Chào mừng đến với Tử Bình diệu dụng.
Trang 2 của 2 Đầu tiênĐầu tiên 12
Kết quả 11 đến 19 của 19
  1. #11
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    VD 1, ví dụ trong nguyên chú:
    Tân Dậu, Quý Tị, Mậu Thân, Đinh Tị,
    Bành thị chú giải: Tạo này ngũ hành khuyết mộc, ít thủy, theo Nguyệt lệnh Tị hỏa là vượng khí, Mậu thổ đắc lộc ở Tị, kim nhiều tiết thổ, nhưng có ở vượng khí, Mậu thổ là con đường không vượng cũng không suy, khí ngũ hành, từ hỏa chảy hướng thổ, lại hướng kim, đến phương thủy là dừng. Quý thủy là chỗ dừng, Quý thủy cùng nhật nguyên Mậu, tương hợp hữu tình. Hữu tình biểu hiện ở Mậu Quý hợp có thể bổ sung chỗ nhu nhật nguyên, hơn nữa đường đi không tổn thương. Vượng khí tụ ở Nguyệt lệnh, chủ gia đình hoặc đơn vị phát đạt, cùng nhật nguyên hữu tình, liền tới mệnh chủ là được đứng đầu phát đạt. Tất nhiên không mất phú quý.
    VD 2, ví dụ thời nay:
    Khôn tạo: Mậu Tuất, Canh Thân, Quý Hợi, Đinh Tị
    Tạo này Quan Ấn một đường đến sinh, tự xem hữu tình. Vượng khí trước tiên chảy hướng nhật nguyên cùng tọa dưới Hợi, Quý Hợi không phải là chỗ dừng, một là trong Hợi có Giáp, hai là Hợi cùng Tị xung, nếu như khí ở Giáp mộc, Thân xuyên Hợi, thương hại Giáp, nếu như khí dừng ở Hợi, Tị đến xung, cuối cùng là chỗ dừng gặp phải hình, tượng khí tán. Cho nên không có phú quý, là người bình thường mà thôi.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  2. Cảm ơn bởi:


  3. #12
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    VD 3, ví dụ xưa:
    Càn tạo: Nhâm Thân, Nhâm Tý, Mậu Ngọ, Ất Mão

    Tạo này kim mộc thủy hỏa thổ ngũ hành không khuyết, vượng khí là thủy, tự xem ngũ hành lưu thông không trở ngại, cũng không chỗ dừng, thực tế vượng khí ở nguyệt lệnh Nhâm Tý, Mậu thổ có tượng thủy khố, chỉ có thủy khố mới có thể giữ được dòng vượng khí này. Ất là thảm thực vật ở trên khố, bang trợ Mậu thổ khống chế dừng vượng thủy không chảy tràn lan thành họa, khí quy về nguyệt lệnh, tượng nhật chủ rơi, quý mệnh là Tham Chính.
    VD 4, Nguyên là ví dụ của Nhâm thị:

    Tứ trụ Đại vận
    Tân Dậu
    Canh Tý
    Bính Dần
    Quý Tị
    Kỷ Hợi
    Mậu Tuất
    Đinh Dậu
    Bính Thân
    Ất Mùi
    Giáp Ngọ

    Nhâm thị chú giải: Chỗ này lấy kim làm Nguyên đầu, chảy đến Dần mộc, Ấn thụ sinh thân càng hay. Giờ Tị đắc Lộc, Tài lại phùng sinh, Quan tinh thấu lộ, thanh có tinh thần, trung hòa thuần túy, khởi chỗ cũng tốt, quy cục càng đẹp, xuất thân Từ lâm , làm quan Thông Chính, cả đời không gặp hiểm, danh lợi song huy.
    Bành thị chú giải: Tạo này Nhâm thị giải thích rất hay. Dậu sinh Tý cũng phá Tý, Tý thủy cũng không phải Nguyên đầu. Thiên can Canh Tân âm dương cùng thấu, địa chi phùng Dậu, kim là Nguyên đầu, Nhâm thị nói mộc là chỗ dừng. Tại sao không nói hỏa là chỗ dừng? Nói hỏa là chỗ dừng tất nhiên là có lý, nhưng chỗ dừng là ở Bính mà không ở Tị, nguyên nhân là vượng thủy cái đầu, hỏa tính chỉ viêm thượng. Dần mộc khí vượng tướng ngũ hành thuận lợi lưu thông đến chỗ nhật nguyên. Thư viết: Dần cung không sợ thủy nguyên thâm, chỗ này có Dần mộc cũng không lo thiên can Quý thủy. Nếu là ngày Bính Tý, không có thổ lộ tích ở vượng thủy, tất có lo thủy hỏa giao chiến. Phú viết: thủy hỏa giao chiến nhiều thị phi. Nếu là ngày Bính Tý, mặc dù tòng Sát, có dấu hiệu là đại quý, nhưng cả đời khó tránh gợn sóng mạo hiểm. Tạo này được 1 Dần kề thân, vượng khí dừng ở Bính Dần, bát tự không có thổ rõ làm mờ hỏa, lại không có hình xung. Ấn thụ sinh thân, Tài Quan Ấn một đường tương sinh đến thân chủ, đường đi thông sướng, quá trình xuất thân cùng cả đời đều cát. Chỉ là tượng không quá lớn, cho nên cả đời không có nguy hiểm, danh lợi song huy, cũng chỉ qua là một mệnh Thông Chính (Thông Chính tức là quan sứ giả, cao nhất là tam phẩm, thấp nhất là không có phẩm).
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  4. Cảm ơn bởi:


  5. #13
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    VD 5, Vốn là ví dụ của Nhâm thị:

    Tứ trụ Đại vận
    Tân Sửu
    Quý Tị
    Mậu Thân
    Bính Thìn
    Nhâm Thìn
    Tân Mão
    Canh Dần
    Kỷ Sửu
    Mậu Tý
    Đinh Hợi

    Nhâm thị chú giải: Chỗ này lấy hỏa làm Nguyên Đầu, chảy đến phương thủy thì dừng, càng hay ở tháng và giờ, gốc của hai hỏa, đều được lưu thông, đến kim thủy thì quy về cục, cho nên giàu có bách vạn, làm quan đến nhất phẩm, trọn cả đời không có nguy hiểm, chỗ nói là giúp lấy phúc lớn, mọi người ngưỡng mộ; đóa hoa thêm gấm, nhìn thấy Ngũ phúc.
    ( Kinh Thi chia ra ngũ phúc là: (1) Giàu có; (2) Yên lành; (3) Thọ ; (4) Có đức tốt; (5) Vui hết tuổi trời)

    Bành Thị chú giải: Tạo này cùng ví dụ ở trên là tương tự. Chỗ khác nhau là, một trụ Bính Thìn, Mậu mượn lực thổ của Bính Thìn, nắm trong tay vượng khí càng có lực mạnh.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  6. Cảm ơn bởi:


  7. #14
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    VD 6, Vốn là ví dụ của Nhâm thị:

    Tứ trụ Đại vận
    Tân Mão
    Tân Mão
    Bính Tý
    Giáp Ngọ
    Canh Dần
    Kỷ Sửu
    Mậu Tý
    Đinh Hợi
    Bính Tuất
    Ất Dậu

    Nhâm Thị chú giải: Tạo này lấy mộc làm Nguyên Đầu, ngũ hành không có thổ, không thể chảy đến kim; Tài Quan lại cách tuyệt, xung mà gặp tiết, không có tình sinh hóa. Vận đầu Canh Dần, ngậm phúc bề trên; vận Kỷ Sửu hợp Tý, tiết hỏa sinh kim tài phúc cùng đạt; Mậu Tý thổ hư thủy vượng, ám trợ mộc thần, hình háo đa đoan; Đinh Hợi khắc kim hội mộc, phá gia người mất.
    Bành thị chú giải: Tạo này lấy mộc làm Nguyên Đầu, thiên can thấu Giáp, đến hỏa là dừng. Bởi vì bát tự không có thổ, vượng khí không có cách nào lưu thông đến kim, năm tháng đều là Tân kim, không được vượng khí tương sinh, tất nhiên là vô vị, không động không vật. Nhưng mà, nhật chủ tham hợp Tân kim, lại thêm Biến dã Đào Hoa, rất là phong lưu. Tệ hơn là Tý Ngọ tương xung, vượng khí đến gặp tán mất. Vận Kỷ Sửu bởi vì hợp trụ Tý thủy, thông quan hỏa ở kim, mới có được tài phúc; vận Tý xung Ngọ, chính là mùa khí tán. Vận Đinh Hợi, Tân kim bị thương, người cứu mệnh đều mất. Thảo nào ứng có phá gia người mất.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  8. Cảm ơn bởi:


  9. #15
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    VD 7, Vốn là ví dụ của Nhâm thị:

    Tứ trụ Đại vận
    Canh Dần
    Nhâm Ngọ
    Mậu Ngọ
    Đinh Tị
    Quý Mùi
    Giáp Thân
    Ất Dậu
    Bính Tuất
    Đinh Hợi
    Mậu Tý

    Nhâm thị chú giải: Tạo này lấy hỏa làm Nguyên Đầu, chi năm Dần mộc chủ bị tiết, can tháng Nhâm thủy ngăn cách, không thể chảy đến kim. Vận đầu đất thổ kim, xung hóa thần cản trở tiết khí, sự nghiệp giống như nước mắt mùa Thu hoa Xuân hưng thịnh, người được ân huện của năm Nghiêu tháng Thuấn; một lúc giao Bính Tuất, chi hội hỏa cục, Kiêu thần đoạt Thực, phá hao dị thường, lại hình khắc một thê hai thiếp bốn con; đến vận Đinh Hợi, can chi đều hợp hóa mộc, cô đơn một mình, bơ vơ chịu không thấu, bèn quy y thành tăng.
    Bành thị chú giải: Tạo này hỏa nhiều gặp Dần, khuyết một chữ Tuất, hỏa không thu vào, tượng vô tình tán hỏa. Hoàn toàn dựa vào thiên can kim thủy ức chế hỏa vượng khí, tiếc là kim thủy thái nhược, địa chi không có thổ kim tiết hỏa thông quan, kim thủy không đến được vượng khí bồi dưỡng, hỉ dụng cả hai đều bị thương. Tạo này ức chế vượng hỏa là khẩn yếu nhất, thủy là dụng, kim là hỉ. Dần mộc là bệnh. Hợi vận, Hợi tham sinh hợp mà vong khắc, thế hỏa không giảm, dụng thần Lộc tinh bị hợp thương. Dần dần nhập vào tuyệt cảnh.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  10. Cảm ơn bởi:


  11. #16
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Tổng kết:
    Nhâm thị viết: Phàm phú quý, không có không theo Nguyên Đầu vậy. Phân ra quý tiện, hoàn toàn là ở một chữ thu cục mà định. Ta mất trọc khí, ta làm Hỉ thần, không quý cũng phú; ta mất thanh khí, ta làm kỵ thần, không bần cũng tiện. Học giả nên xem xét cẩn thận.

    Bành thị cho rằng, chỗ Nhâm thị nói rất đúng. Chỗ nguyên văn giảng Nguyên Lưu, vừa phải có vượng khí làm Nguyên Đầu, cũng phải có lưu thông làm đường đi, càng xem trọng chỗ vượng khí dừng lại. Chỗ vượng khí dừng lại thu vào được tốt, xác thực là có Chân Long kết mạch, đất bảo vật tàng phong tụ khí. Khí quy về Nguyệt lệnh, tượng rơi Nhật chủ, không có không phú quý vậy. Nhưng mà bát tự càng nhiều lại là chân khí khó tụ, hoặc là xung phá vô hình, hoặc là đường đi không thông, hoặc là gốc chi khô héo, chỗ khác tươi tốt. Mọi thứ huyền cơ, đều tàng ẩn hết ở trong Nguyên Lưu.
    Tác giả dựa theo Nguyên Lưu cũng là dựa theo để hoàn thành ngũ hành sinh khắc, ngũ hành sinh khắc là chính lý, ngũ hành sinh khắc từ đâu mà bắt đầu, hẳn phải là ứng dụng trong Nguyên Lưu một đại bí quyết, bây giờ kèm theo một đoạn văn nhỏ, để cung cấp tham khảo.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  12. Cảm ơn bởi:


  13. #17
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Jan 2013
    Bài viết
    198
    Trích dẫn Gửi bởi lesoi Xem bài viết
    @nguytran: Không được, bởi vì kim sinh tháng Dần là Tử địa không có lực sinh thủy. Bạn phải xuất phát từ nguyệt lệnh Dần mộc. Nguyên lưu chảy từ mộc sang hỏa, hỏa sinh thổ sinh kim sinh thủy, nguồn tương sinh bất tận, dừng lại nơi Nhâm thủy. Lấy Tài tinh quyết định bản mệnh.
    Bác cho cháu hỏi nếu vậy Mậu thổ sinh được Thân kim không, vì Mậu bị ngăn cách Nhâm và Dần. Cháu đọc nguyên lưu đa phần thấy dòng chảy ngũ hành phải liền nhau.

    MT.

  14. #18
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,916
    Trích dẫn Gửi bởi nguytran:
    Bác cho cháu hỏi nếu vậy Mậu thổ sinh được Thân kim không, vì Mậu bị ngăn cách Nhâm và Dần. Cháu đọc nguyên lưu đa phần thấy dòng chảy ngũ hành phải liền nhau.

    MT.
    Manh phái có một tuyệt chiêu bí truyền, đó là "Phùng xung thì hung". Dựa vào nguyên lý này, mỗi khi luận mệnh, Manh sư thường xem Nguyên lưu là rất trọng yếu. Bất cứ dòng chảy nào nếu gặp cản trở thì mệnh xem như là hung. Lực xung mạnh, xuất hiện nhiều thì càng hung.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  15. Cảm ơn bởi:


  16. #19
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    509
    Sách cụ Thiệu có ghi thế này:
    Địa chi không tính sinh khắc, chỉ quan hệ hình xung hợp hại.
    Ví dụ Tuất gặp hợi thì không luận tuất (thổ) khắc hợi thuỷ, gặp Tý cũng vậy.
    Theo tôi hiểu ý cụ Thiệu sinh khắc ngũ hành trong tứ trụ chỉ xảy ra với Thập can. Với địa chi, thì việc hỗn tạp nhiều ngũ hành, vd với Tuất tàng Mậu Tân Đinh, Hợi tàng Nhâm Giáp, thì Mậu khắc Nhâm là bản khí, thì dư khí còn lại không biết giải quyết thế nào, vậy nên Địa chi không luận sinh khắc.
    trong Manh phái Đoàn Kiến Nghiệp có 1 đoạn là kẹp khắc
    Như tuất - hợi - tuất, là chế không hoàn toàn, trường hợp này muốn chế hợi chỉ có dùng Tị hoả xung Hợi.
    Hợi có quan hệ tam hợp Mão Mùi
    Có mão thì mão tuất hợp, có mùi thì tuất mùi hình, duy chỉ có Tị hoả không có quan hệ gì với Tuất nên xung thẳng Hợi.
    1 dấu vết nữa: các địa chi tứ chính chỉ có 1 nhân nguyên (trừ ngọ hoả là hơi đặc biệt, có kỷ thổ), tồn tại thêm quan hệ phá, dậu phá tý là kim nhiều thuỷ đục, mão phá ngọ, là mộc nhiều hoả diệt, tuỳ điều kiện mà có cả ngọ phá dậu, là thổ nhiều vùi kim, còn các địa chi khác không có quan hệ này.
    Các bạn có ý kiến thế nào?
    Nếu điều này đúng thì nguyên lưu còn phải bàn nhiều, như Tuất gặp Thân kim thì cho rằng thổ sinh kim là không được rồi.
    Lần sửa cuối bởi sherly, ngày 20-09-18 lúc 22:57.

 

 

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •