Note: đại vận là sự dịch chuyển của lệnh tháng, vì thế khi xem đại vận phải chú ý đến phương. Ví dụ như vận thìn khác vận tuất, mặc dù cùng là thổ, nhưng vận thìn mộc vượng, vận tuất kim vượng.
Thìn là thổ tử
Tuất là thổ hưu
Sửu là thổ tù
Mùi là thổ vượng tướng
Sắp xếp tính thổ thì mùi - tuất - sửu - thìn theo chiều giảm dần. Dựa vào hỷ kị luận tốt xấu.
Có trường hợp đặc biệt là hình trì thế Tuất - Sửu - Mùi
Lúc này dựa vào lệnh tháng để luận hành nào thất khí, ví dụ sinh mùa thu thì kim khắc mộc, mộc thất khí, khi đó xem hỷ kị mà luận.
Còn lưu niên là sự tịnh tiến của năm sinh với sự lặp lại mỗi 60 năm (lục thập hoa giáp), với lý 1 đại vận quản 10 năm, thì lưu niên chủ quản 1 năm trong đại vận và xét vượng suy theo thiên can. Ví dụ năm quý tị và năm quý hợi đều là thuỷ vượng, tức nếu dụng thần là thuỷ, kị hoả thì cả 2 năm này đều tốt, tuy nhiên với quý hợi thì tốt nhất, quý tị kém hơn.
Đại vận nhìn chi, tiểu vận nhìn can là như vậy.
Nguyên mệnh - đại vận - lưu niên là không phân ly, tức phải xem cả 6 trụ nhưng phân biệt trước sau, lớn nhỏ như sách ông Thái Tích Quỳnh đã luận. Tôi xin tóm tắt lại:
Đại vận tiến nhập nguyên cục thì lưu niên mới có tín hiệu rõ ràng.
Các cách tiến nhập, trụ giờ là cửa ngõ, là cung Thiên Di. Thế nên khi đại vận có hợp xung hình hoặc dung hợp với trụ giờ thì đại vận đó tiến nhập mệnh cục, cuộc đời người đó sẽ có những thay đổi lớn lao ở 10 năm này.
Tuy nhiên có những vận không cần sự can thiệp vào trụ giờ mà nó tạo ra một khí thế lớn khác thường vào mệnh cục, như đại vận dẫn hoá thần của mệnh cục (mệnh có tị dậu, vận thấu canh tân), hoặc tam hình, tam hội, tam hợp hình thành không có nhân tố trụ giờ vẫn tiến nhập được mệnh cục.
*dung hợp: chi giống với chi trụ giờ như giờ thìn gặp vận sửu là dung hợp (cùng là thổ). Mời đọc thêm Mệnh lý huyền cơ tham bí.
Lần sửa cuối bởi sherly, ngày 05-07-18 lúc 17:59.
Khí số trong tứ trụ góp phần không nhỏ đến thứ tầng. Điển hình là cuốn sách Cùng Thông Bảo Giám ( lan giang võng?) viết về ngũ hành tứ thời luận. Quan điểm khí số này là từ phương pháp điều hậu, bàn sâu về ngũ hành lạnh khô, nóng ẩm dựa vào nhật can và Nguyệt Lệnh.
Điểm chính yểu của nó là phân tích Quý Mệnh, xã hội thời xưa và ngay cả thời nay cũng vậy phân chia làm 2 giai cấp quan quý và thường dân. Cho dù anh có là chủ doanh nghiệp lớn, hay ca kịch sỹ nổi tiếng thế giới thì anh vẫn thuộc thường dân.
Chính vì điều này mà thầy đoán mệnh thời xưa rất đề cao phương pháp đoán mệnh này, chỉ cần có Quý tự nhiên sẽ tựu Phú, xã hội ngày nay đã bình đẳng hơn, dĩ nhiên chữ Sỹ vẫn đứng đầu, nhưng cả một đất nước gần trăm triệu người như nước ta, ai cũng đoạt chữ Sỹ là điều không thể, vì vậy vượng suy tân phái ra đời (chính xác là được xiển dương) với mục đích cao cả hơn đó là xem ứng kỳ cát hung.
Người đi xem mệnh chủ yếu xem thời gian nào họ được toại chí, quan thì xem lúc nào thăng chức, dân thì xem lúc nào kiếm được nhiều tiền, có thể nói vượng suy phái làm điều này rất tốt.
Phép luận đoán khí số ngày nay chỉ còn xem một cách bổ trợ, dĩ nhiên đắc khí số vẫn tốt hơn, lại thêm bát tự vào loại phú mệnh thì phú mà còn quý, nhưng xã hội cũng có (phần đông) phú mà không quý, đặc biệt giờ ở Trung Quốc Phú mà còn quý rất dễ bị sờ gáy, dễ bị vu làm quan tham nhũng.
thanh thì quý, trọc thì phú.
Trong nhân tướng học, cái mũi là thẩm biện quan xem về phú quý. Mũi dọc dừa, mũi thông thiên thuộc vào Thanh quý, thường là mũi của những người làm quan.
Mũi sư tử, mũi túi mật treo được xếp vào trọc phú, là mũi thường có của người giàu nhờ kinh doanh buôn bán.
Tứ trụ cũng vậy, quan thấu tài tàng Phúc hưng long. Thanh la thấu can, trọc là tàng chi.
nói chung phép xem khí số để thủ Quý, nhưng với xã hội nay thì điều đó không quá quan trọng, tài vượng có thể sinh quan. Xã hội kim tiền, thì tứ trụ cũng nên theo xu hướng kim tiền.
Nhất mộ, nhì phòng, tam bát tự.
Theo tôi nhất BÁT TỰ. Nó có thể chiếm 60-70% trong cuộc đời mỗi người, nó cao hơn hay thấp hơn tuỳ vào từng người cụ thể.
Tử bình, tử vi, Mai hoa dịch số, chiêm tinh v.v... chỉ là những phương pháp luận mệnh tiền định của con người.
Theo tôi thì tiền định của mỗi người sinh ra là có thật nhưng làm sao đề biết tiền định vận động như thế nào, theo chiều hướng nào, hên xui, may rủi... thì phải có những cách để "nhìn". Một trong những cách đó là luận mệnh như nói ở trên.
Nhưng luận mệnh dù bằng phương pháp nào cũng chỉ là một phép GẦN ĐÚNG vì số mệnh con người được định trước phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nữa, không chỉ có ngày tháng năm giờ sinh, ví dụ như sự sắp xếp của các tinh tú trong giờ khắc được sinh ra mà trong vũ trụ này thì có hàng tỷ tỷ hành tinh vận động không ngừng. Cứ một giây thì trật tự các tinh tú lại nhích đi một chút và người sinh sau 1 giây đó sẽ có tiền định hơi khác một chút, sau 1 phút khác nhiều hơn, sau 1 tiếng khác nhiều nữa... Bố cục của các tinh tú (vận động và tương tác với nhau) cũng khác nhau ở các điểm khác nhau (phương vị phong thuỷ). Ngoài ra mệnh tiền định còn phụ thuộc những người thân trong gia đình (về bản chất mỗi người cũng là một đơn vị vật chất tác động tới người khác), còn di truyền nữa v.v...
Nói chung là có rất rất nhiều yếu tố tác động vào mệnh của con người. Vì vậy muốn luận mệnh chính xác ta phải xử lý tất các các yếu tố nói trên. Nhưng trên thực tế không có cách nào để xử lý hết được các yếu tố đó nên luận mệnh chỉ là gần đúng là vậy. Chúng ta thấy nếu những bậc đại sư nào mà kết hợp xử lý thêm các yếu tố khác như phong thuỷ, coi tướng, coi chỉ tay v.v... thì độ chính xác càng cao.
Tôi thấy số mệnh là nhất còn những cái khác là những yếu tố bổ sung. Không gì vượt qua được số mệnh.
Tướng Pháp quan trọng nhất là Thanh Tướng, đây là lí do mà người Mù (manh nhân) họ xem bói giỏi hơn chúng ta, vì họ có đôi tai nhạy cảm hơn người thường.
Như Miền Bắc thường có giọng Hoả, Thổ và Miền Nam thì lại phổ biến giọng Kim, Thuỷ, Mộc.
Khi đã xác định được dụng thần bát tự, cần chú ý thanh âm người ta xem dụng thần đắc lực tới đâu.
Giọng thổ thì hơi trầm, khàn khàn.
Giọng kim lanh lảnh, trong trẻo
Giọng hoả gấp gáp, mạnh mẽ
Giọng mộc vang vọng, sục sôi
Giọng thuỷ nhẹ nhàng, êm ái
giọng nói bổ trợ cho dụng thần bát tự người đó chắc chắn có thành tựu. Phép xem tướng xưa nay đều coi giọng nói trong, cao và vang vọng như tiếng chuông là tốt, điều này không đúng. Tất cả nên quy về hỷ kỵ, dụng thần là Thổ mà giọng như trên là hỏng, độ số giảm đi rất nhiều.
Sách vở khi nói về Thanh Âm rất qua loa, theo tôi muốn luyện tập thì nên nghe các ca sỹ nổi tiếng hát, và phải có bát tự chính xác của họ, xác định đúng hỷ kị, khi đó ta nghe sẽ phân biệt được ngũ hành của giọng, vì họ nổi tiếng nên giọng hát của họ phải bổ trợ cho dụng thần.
Tuy nhiên có một điểm chung đó là:
Nam không được mang giọng nữ
Nữ không được mang giọng nam
Có là dụng thần đi nữa thì cuộc đời lênh đênh, không bao giờ thành công được, sự tu dưỡng kém.
Giọng nói phải được chính cách, không được khó nghe, nói nhanh, gấp gáp là giọng hoả, nhưng nói quá nhanh người khác không nghe được thì đó là phá cách, độ tu dưỡng cũng kém.
Tướng mạo có thể giống nhau hoàn toàn, nhưng thanh âm thì trên thế giới này có 7 tỷ người thì có 7 tỷ âm sắc khác nhau, đây mới là cái chính yếu dùng tướng pháp để phân định.
Dĩ nhiên nói vậy không phải để chê phép xem tướng mặt, hay chỉ tay.. Nhưng theo tôi từ bát tự đều có thể nhìn ra được hình tướng, nếu đủ khả năng. Ví dụ như trong tử vi thì người có song hao thủ mệnh có mũi lộ hếch.
Ý nghĩa của song hao: chủ hao tán, khó giữ tài sản
Và tướng pháp cũng tương tự:
Mũi lộ hoặc hếch không giữ được tiền, dễ hao tài.
Đường nào cũng đến La Mã cả ^^
dư thị điều hậu khác với điều hậu thường thấy trong tử bình như kim hành thuỷ lạnh thổ đóng băng hỷ bính hoả giải hàn, hoả viêm thổ táo mộc cháy khét hỷ thuỷ chế viêm.
Trường hợp sau là nó tốt cho toàn cách cục, là điều hậu cấp tính, không có nó thì nguyên mệnh cách cục không thể cao cho dù có đủ mọi cách tốt như quan sát ấn tương sinh, thương thực chế sát, sát kình giao nhau.. Điều hậu này chỉ áp dụng cho mùa hạ và mùa đông, nguyên do thuỷ hoả là khởi nguyên, manh tính cực đoan. Mùa xuân, thu thì cơ bản không cần dùng điều hậu, mặc dù vào tháng Dần khí hậu chưa hết hàn, cần Bính Hoả.
Trường hợp đầu tiên là Phép xem nhật can dựa vào nguyệt lệnh, phân chia ra hỷ kị thập can thấu ra mà định. Lý luận Nhật can là ta, thế nên dạng điều hậu này làm nhật can dễ chịu, dễ thành công hơn. Dạng điều hậu này phân tích rất sâu vào thập can hỷ kỵ, mang tính nhân văn cao.
Ví dụ: nhật can Là Bính hoả rất thích Nhâm thuỷ, thế nên trong điều kiện Bính hoả mang được các cách cục thuộc về sát cách, như sát ấn tương sinh, thực thần chế sát,... Thì người mang nhật can Bính hoả dễ chịu hơn, hài lòng hơn. Nhưng điều này không có nghĩa họ không thể gánh các cách cục khác như thương thực sinh tài, thương quan bội ấn, tài vượng sinh quan, đơn giản nếu họ không mang được sát thì không bao giờ hài lòng với thành quả của mình, đôi khi việc này trở thành tham vọng, nhưng lại trở thành tham vọng thái quá dẫn đến cô khổ cả đời, vì nhật can ở trạng thái không dễ chịu.
Dư thị điều hậu với quan điểm là nhìn từ tâm con người mà ra. Còn điều hậu dụng thần thuỷ hoả là quan sát từ xã hội về phía con người. Nhật can là ta, nguyệt lệnh là người.
ví dụ: canh kim tháng 6 đinh dẫn giáp. Tháng 6 là mùi thổ, thuộc ấn cách, thấu Đinh thành cách quan ấn tương sinh, ấn nhiều cần Giáp mộc sinh Đinh mà hợp kỷ thổ, thành tài quan ấn tam kỳ toàn. Khí số thực ra cũng là cách cục, nhưng là cách cục phù hợp nhất với từng loại nhật can. Khi được làm công việc phù hợp thì dễ thăng tiến hơn, dễ thành công hơn.
Các sách như TBCT hay TTT không hề đề cập đến dư thị điều hậu dụng thần, vì họ chú trọng đến thành quả, xã hội không quan tâm anh nghĩ gì, mà chỉ quan tâm anh làm được gì.
Lần sửa cuối bởi sherly, ngày 30-07-18 lúc 20:12.
Tạo này theo thiển kiến của em thì là thân sát lưỡng đình nên là quý mệnh. Tứ quý Bính hỏa hỷ Nhâm thủy, nhưng trong trụ 2 Nhâm lộ lên lại có Tý-Thìn trợ lực, chúng sát xương cuồng. Nhưng hay ở chỗ Tý bị Mùi chế, Thìn thu bớt hỏa khí của Ngọ, Nhâm ở niên can bị hợp mất 1 còn 1 ở thời can lại thu liễm vào Thìn, nên cách cục được thanh thuần. Hành vận bất kể ngũ hành, chỉ cần duy trì thế cân bằng giữa Nhâm và Bính thì đều là hảo vận.
Thiên can là dụng thần, người có xuất thân, gia thế tốt được trợ lực, hưởng tổ nghiệp
Địa chi là dụng thần, người có căn cơ lớn, đến thời có thể vẫy vùng
Chi là gốc, can là ngọn. Tử bình giờ quá xôi thịt, cứ nhìn thấy thiên can là dụng thần là xem phú quý, liệu có đúng chăng?
Đúng, không sai. Ta thấy nhiều người sinh ra chỉ để đi lùi về vạch đích, có một xuất thân tốt dù gì cũng thích hơn sinh ra trong gia đình nghèo khó.
Dụng thần có cả ở thiên can và địa chi là tốt nhất, thể hiện xuất thân tốt và căn cơ cũng tốt.
Nhìn ngọn mà không được quên gốc, manh phái họ chú trọng địa chi mà ít xem thiên can, xem chữ nào đắc dụng (bộ thần, tạo công tùy cách hiểu) mà định năng lượng (thứ tầng). Đây mới có nghĩa là tận lực tri mệnh.
Địa chi, là gốc của thiên can, là cái căn cơ mà phải đề cao hơn cả.
Có câu chuyện, 1 ông quan lớn và 1 anh thợ rèn sinh ra cùng bát tự, ông quan sinh trên thuyền , còn anh thợ rèn sinh ra gần lò lửa, bát tự dụng thủy nên cả 2 người khác nhau. Nhìn từ góc độ thiên can và địa chi, thì thấy ngay dụng thần của 2 anh này ở thiên can. Anh sinh trong gia đình quan chức thì nối nghiệp làm quan, còn anh con ông thợ rèn thì nối nghiệp bố.
Lần sửa cuối bởi sherly, ngày 17-03-19 lúc 09:02.
Thiên can - địa chi 2 mặt của vấn đề
Thiên can chủ động, động thì có quyền sinh khắc
Địa chi chủ tĩnh, chỉ dựa vào các quan hệ hợp xung hình hại phá mà luận lực chiến của nhân nguyên
Cái đầu, biểu hiện của địa chi không rõ ràng
Tiệt cước, biểu hiện của thiên can không mạnh mẽ
Địa chi có quyền phủ quyết thiên can (hư phù, vượng tướng), thiên can là biểu hiện của nhân nguyên tàng trong địa chi.
Ngũ dương thì ham khắc không ham sinh
Ngũ âm thì chịu sinh mà không chịu khắc
Dương thì cương, âm thì nhu
Thập can muốn sinh muốn khắc thì phải có căn, dù yếu, chỉ cần không bị phá thì đều khởi huy tác dụng.
Hại
12 địa chi chia thành 6 cặp lục hại tý mùi, ngọ sửu, dần tị, thân hợi, dậu tuất, mão thìn
Tý muốn hợp sửu mà mùi xung sửu thế nên tý mùi tương hại. Vì thế tương hại khó có thể giải, hại địa chi tương hại gần nhau luôn luôn xuất hiện xung khắc nhân nguyên. Nếu tương hại là khắc kỵ thần thì là hại tốt, khắc dụng thần là hại hung, tất cả các mối quan hệ của địa chi có lợi thì luận cát, có hại thì luận là hung.
Sửu ngọ hại, kỷ thổ trong ngọ khắc quý thủy trong sửu, đinh hỏa trong ngọ sinh kỷ thổ, kỷ thổ sinh tân kim. Ý nói sửu thổ sinh kim khi có hỏa là đây.
Tý mùi hại, quý thủy trong tý khắc đinh hỏa trong mùi
Thân hợi hại, canh kim khắc giáp mộc, mậu thổ khắc nhâm thủy
Tị dần hại, giáp mộc khắc mậu thổ, canh kim khắc giáp mộc, bính hỏa khắc canh kim
Mão thìn hại, ất mộc khắc mậu thổ để quý ất hiển lộ, làm dần mão thìn tam hội mộc vượng thổ hư.
Dậu tuất hại, đinh hỏa biến tính sinh thổ, thổ sinh kim. Thân dậu tuất tam hội kim vượng hỏa thổ biến tính.
Hại giữa 2 địa chi chỉ cần cạnh nhau, không thể giải dù cho có hợp, nếu có hợp luận cùng lúc cả hợp và hại.
Manh phái đoàn gia đề cao hại, thậm chí hại chế tố công là lớn nhất trong các phương pháp tố công là vậy.
Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)