hai bên chảy xiết đều là không cát.

    Lưu thần xiết chảy tuy uốn khúc mà chợt phát chợt suy;
    Thành tường Thủy khẩu không trùng điệp mà dễ thành dễ bại.

    Chú giải: Nước chảy xiết gấp rút, cho dù phát phúc cũng là chợt bỗng suy bại. Sa Thủy khẩu đóng cửa không nghiêm mật, cho dù thành công, nhưng thất bại cũng nhanh.

    Hoặc có thế như dâng sóng, không cần đỉnh núi dựng thẳng;
    Mạch nếu liền nhau, hà tất cần gò đất ngẩng cao.

    Chú giải: Nếu như Lai Long như vạn mã bôn chạy, như sóng cuộn ba đào, liên miên không ngừng, không nhất định cần có đình núi ngẩng cao kỳ dị.

    Liền nhau quý tiếp tục mà không đứt,
    Dâng cao cần trùng trọng điệp mới là kỳ.

    Chú giải: Lai Long liên miên không đứt, tốt nhất là sơn mạch liền nhau mà không nên đứt đoạn. Lai Long tựa như sóng cuộn ba đào, tốt nhất là sơn mạch trùng điệp nhau mới tốt.

    Mạch có đồng Can dị Chi, Chi non kéo dây leo;
    Thế có hồi Long cố Tổ, Tổ không che cao.
    Sát kỳ lão nộn tinh thô, thẩm kỳ sinh vượng hưu phế.

    Chú giải: Long mạch tốt nhất là một Can Long phân ra nhiều chi mạch, chi mạch trong trẻo kéo dài bất tuyệt. Hình thế Chi Long sau khi ly khai Tổ Long quay đầu trở về nhìn Tổ, Tổ Long không sợ cao vút. Quan sát Nộn, Tinh, Thô, Sinh, Vượng, Hưu, Phế, Lão Long, để quyết định vị trí điểm huyệt.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  16. Cảm ơn bởi:


  17. #49
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    19, Luận Dương trạch

    Nếu nói Dương trạch khác Âm cung chỗ nào,
    Rất cần địa thế rộng bằng phẳng,
    Đường Cục không nên hẹp áp bức.
    Nếu ở sơn cốc, rất sợ lõm sợ gió;
    Nếu ở đồng bằng, trước tiên phải được thủy.

    Chú giải: Phong thủy Dương Trạch và Âm trạch khác biệt nhau, chính là Dương trạch yêu cầu địa thế rộng mà bằng phẳng, Đường Cục không nên nhỏ hẹp. Dương trạch ở trên sơn cốc phải chú ý Ao Phong sát, nếu như ở nơi đồng bằng, tốt nhất là gần nơi nước chảy.

    Thổ có dư, nên ích thì ích;
    Sơn không đủ, nên bồi thì bồi.

    Chú giải: Xung quanh đất quá nhiều, phải bên đào hết thì đào hết, nếu như Sa hình không đủ, cần phải bồi đất thì bồi đất.

    Tiên Trạch Hậu Phần, Phần tất hưng mà Trạch tất bại;
    Tiên Phần hậu Trạch, Trạch vừa thịnh mà Phần tự suy.

    Chú giải: Một cái huyệt vị, trước làm nhà ở, sau đó lại làm phần mộ trước mặt, phần mộ sẽ hưng vượng, mà nhà ở sẽ hội suy bại. Một cái huyệt vị, trước làm mộ phần, sau đó lại làm chỗ ở trước mặt, chỗ ở sẽ hưng vượng, còn phần mộ sẽ suy bại.

    Minh Đường bằng rộng, vạn tượng dày đặc;
    Chúng Thủy quy triều, chư sơn tụ hội.

    Chú giải: Minh Đường độ sâu bằng phẳng, các loại hình tượng bày ra tới tấp; vài dòng nước chảy đến, đất chúng sơn tụ hội.

    Thảo thịnh mộc phồn, thủy thâm thổ hậu.
    Tường viên ly tiệm, câu yếu hồi hoàn;
    Thủy quyến trì đường, tổng nghi triều ấp.

    Chú giải: Xung quanh chỗ ở tốt nhất là có cây cối xanh tốt, nước sâu tường đất dầy, tường thấp, rào tre, chiến hào, sộng hộ thành đều cần phải quanh co uốn khúc; dòng suối, kênh mương ruộng đồng, bể nước (trì đường) … nước chảy đều phải triều bái.

    Nói cùng Thiết Lô, Du Trá, Thủy Đối, Ngưu Xa,
    Lập tất biện phương, nên làm theo pháp.

    Chú giải: Sa Thủy như Thiết Lô, Du Trá, Thủy Đối, Ngưu Xa đều tất cần phải theo nguyên tắc phong thủy, dựa vào phương vị bố trí sắp đặt.

    Thủy rất liên quan ở họa phúc,
    Huyệt nên thích hợp ở Kinh đồ.

    Chú giải: Thủy có quan hệ phong thủy rất lớn, tuyển chọn Huyệt vị phải phù hợp với Kinh đồ cổ truyền.

    Chỗ kỵ là thủy vĩ nguyên đầu,
    Chỗ giới là Thần tiền Phật hậu.

    Chú giải: Chỗ ở không nên tuyển chỉ vị trí ở đầu nguồn nước hoặc là ở hạ lưu Thủy khẩu, cũng không nên tuyển chỉ ở trước sau thần miếu.

    Đàn miếu tất cư Thủy khẩu,
    La tinh kỵ thấy đương Đường.

    Chú giải: Thần miếu là nơi tế đàn tốt nhất ở vị trí Thủy khẩu thôn trang, còn viên sơn gò đất gọi là La tinh, thích ở nơi Thủy khẩu, không nên ở nơi làm bế tắc Minh Đường.

    Hình Cục nhỏ, không nên thương tàn, tấc đất quý như tấc vàng;
    Viên Cục rộng, ngại gì rộng rải, nghìn nhà nhận ở nghìn năm.

    Chú giải: Địa thế nền đất nhỏ hẹp, không nên xây nhiều nhà ở, đối với thân thể thực thi đào móc quá nhiều, bảo hộ đối với tầng đất thì càng trọng yếu. Hình thế đất nền rộng lớn, không nên xây nhiều nhà ở, thích hợp chỗ ở rất nhiều năm, gia vận lâu dài.

    Nhất Sơn nhất Thủy hữu tình, chỗ tiểu nhân dừng lại;
    Thế lớn Hình lớn nhập cục, chỗ quân tử ở.

    Chú giải: Xung quanh chỗ nhà ở một chút hình thế hợp với cát hung, chỉ qua là phong thủy nhỏ. Nếu như hình thế lớn phong thủy tốt, mới là bảo địa phong thủy.

    Lộc Thái Sơn có thủy giao lưu, khổng lâm rất tốt;
    Giữa Long Hổ sơn gió bất động, cảnh Tiên trường xuân.

    Chú giải: Dưới chân núi Thái Sơn, chư thủy, tứ thủy hội ở phía trước, chỗ tập trung linh tú, Khổng thánh nhân chọn mộ ở nơi này, che chở lâu dài, con cháu phồn hưng. Giang Tây Long Hổ sơn núi sống gắn bó, cục không lộ phong, rất là đông người, cho nên Trương Chân nhân chọn ở, phát phúc lâu dài, cha truyền con nối.

    (Hết)
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  18. Cảm ơn bởi:


 

 

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •