Chào mừng đến với Tử Bình diệu dụng.
Trang 2 của 5 Đầu tiênĐầu tiên 1234 ... CuốiCuối
Kết quả 11 đến 20 của 49
  1. #11
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Lập hướng quý nghênh Quan mà tựu Lộc,
    Tác huyệt phải xu cát mà tị hung.

    Chú giải: Hướng trước Khẩu mới quý có Quan tinh, tác huyệt phải xu cát mà tránh hung. Quan tinh chính là núi trái nghịch kéo dài nằm ở bên ngoài Án sơn Long Hổ. Lấy Huyệt Tinh làm trung tâm, thì Quan tinh nằm ở trước mặt Huyệt tinh, Quỷ tinh nằm ở phía sau Huyệt tinh.
    Mạch Quan tinh đều cùng nối nhau với Long Hổ. Đa số Quan tinh bởi vì bị Án sơn Long Hổ che phủ, Quan tinh là không thể thấy. Số ít Quan tinh thấu ra ở trên Án sơn Long Hổ, là có thể thấy, xưng là Kiến diện Quan. Đầu đỉnh núi tròn đều là Quan, đỉnh núi sắc nhọn là Diệu, gọi chung là Quan Diệu. Quan Diệu là dư khí của Lai Long, Lai Long thịnh vượng thì tất nhiên Dư khí cũng thịnh vượng, cho nên Quan Diệu là quý sa hiển lộ thân Long vượng khí, có thì hiển quý, hơn nữa Quan Diệu càng nhiều càng tốt.
    Quan Diệu hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc cao hoặc thấp, hình thái bất nhất, giống như cái Hốt (thẻ bằng ngà, bằng ngọc hoặc bằng tre của quan lại khi vào chầu, dùng để ghi việc thời xưa) cao, cái trụ Hốt, bầy Hốt; giống như ngọn Bút cao, Bút nhọn, Bút nằm; giống như cái Chung che phủ; giống như có thế chân Vạc; giống như mũ nón; giống như cờ xí; giống như đeo chuỗi ngọc; giống như đôi hài; giống như Nhật Nguyệt; giống như Kiếm Kích; giống như mỏ con Hạc; giống như lưỡi cày sắt; giống như con Thỏ nằm; giống như Cá nhảy; giống như có Phượng bay; giống như con Rùa; giống như xếp ngón tay; giống như vạt áo bay múa. Từng loại hình đều hiển quý khí khinh trọng cùng khác nhau. Trong đó, các loại hình lưu tinh như Hốt, Bút, Chung phủ, Nhật Nguyệt, chuỗi ngọc, rùa ba ba, có quý khí khá nặng; các loại như Tường vân, thoa cài tóc, đao thương, lê nhọn mu rùa ba ba, hoành trượng, thì quý khí khá nhẹ. Quan tinh nếu như là có hình cờ đảo ngược, phi đái (kéo bay), hình tượng không đẹp, thì không phải là cát toàn. Lá cở đảo ngược chủ vởi vì làm quan mất khí tiết, nhưng con cháu cuối cùng hiển vì khoa đệ; phi đái là chủ phụ nữ dâm loạn, nhưng con rể có làm quan.

    Tất viên cổ dĩ chứng kim,
    Quý thăng cao nhi vọng viễn.

    Chú giải: Luận địa lý không thể nghe tìn đồn nhảm, cần phải dẫn xưa chứng nay; xem phong thủy không thể tọa đàm Lý khí, cần phải trèo non lội suối, đứng cao nhìn xa. Nhưng từ khi cuối đời Đường phát minh La Bàn đến nay, rất nhiều thầy phong thủy lại không hề chịu đi khảo sát xem Lai Long khứ mạch, biện biệt Long cách cao thấp, lại không chú trọng hình tượng sơn thủy, phân tích kết huyệt chân giả, mà là cả ngày cứ cầm La bàn đàm chuyện viễn vông, một mực truy cầu phương vị lý khí, chỗ này là không thể được.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  2. Cảm ơn bởi:


  3. #12
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Từ lâu hạ điện, nghìn dặm không xa mà đến.
    Hỏi Tổ tìm Tông, sao nửa đường mà dừng?

    Chú giải: Lai Long ngọn núi cao lớn mà nhọn xưng là Long Lâu, gọi tắt là Lâu; cao to mà bằng xưng là Bảo Điện, gọi tắt là Điện. Long đến nghìn dặm nói chung là từ biệt Long lâu Bảo điện lập tức ngã xuống mà đến bên dưới. Long Lâu Bảo Điện là Tổ tông của Lai Long. Tầm Long thì phải từ khảo sát Tổ tông đến chỗ kết huyệt, không thể đi nửa đường mà dừng lại.

    Tổ tông đứng thẳng cao vút, con cháu tất quý.
    Khách Chủ hướng đón, tình ý hợp nhau.

    Chú giải: Nếu dãy núi Tổ tông đứng thẳng cao vút vượt trội bầy núi, thì phân chia chi nhánh con cháu Long mạch cuối cùng tất là có huyệt phú quý. Nếu Chủ sơn Khách sơn nghênh đón với nhau, tức là tâm đầu ý hợp.

    Hữu tất phục, Tả tất hàng, tinh thần bách bội.
    Tiền giả hô, hậu giả ứng, khí tượng vạn thiên.

    Chú giải: Bên phải Bạch Hổ phủ phục, bên trái Thanh Long thuận hàng, tinh thần bách bội. Phía trước có triều án tú lệ, phía sau có núi cao tầng tầng là theo hầu, cảnh sắc tráng lệ.

    Biện Sơn mạch, thì có đồng can khác chi.
    Luận Thủy pháp, thì có Tam xoa Cửu khúc.

    Chú giải: Long mạch có can chi, Tầm Long phải biện đồng can khác chi. Thủy có xoa khúc, luận thủy phải xem Tam xoa Cửu khúc. Xoa là giao vậy, Khúc là uốn cong vậy.

    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  4. Cảm ơn bởi:


  5. #13
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916


    3, Luận Khí Mạch phân hợp

    Chiêm bốc: Kỳ cát, chung yên Duẫn Tang.
    Cát địa là chỗ thần cai quản,
    Người thiện tất trời khắc Tương.
    Tương tướng công hầu, Tư xuất chỗ này.
    Vinh hoa phú quý, há từ chỗ này?
    Người biết không bằng người tốt, sao không Tư ngôn?
    Được ở Tư, tất thâm tạo ở Tư, có cái diệu lý.

    Chú giải: Chiêm bốc nói: Cát địa cuối cùng sẽ ẩn tàng. Bởi vì cát địa là chỗ thần cai quản, người tích thiện có thể được ông trời phù trợ, cho nên làm tướng công hầu, đều là xuất phát từ đây, người vinh hoa phú quý cũng ở từ chỗ này mà ra. Hiểu đạo này không bằng yêu thích đạo này, lời nói này không thể bỏ qua. Được chỗ này, tất phải học thêm từ chỗ này, bởi vì chỗ này có đạo lý huyền diệu.
    Duẫn: Ý là thích hợp.
    Tang: Ý là ẩn tàng.
    Khắc: Ý là có thể được.
    Tương: Ý là phù trợ.
    : Ý là tất cả.

    Muốn rõ thế phân hợp,
    Cần phải xét hướng bối.

    Chú giải: Phải hiểu rõ hình thế phân ly cùng hợp tụ, phải thẩm sát tình hình ôm hướng cùng phản bối.

    Đại tiểu phân hợp,
    Đại tiểu bát tự,
    Cầu diêm chi đồ.

    Chú giải: Lớn như can chi phân hợp Long Hổ Sa Thủy, nhỏ như thủy phân hợp râu tôm mắt cua. Lớn như can chi 8 chữ lớn Long Hổ Sa Thủy, nhỏ như 8 chữ nhỏ thủy râu tôm mắt cua. Giọt nước tròn như hình cầu, như mái nhà.

    Tán thì loạn, hợp thì tòng.
    Quần dĩ phân, loại dĩ tụ.

    Chú giải: Phân tán thì loạn, tụ hợp thì theo nhau không loạn. Có thể căn cứ vào tính chất phân chi theo bầy phân chia theo loại.

    Là lấy tiềm tàng khảo sát tinh tế,
    Đến hay dừng phải hiểu rõ ràng.

    Chú giải: Cho nên phải khảo sát cẩn thận tiềm tàng chỗ không lộ rõ, khí đến hay dừng phải biện minh tĩ mĩ.
    Ảnh đính kèm Ảnh đính kèm
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  6. Cảm ơn bởi:


  7. #14
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Sơn tụ xứ thủy hoặc khuynh tà, gọi là Bất thiện.
    Thủy khúc xứ sơn hoặc tán loạn, gọi là vô tình.

    Chú giải: Sơn tụ vốn là cát, nhưng nếu thủy chảy xiết nghiêng tà, tổ hợp cả hai, nói chung là đất không tốt. Thủy uốn khúc vốn là cát, nhưng nếu núi tán loạn, tổ hợp cả hai, cuối cùng là đất vô tình.

    Thu tiểu thuần nhi cầu đại tỳ, thị dụng quản trung khuy báo.
    Tựu chúng hung nhi tầm nhất cát, do duyên mộc dĩ cầu ngư.
    Chỉ kiến nhất ban, duyên mộc cầu ngư, thế bất khả đắc hĩ.

    Chú giải: Nếu chỉ lấy tiểu tiết cục bộ tú mỹ, mà bỏ qua toàn bộ hình thế cách cục bệnh liệt, thì chỗ thấy là ếch ngồi đáy giếng (quản trung khuy báo), chỉ có thấy một mảng. Nếu sơn thủy đều hung, phải ở trong hung cầu một cát, giống như trèo cây bắt cá (duyên mộc cầu ngư). Những cái này ắt là không được.

    Quyết dĩ ngôn truyền,
    Diệu do tâm ngộ.

    Chú giải: Khẩu quyết Phong thủy mặc dù thông qua lời nói để truyền đạt, nhưng đạo lý vi diệu lại là phải dùng tâm linh mới có thể lĩnh ngộ được.

    Đã biết rõ phép Đảo Trượng,

    Mới biết không phải Quái lệ.

    Chú giải: Chỉ có hiểu rõ phép Đảo Trượng (*), mới biết sai lầm của Quái lệ (ví dụ nói về Quẻ).

    Biện chân ngụy vu tạo thứ chi gian,
    Độ thuận nghịch vu tính tình chi ngoại.
    Vị tri chân quyết, uổng ngộ thế nhân.

    Chú giải: Nghiêm túc phân biệt chân giả ở lúc vội vàng, phán đoán hình thế thuận nghịch phải vượt qua cá tính yêu thích. Nếu như không thể khắc sâu giải thích chân quyết phong thủy, thì rất nhiều người sẽ uổng phí ở trên đời.

    (*) Phép Đảo Trượng của Dương Công sẽ có bài nói riêng.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  8. Cảm ơn bởi:


  9. #15
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916


    4, Luận Ngũ Tinh chuyển hoán

    Nhìn kĩ tám quốc chảy vòng quanh,
    Xét kĩ Ngũ tinh luôn biến hóa.

    Chú giải: Quan sát tiỉ mĩ bát phương phân bố, khảo sát tường tận Ngũ tinh biến hóa.

    Ngũ tinh ca nói:
    Mộc thẳng Kim cong Thổ vốn hoành,
    Hỏa tinh tú nhọn hướng Nam sinh.
    Thủy tinh giống như sinh Xà tẩu,
    Nói với thầy lúc luận ngũ hành.

    Chú giải: Ngũ tinh tức là 5 vì sao kim mộc thủy hỏa thổ. Sơn hình vòng cung là Kim, sơn iình vông nang laà Thổ, sơn uốn cong như rắn đi là Thủy, sơn ình thẳng tòn là Mộc, sơn hình mũi nhọn dựng đứng là Hỏa.

    Tinh lấy Bác hoán là Quý,
    Hình lấy đặc đạt là Tôn.

    Chú giải: Ngũ tinh lấy biến hóa là Quý, hình thế lấy vượt trội khác thường là Tôn.

    Thổ bất thổ mà Kim bất kim, tham hình tạp thế;
    Hỏa bất hỏa mà mộc bất mộc, huyễn mục hoặc tâm.
    Bởi thổ xinh xắn giống như kim,
    Mộc nhọn hỗn loạn giống như hỏa.

    Chú giải: Thổ không giống thổ, kim không giống kim, hình thế hỗn tạp. Hỏa không giống hỏa, mộc không giống mộc, người liền hoa mắt mà tâm mê. Đây là bởi vì sự xinh xắn ở bên trong Thổ tinh giống như Kim tinh, bên trong Mộc tinh sắc nhọn giống như Hỏa tinh.

    Kim thanh, Thổ trọc, Hỏa táo, Thủy nhu.
    Chú giải: Kim tinh tính cương hình chính mà trong, Thổ tinh tính dầy hình phẳng mà đục, Hỏa tinh tính đột phá hiếu động hình nhọn mà táo, Thủy tinh tính lệch ít chính hình cong mà nhu.
    Ảnh đính kèm Ảnh đính kèm
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  10. Cảm ơn bởi:


  11. #16
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Mộc vi diệu không qua ở đông phương, bắc thụ sinh mà tây thụ khắc.
    Hỏa nóng viêm độc tôn ở phương nam, bắc thụ khắc mà đông thụ sinh.

    Chú giải: Đông phương thuộc mộc, Nam phương thuộc hỏa, Bắc phương thuộc thủy, Tây phương thuộc kim, Trung ương thuộc thổ. Mộc ở phương đông là chính vị, cho nên là vi diệu, ở bắc phương là thủy sinh mộc, ở tây phương là kim khắc mộc. Hỏa ở nam phương là chính vị, là độc tôn, ở bắc phương là thủy khắc hỏa, ở đông phương là mộc sinh hỏa.

    Trước phá sau thành, đa số là thủy đến sinh mộc.
    Như vinh về su đình trệ, chỉ vì hỏa đi khắc kim.

    Chú giải: Trước phá bại sau thành công, đại đa số là do Thủy tinh đến sinh Mộc tinh. Khởi đầu vinh diệu cuối cùng trì trệ, chỉ vì nguyên do là Hỏa tinh đi khắc Kim tinh.

    Mộc là Tổ, Hỏa là Tôn, phú mà hiếu lễ.
    Kim là Mẫu, Mộc là Tử, sau tất có hoạ.

    Chú giải: Mộc tinh là Tổ, Hỏa tinh là Tôn, phú mà hiếu lễ. Kim tinh là Mẫu, Mộc tinh là Tử, sau tất là có hoạ.

    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  12. Cảm ơn bởi:


  13. #17
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Thủy ở Khảm cung, Phượng trì thân quý.
    Chú giải: Khảm cung thuộc thủy, Thủy tinh ở chính vị, có thể xuất ra là quý thần, mà thân danh liệt Phượng trì (làm quan Trung ương, Tỉnh).

    Kim cư Đoài vị, danh cao ô phủ.
    Chú giải: Đoài cung thuộc kim, Kim tinh ở chính vị, có thể xuất danh nắm lệnh giữ gìn trật tự ở Ô phủ (Quan Ngự Sử).

    Thổ vượng Ngưu điền, Mộc sinh Văn sĩ.
    Chú giải: Thổ tinh có thể khiến cho gia chủ có ruộng đất trâu bò giàu có. Mộc tinh cao vút thanh tú, có thể xuất danh kẻ sĩ văn chương tuấn kiệt.

    Thủy tinh đa số ở bình địa, chỗ kỳ diệu khôn xiết.
    Hỏa tinh đa số xuất danh cao sơn, quý ngôi vô địch.
    Mộc cần có tiết. Kim quý liên châu.

    Chú giải: Thủy tinh uốn cong di động ở đất đồng bằng (bình dương), hình ẩn sát không có đủ khí, cho nên mới nói chỗ diệu kỳ khôn xiết. Hỏa tinh ở núi cao đa số là long lâu bảo điện, có chỗ này mới xuất ra Tam Công, cho nên nói quý mà vô địch. Mộc tinh có tiết, ở nơi tiết thủ huyệt là cát. Kim tinh hành Long giống như chuỗi hạt, trước có đất to lớn.

    Chỗ quý là Hoạt Long Hoạt Xà.
    Chỗ tiện là cá chết lươn chết.
    Hình thấp nhỏ không nên thon gầy.
    Thế uốn khúc không nên nghiêng tà.

    Chú giải: Thế lớn có chân là Long, Hình nhỏ không có chân là Xà, hình thế không câu nệ lớn nhỏ, nhưng cần xuất hiện nhấp nhô lên xuống chợt phải chợt trái là Quý. Nếu không, thì là cá chết lươn chết, là Tiện. Hình nếu như thấp nhỏ, mập tròn thì cát, gầy đét là hung. Thế nếu như uốn khúc, ngay thẳng là cát, nghiêng vẹo là hung.



    Chú thích: 木: Mộc; 土: Thổ; 水: Thuỷ; 金: Kim; 火: Hoả.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  14. Cảm ơn bởi:


  15. #18
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Đức không cô độc, phải có lân cận, nhìn nó là tòng.
    Mắt không nhìn thấy, chỉ có phí lực, cuối cùng mơ hồ.
    Ngũ tinh theo đây mà suy, vạn biến khó mà nêu ra.

    Chú giải: Người có đức, tất có láng giềng bầu bạn, nhìn người hầu của hắn thì biết người này. Đất kết lớn, tất có tả hữu bái chào, trước nghênh sau ủng, nhìn là theo, liền biết đất này. Nếu nhãn lực không rõ, chỉ phí thể lực, cuối cùng là mơ hồ. Ngũ tinh dựa theo chỗ này mà suy, vạn biến khó mà nêu ra.

    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  16. Cảm ơn bởi:


  17. #19
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    5, Luận Thủy pháp
    Luận sơn như thế, còn Thủy thế nào?
    Chú giải: Luận sơn nói chung là như vậy, còn luận Thủy như thế nào chứ?

    Giao, Tỏa, Chức, Kết mà cầu, Xuyên, Cát, Tiến, Xạ tránh hợp.
    Chú giải: Giao, tức là hai dòng nước giao hội; Tỏa, tức là Thủy bị Sa cản giống như đóng khoá; Chức, tức là dòng nước chảy uốn cong như dệt vải; Kết, tức là nhiều dòng nước tập kết chảy đến tụ lại. Xuyên, tức là nước chảy xuyên thẳng Long Hổ; Cát, tức là nước chảy đến cắt chân ở phía trước huyệt không có dư khí; Tiến, tức là nước chảy thẳng mà đi; Xạ, tức là nước chảy xiết từ hai bên sườn núi chảy đến. Trước là nên cầu, sau là nên tránh.

    Chàng thành là phá gia sạt nghiệp,
    Bối thành là ao tính cường tâm.

    Chú giải: Nước chảy xiết nhanh đến đụng vào Huyệt thành, là chủ phá gia phá bại nghiệp. Nước cong nghịch lại sau lưng Huyệt thành, xuất người vô tình tâm tính mạnh bạo.

    Phát phúc du trường định là nước quấn quanh Huyền Vũ,
    Làm quan giàu có tất nhiên là nước cuộn Thanh Long.

    Chú giải: Phát phúc lâu dài định là thủy quấn quanh Huyền Vũ phía sau huyệt, làm quan giàu có tất nhiên là nước cuộn quanh bên trái sơn Thanh Long. (Thủy quấn quanh bên phải sơn Bạch Hổ cũng cát).

    Chỗ quý là Ngũ Hộ bế tàng,
    Chỗ thích là Tam Môn khoan khoát.

    Chú giải: Ngũ hộ là chỉ Địa Hộ, tức là lối đi ra của dòng nước xung quanh Huyệt tràng; Tam Môn là chỉ Thiên Môn, tức là lối đi vào của dòng nước xung quanh Huyệt tràng, hoặc là Minh Đường.

    Viên Cục tuy quý, Tam Môn bức hẹp không cần xem;
    Hình huyệt tuy kỳ, Ngũ Hộ không liên quan thủ túc ở đâu.

    Chú giải: Nếu Minh Đường hẹp áp bức, Thủy khẩu đến chật hẹp, Cách Cục tuy quý cũng không cần nhìn. Nơi lối đi ra của dòng nước ở Huyệt tràng không có bị đóng cửa, thủ chân phong thủy ở đâu?

    Lưu ý Nguyên thần ra thẳng không nói là hung,
    Ngoại cục xoay chuyển cản ngang có phải phản cát.
    Lấy giới mạch thì mạch tự dừng,
    Lấy tàng phong thì gió không thổi.

    Chú giải: Nước chảy thẳng trước mặt Huyệt vị tất là hung, nhưng ở bên ngoài phải có sơn thủy cẳn ngang lại cát. Lấy giới mạch thì mạch tự dừng, lấy tàng phong thì gió không thổi.

    Thủy vòng qua huyệt mà nhảy ngược, không đáng một đồng.
    Thủy nếu vào ngực mà ôm ngược, một thể liền suy.

    Chú giải: Thủy vòng qua huyệt mà nhảy ngược mà đi là không quan tâm đến huyệt, thì không đáng một đồng. Thủy nếu vào ngực mà ôm là vô tình, một thể liền suy.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  18. Cảm ơn bởi:


  19. #20
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Thủy khẩu thì thích khẩn tâm hồ lô hầu.
    Ôm thân thì quý cong giống như hình sừng trâu.

    Chú giải: Xuất thủy khẩu thì thích xiết tâm cổ hồ lô. Thủy ôm thân huyệt thì quý như cong hình sừng trâu.

    Giao nha tiệt thủy giả, tối nghi Tủng bạt.
    Tủng bạt oai phong giống như vũ phu giữ thành.

    Chú giải: Núi hai bên Thủy khẩu đóng rang chặn thủy, rất cần cao vút (Tủng bạt). Tủng bạt tốt nhất là giống như vũ phu oai phong mà giữ thành.

    Trước mặt tụ thủy, chỉ thích ngưng trong.
    Ngưng trong nếu trang nghiêm như hiền thần củng vị.

    Chú giải: Trước mặt có ao hồ tụ thuỷ, chỉ thích trong xanh mà ngưng tĩnh. Trong xanh ngưng tụ trang nghiêm giống như hiền thần củng lập triều vua, yên tĩnh bất động.
    Sa Thủy khẩu, cửa rất lợi hại. Đặc biệt đưa ra chỗ này rất mơ hồ, trước mắt là nên khảo sát cẩn thận.

    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  20. Cảm ơn bởi:


 

 

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •