Chào mừng đến với Tử Bình diệu dụng.
Trang 8 của 8 Đầu tiênĐầu tiên ... 678
Kết quả 71 đến 79 của 79
  1. #71
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    509
    Nhân nguyên tư lệnh
    Nguyệt lệnh chứa nhiều nhân nguyên, trong mỗi tháng đều có sự phân chia khoảng thời gian nắm lệnh. Nhưng có sự không nhất quán khi phân chia thời gian này, sách trích thiên tuỷ viết khác, uyên hải tử bình viết khác và tử bình chân thuyên cũng khác. Sách dự đoán theo tứ trụ của cụ Thiệu Vỹ Hoa thì chỉ nói sơ sài về cái này, nhưng cũng có dùng, điển hình là cụ phát minh ra cách tính toán vượng nhược là dùng nhân nguyên tư lệnh để phân chia.
    Tuy nhiên nhân nguyên tư lệnh thì chắc chắn có, nhưng để nói mấy ngày A nắm lệnh, B nắm lệnh thì không thể cứ nhất nhất như vậy được.
    Một số nhà nghiên cứu mới đây cho rằng nhân nguyên tư lệnh phụ thuộc vào từng năm. Ví dụ năm dần, thì mộc khí vượng và tư lệnh nắm quyền của hành mộc trong năm dài hơn thông thường.
    Ở việt nam gặp lũ kỷ lục là vào năm 1996 bính tý, nước ngập năm 2008 Mậu Tý, và năm nay Canh tý, cũng gặp mức lũ kỷ lục, rõ ràng, thái tuế có tác động không nhỏ đến tư lệnh của các tháng. Rất nhiều trận lũ lụt lớn xảy ra vào các năm Hợi, Tý
    Điển hình của nhân nguyên tư lệnh, có thể kể đến rét nàng Bân, xảy ra vào tháng 3 âm lịch và chỉ kéo dài vài ngày. Đây trùng hợp với tháng Thìn (tháng 3), tàng Ất, Quý, Mậu, và vài ngày rét đó có thể ứng vào thời điểm Quý thuỷ hành quyền. Nhưng cũng có năm vào thời điểm đó lại không rét lắm, thì lại thường ứng vào các năm tị, ngọ (hoả vượng cả một năm). Dĩ nhiên bây giờ do biến đổi khí hậu, thiên tượng ngày càng kỳ lạ, nên tương lai có lẽ môn tứ trụ này không còn đúng nữa.
    Cùng trong một tháng tiết khí, nhưng nhân nguyên tư lệnh sẽ thể hiện khí hậu khác nhau. Ví dụ tháng sửu, quý thuỷ hành quyền thì rét và có mưa ngâu, kim hành quyền thì rét và hanh khô, thổ hành quyền thì rét “ngọt”. Người ta hay nói rét ngọt chờ xuân về, ấy là kỷ thổ tháng sửu đang hành quyền thoái khí để sang tháng Dần năm tới. Hiện vẫn chưa có một công thức định lượng chính xác ngày nào trong tháng thì ngũ hành nào nắm lệnh, thường chỉ ước lượng.
    Có một các khá hay đó là dựa vào bệnh mà đánh giá, ví dụ một người có bệnh lý về mắt, Cận thị chẳng hạn, thì đó là do Mộc yếu nhược. Hoặc bị viêm da cơ địa, thường do kim vượng, hoả vượng làm thuỷ mộc yếu nhược, da khô, can thận suy kiệt...

  2. #72
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    509
    Nguyên lưu
    Là một phần của tinh- khí - thần, cái sinh ta- ta- cái ta sinh. Nếu là nhật chủ thì kiêu ấn- ta- thương thực là tinh khí thần. Nguyên lưu càng dày phúc càng lớn, vận xấu cũng không bại hoàn toàn, ngoài ra cũng thể hiện người sống thọ.
    Đa phần dựa vào sinh hoá mà lưu thông, nhưng cũng có một số trường hợp dùng khắc, như thổ đa kim mai, dụng mộc để thổ sinh cơ, mộc đa hoả tắt, dụng kim để mộc sinh cơ.. còn lại tương tự như vậy.
    Nguyên lưu có 3 phần: Nguyên đầu- con đường lưu thông - nơi tụ khí, trong đó quan trọng nhất là nơi khí tụ, vững chãi như thái sơn thì cực cát, hình xung khí tán thì bình thường, gọi là hữu danh mà vô thực.
    Cũng có một dạng khác hiếm hơn, đó là không rõ nguyên đầu, cũng không rõ nơi thu cục, bát tự dạng này là hiếm nhất và là trạng thái vô cùng tốt, khí không quá vượng nhưng dồi dào.
    Nguyên lưu sẽ chạy theo hướng can chi cùng 1 trụ, hoặc chi cạnh nhau, can cạnh nhau, nếu gặp thần gây trở ngại thì bệnh ở thập thần đó, có thần khác khắc khử nó đi thì cát ở mặt đó.
    Dĩ nhiên nguyên lưu nó cũng chỉ nắm một phần trong các cách luận mệnh, chủ yếu là phần Thông Quan. Mà tứ trụ thì bao gồm ba phần, trung hoà cân bằng, điều hậu và Thông Quan. Có nguyên lưu tốt là đã được 1/3 mệnh hoàn mỹ, thêm nhiệt độ hàn noãn táo thấp phù hợp, dụng thần vượng suy có lực thì không thể không phú quý, đạt cả Ngũ Phúc.
    Nghiệm lý riêng, qua một vài trường hợp, tôi nhận thấy người nào mang bát tự có nguyên lưu dài, đạt cách thì thường có Phúc lớn, làm gì cũng nhẹ nhàng, Ứng với nhân tướng là có Tai đẹp (chủ phúc thọ). Bát tự có dụng thần cân bằng mạnh mà thêm nguyên lưu nữa thì đúng là như gấm thêm hoa, làm một mà ăn mười, phú quý dễ như trở bàn tay. Vì nó chỉ chiếm phần thông quan, nên nếu chỉ dựa vào nguyên lưu nói người này không thể phú quý là không đúng. Tứ trụ quan trọng nhất là dụng thần cân bằng, đây mới là cái để xem Phú quý ở đời. Ví dụ như mấy siêu sao bóng đá, danh tiếng, tiền bạc thì không thiếu, tuy nhiên họ phải rất vất vả nỗ lực luyện tập mới đạt được điều đó. Đó là dụng thần cân bằng thì tốt nhưng lưu thông kém vậy.
    Lần sửa cuối bởi sherly, ngày 16-11-20 lúc 23:08.

  3. Cảm ơn bởi:


  4. #73
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    509
    Bát tự thế nào thì lấy chồng/vợ muộn
    Có nhiều tiêu chí, sau đây là tiêu chí điển hình
    Tài tinh/quan tinh ở xa nhật can, nếu ở gần như toạ chi ngày, rất dễ tảo hôn. Nếu ở nguyệt can, thời can thì sẽ kết hôn trong khoảng 20-30 tuổi, nếu nguyệt chi- thời chi dễ kết hôn ở độ ngoài 30 tuổi, duy nếu ở năm- đặc biệt là chi năm thường cưới rất muộn, có thể ngoài 40 tuổi, khó duyên.
    Vd: nữ sinh ngày 4/11/1933 giờ sửu
    Quý dậu- nhâm tuất- giáp tuất- ất sửu
    Quý hợi/giáp tý/ất sửu/bính dần/đinh mão/kỷ tị/canh ngọ
    Giáp mộc lấy dậu kim là phu tinh, cách xa nhật can, chi ngày gặp hình, thêm đại vận đến hơn 70 năm cũng không gặp quan tinh. Nên cả đời không lấy chồng, sống độc thân đến lúc mất.

    Khôn: giáp thìn- nhâm thân- mậu ngọ- kỷ mùi
    Mậu thổ lấy giáp mộc làm phu tinh, cung phu thê gặp hợp, giáp mộc lại ở trụ năm thêm đại vận đến 55 tuổi mới gặp đất mộc thì còn chồng con gì đây?

    Khôn: đinh mùi- bính ngọ- quý dậu- nhâm tý
    Quý thuỷ lấy mùi thổ làm phu tinh, nằm chi năm cách xa nhật can, cũng là mệnh độc thân điển hình, tuy nhiên kỷ thổ tàng trong mùi, gặp vận dẫn xuất cũng có thể kết hôn, nhưng sau đó lại ly hôn và không tái giá.

    Khôn: tân mão- tân sửu- bính thìn- giáp ngọ
    Nhâm dần/quý mão/giáp thìn/ất tị/ bính ngọ
    Bính hoả lấy nhâm quý làm phu tinh, thuỷ tàng trong sửu-thìn, hành vận dẫn xuất có thể kết hôn, tuy nhiên nhâm quý đại vận lại thấu xuất khi tuổi đời còn quá trẻ, tuổi kết hôn lại hành đất nghịch hành, cho nên cả đời cũng chẳng có hôn nhân, về hưu sống độc thân.

    Càn: nhâm tý- mậu thân- tân mùi- bính thân
    Tân kim lấy mộc làm thê tinh, toạ ngày nhưng chỉ là dư khí, cần dẫn xuất mới có thể kết hôn, hành vận đến 55 tuổi mới đến mộc vận, cũng là số độc thân.

    *** mệnh có người phối ngẫu ngoại tình
    Dấu hiệu kinh điển của việc này là phu thê cung (chi ngày) gặp đất tam hợp, bán hợp, ở trong điều kiện bổ trợ thêm các sao đào hoa, hồng diễm thì càng chắc. Có người cho rằng chi ngày gặp lục hợp là phối ngẫu ngoại tình là không đúng, dạng bát tự có lục hợp thế này là một dấu hiệu của việc khó có hôn nhân, và một khi đã có thì vô cùng bền vững, nếu tốt thì phu xướng phụ tuỳ, nếu xấu thì dày vò nhau cả đời.
    Càn: ất tị- đinh hợi- kỷ mão- tân mùi
    Chi ngày mão mộc, gặp tam hợp hợi mão mùi chủ về vợ ngoại tình

    Càn: giáp thìn-mậu thìn-quý mão- kỷ mùi
    Mão mùi thê cung bán hợp mùi, là số có vợ đi ngoại tình.

    ***xem phối ngẫu ít tuổi hay nhiều tuổi hơn mình.
    Chủ yếu là xem sự chênh lệnh của vượng suy phu thê tinh và nhật can. Thân vượng hơn tài quan thì phối ngẫu nhỏ tuổi hơn, thân suy hơn tài quan thì phối ngẫu nhiều tuổi hơn.nếu càng cân bằng thì độ tuổi chênh lệch không có lớn, có thể ngang tuổi nhau.
    Càn tạo:
    Bính thìn- canh tý- kỷ dậu- Kỷ tị
    Kỷ thổ sinh tháng tý thất lệnh, giờ có tị hoả hợp dậu kim, tị hoả biến tính, lực sinh thổ yếu, thìn thổ ở năm hợp tý thuỷ, lại gặp kim sinh, cho nên thân nhược mà tài vượng, lấy vợ hơn 8 tuổi.
    Khôn
    Nhâm dần- quý sửu- tân hợi- kỷ hợi
    Hợi hợi tự hình mà động thuỷ cực vượng, kim khí bị tiết quá nhiều, mừng nhâm toạ dần mộc, tháng sửu mộc hoả đều tiến khí, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc ám sinh hoả, thân càng nhược tài quan càng vượng. Lấy chồng hơn mấy chục tuổi.

    ***bát tự được nhờ vợ-chồng, hôn nhân tốt đẹp
    Xem về thể dụng, chi ngày tốt đẹp là hôn nhân tốt đẹp.

    Càn tạo: mậu thân- canh thân- quý sửu- nhâm tý
    Tý sửu hợp , sửu thổ biến tính, sinh kim trợ thuỷ, toàn cục thể tượng là hướng đến thuần tuý, chi ngày trợ thể, cho nên nhờ vợ nhiều, mà hôn nhân lại bền vững vì chi ngày gặp lục hợp.

    Khôn tạo: Giáp dần- canh ngọ- quý tị- ất mão
    Nguyên cục, hoả nắm lệnh, mộc lại sinh hoả khắc canh kim, thể tượng hướng đến thuần tuý, chi ngày hoả là dụng, hôn nhân rất tốt đẹp

    Càn tạo: bính ngọ- quý tị- quý tị- mậu ngọ
    Quý mậu hợp hoá hoả, lấy hoá thần làm thể tượng, chi ngày trợ hoá, không tranh không phá cho nên hôn nhân rất tốt đẹp
    Lần sửa cuối bởi sherly, ngày 03-01-21 lúc 21:17.

  5. #74
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    509
    Viết nhầm...........
    Lần sửa cuối bởi sherly, ngày 07-02-21 lúc 22:43. Lý do: Viết nhầm

  6. Cảm ơn bởi:


  7. #75
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    509
    Số thế nào thì có quý nhân phù trợ?
    Theo lẽ thường, quý nhân là những người giúp đỡ mình, và thực tế đã chứng minh rằng không có người thành công nào mà không có quý nhân cả, nó cũng liên quan trực tiếp đến bố cục của bát tự.
    Các sao thiên ất quý nhân, thái cực quý nhân, thiên nguyệt đức quý nhân chỉ mang tính chất bổ trợ, phần lớn là mang tính cách chủ quan của người đó chứ không mang nghĩa quý nhân (người giúp đỡ). Sách xưa luận nữ mệnh mà nhiều thiên ất quý nhân là mệnh tiện, thực chất là nữ mà mang nhiều thiên ất thì mệnh giao tiếp nhiều, thích lãnh đạo người khác, không chịu tam tòng tứ đức, không hợp với xã hội xưa chứ hoàn toàn không phải Thiên ất quý nhân là..nam nhân, có nhiều thiên ất quý nhân tức có nhiều nam nhân nên tiện, chỉ có 8 chữ- 4 địa chi, vậy tối đa 4 thiên ất, vậy chỉ tối đa có 4...nam nhân thôi chăng?
    Để xem quý nhân, phải nhìn bố cục bát tự, nếu các vị trí sau mà có dụng (thể dụng) thì quý nhân rất hữu lực, đó là can tháng, can giờ và chi ngày, đó là các vị trí gần nhật can nhất, xa hơn là can năm, chi tháng, chi giờ và xa nhất là chi năm. Nếu dụng không có, hoặc có nhưng bị phá mất, thì số không có quý nhân giúp đỡ, gian nan vất vả, 1 việc chẳng thành. Dụng ở chi ngày là tốt nhất, là gần nhật can nhất, thực tế chỉ ra rất rất nhiều vị tỷ phú lớn đều nhờ...vợ, vợ là quý nhân của họ, đó là chi ngày hữu dụng vậy. Nếu chi năm-bằng cách nào đó hữu dụng thì cũng thể hiện người đó được hưởng âm đức (chi năm là đại diện tổ tiên- là cung phúc), người này rất may mắn, đôi khi đạt được thành công một cách kỳ lạ.

    Càn: giáp tý- mậu thìn- canh thân- nhâm ngọ
    Luận theo thuyết xưa, tam kỳ quý nhân hẳn là trí tuệ siêu quần, công danh rường cột quốc gia. Nhưng thực tế đây chỉ là người bình thường, hình thê khắc tử, cổ khổ bần hàn.
    Canh kim sinh tháng thìn thuộc mùa xuân, là kim tử địa, tháng thấu mậu gặp giáp chế khắc, chi toạ thân kim gặp hợp cục theo thuỷ, giờ cũng vô dụng, phản trợ thành tiết hao, toàn cục không một chữ nào hữu dụng, cho nên sống cuộc đời không ai giúp đỡ, trồi sụt thất thường.

    Càn: mậu tý- quý hợi- quý sửu- giáp dần
    Quý thuỷ sinh tháng hợi, chi toàn hợi tý sửu thuỷ dĩ nhiên cường thế, thuận thế hoá tiết, trụ giờ gặp Giáp dần là thương quan thông căn có lực, mậu thổ trụ năm hợp quý thuỷ trụ tháng cũng minh chứng được người có địa vị đề bạt, số này hành vận thuận, cho nên được cả người làm quan cao lẫn người dưới quyền ủng hộ mà thăng chức. Thế mới thấy, quý nhân thật quan trọng. Số không có quý nhân, làm gì cũng bị ghét thì sớm muộn gì cũng bại nhục tổ nghiệp, danh lợi vô thành lại còn hay gặp hung hoạ.

    MC lại văn sâm:
    Đinh dậu- bính ngọ- quý sửu-?
    MC tôi yêu quý nhất việt nam, đọc tiểu sử thì thấy chú Sâm khi chưa tới vận sự nghiệp cũng khá trồi sụt lao đao, nhưng có một điểm là nhờ vợ rất nhiều, vợ chú ấy luôn đứng sau chu toàn mọi việc. Có thời điểm chú Sâm thất nghiệp phải ở nhà vợ nuôi, công việc chỉ là phiên dịch cho khách Nga khi đến mua hàng nhà bố mẹ vợ.
    Đó là vì chi ngày sửu thổ, là thổ ẩm, hối hoả tích thuỷ dưỡng kim.
    Về sau này, vào vận thuỷ địa nên sự nghiệp lên như diều gặp gió, chiếm được cảm tình của rất nhiều người dân việt nam.
    Lần sửa cuối bởi sherly, ngày 05-01-21 lúc 02:50.

  8. Cảm ơn bởi:


  9. #76
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    509
    Bát tự không có tài, có thể giàu có không?
    Sách cụ thiệu vỹ hoa cho rằng bát tự dạng này là mệnh thầy tu, nếu may mắn thì cũng chỉ phát trong vận tài, qua đó thì hết.
    Thực tế một mệnh bàn tứ trụ không thể có đủ hết tất cả các hành (tính cả âm dương), mệnh cục lấy dụng thần để luận thành tựu, lấy nhật chủ cùng nguyệt lệnh để định dụng thần.
    Mệnh cục vô tài mà giàu có, thì thường mệnh cục đó thuộc dạng thuần tuý, tòng vượng, tài là kị thần, hoặc dụng thần là ấn tinh (tài tinh khắc ấn). Nói chung, chỉ cần tài tinh không tranh đố với dụng thần thì chắc chắn mệnh cục đó có phúc về tiền bạc, dụng thần tại ấn, vô tài hoặc tài sinh quan, hoặc tài tinh gặp chế là tốt. Đây là sự khắc kỵ của dụng thần. Tôi nhớ có bài ghi về phần này rồi.
    Dụng quan sợ thương
    Dụng tài sợ kiếp
    Dụng ấn sợ tài
    Vd: mậu thân- ất mão- mậu dần- đinh tị
    Xuân thổ dụng thần là ở hoả, mậu thổ lấy thuỷ làm tài, tài tinh ẩn sâu trong thân kim, lại gặp dần mộc xung tán, cho nên không có lực mà tranh đố với hoả. Đinh hoả toạ kình dương, cho nên tài ấn không phá nhau, thêm vận hành nam phương cho nên phát giàu có.

    Đinh mùi- canh tuất- kỷ mùi- mậu thìn
    Kỷ thổ sinh vào mùa thu, thể khí hưu tù, lại thấu canh kim cho nên dụng thần ở đinh hoả. Nguyên cục lấy thuỷ làm tài, ẩn sâu trong thìn, gặp tuất xung chế, cho nên tài ấn không phá nhau, âm nam vận chuyển nam phương hoả địa, phát tài giàu có, tài sản có trên 5 triệu $.

    Nhìn chung bát tự dụng thần ở ấn, mà tứ trụ tài tinh không tranh đố thường làm giàu bằng bất động sản.

    Manh phái có chia ra phần luận chuyên về tài mệnh.
    Lộc làm tài, thực thương làm tài, và quan sát làm tài.
    Đây là hệ quả tất yếu của mối quan hệ dụng thần và tài tinh.
    Khi tài tinh quá nhiều, quá vượng, dụng thần ở tỷ kiếp (lộc thần) trợ thân khắc tài, mặc dù có thể phát tài, nhưng loại này rất khổ cực vất vả.

    Khi dụng thần ở tài, gặp kiếp hỗn thì lấy thực thương thông quan xem làm tài tinh, thực thương hoá kiếp sinh tài, kiểu làm giàu này như mở công ty, xí nghiệp, dùng trí lực đầu tư cầu tài, loại này không mệt mỏi thể xác như ở trên mà mệt về tinh thần.

    Khi dụng thần ở ấn, gặp tài hỗn lấy quan sát sinh ấn xem làm tài tinh, tài quan ấn tam kỳ toàn, loại này thì kiếm tiền lại rất nhàn, dễ dàng nhất (manh phái cho rằng quan sát làm tài là tài phú lớn nhất), mệnh cục dạng này là mệnh cục số hưởng, hay gặp may mắn về tiền mà không vất vả.

    Còn trường hợp khác, là dụng thần ở quan, mà gặp thương quan, lấy chính tài tinh để xem về tài mệnh, loại này thì tài vận bình thường, làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, không có gì đột phá.
    Lần sửa cuối bởi sherly, ngày 06-02-21 lúc 21:24.

  10. Cảm ơn bởi:


  11. #77
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    3,610
    MC lại văn sâm:
    Đinh dậu- bính ngọ- quý sửu-?
    MC tôi yêu quý nhất việt nam, đọc tiểu sử thì thấy chú Sâm khi chưa tới vận sự nghiệp cũng khá trồi sụt lao đao, nhưng có một điểm là nhờ vợ rất nhiều, vợ chú ấy luôn đứng sau chu toàn mọi việc. Có thời điểm chú Sâm thất nghiệp phải ở nhà vợ nuôi, công việc chỉ là phiên dịch cho khách Nga khi đến mua hàng nhà bố mẹ vợ.
    Đó là vì chi ngày sửu thổ, là thổ ẩm, hối hoả tích thuỷ dưỡng kim.
    Về sau này, vào vận thuỷ địa nên sự nghiệp lên như diều gặp gió, chiếm được cảm tình của rất nhiều người dân việt nam.
    Mệnh tạo trên cho thấy rõ có khuynh hướng Hỏa Tài vượng, bình thường là mệnh kinh doanh. Nhưng lại không kinh doanh mà có tiếng tăm trong xã hội, vậy phải là hỉ Ấn tinh là chính. Tài dụng Ấn, ở đây là Bính hợp Tân, gián tiếp làm thân trở nên mạnh, có ý chí và tài năng xuất hiện. Vận Tân Sửu là điển hình.

    Thêm một nhận xét về Tài tinh vượng dụng thần, thân nhược trong tứ trụ. Hỉ gặp Ấn tinh là như vậy.
    bi - trí - dũng

  12. #78
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    509
    Cương nhu
    Xuân mộc, hạ hoả, thu kim, đông thuỷ thể khí thái vượng, nguyên cục không có khắc chế mới lấy thực thần tú khí làm dụng thần, thực thần đắc lực tự sinh tài, gọi là lấy không thành có.
    Xuân thổ, hạ kim, thu mộc, đông hoả thể khí suy tuyệt, nguyên cục không có kiếp ấn trợ giúp, lấy thực thần chế sát, sát có chế sinh ấn, là tìm kiếm giả dối.
    Thuận lý thì dễ thấy, biến lý thì khó tìm là đạo cương nhu.

    Tân dậu- đinh dậu- ất mùi- đinh sửu
    Thu mộc thể khí điêu linh, nguyên cục vô thuỷ, dụng thần ở đinh hoả khắc chế sát tinh cường vượng, hiềm đinh toạ sửu thổ, hối hoả sinh kim, lại xung mùi làm căn mộc hoả tản mát. Cho nên công danh chẳng thành, hành tị vận tam hợp kim cục, gặp nạn mà chết.

    Mậu thìn- kỷ dậu- ất hợi- giáp thân
    Thu mộc như mệnh trên, nhưng toạ hợi, dụng thần ở giáp mộc trường sinh, thân kim là trọc khí, hành thuỷ vận thi đỗ liên tục đầu bảng, về sau hành mộc vận làm quan bình an. Hành vận nên khắc trọc phù trợ dụng thần là như thế.

    Diêm tích sơn:
    Quý mùi- tân dậu- ất dậu- đinh sửu
    Khác mệnh ở chỗ mùi ở xa, sửu không thể xung tán khí mộc hoả. Hành vận hoả địa nắm quyền, nhưng đến tị vận không tránh khỏi trắc trở, những năm 1927 đến 1931 5 năm tị vận bại trận trước quân của tưởng giới thạch, may chạy trốn được, về sau hành vận mộc về đài loan sống và chết ở đó, không gặp sóng gió chỉ có điều quyền lực không còn, cuối đời làm bạn với thơ văn và triết học
    Chỉ khác vị trí gần xa của sửu mùi mà cuộc đời nó khác nhau đến như vậy.
    Lần sửa cuối bởi sherly, ngày 17-02-21 lúc 23:20.

  13. #79
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    509
    Hỷ dụng thần tốt nhất toạ ngày giờ.
    Ngày giờ là Môn Hộ, là gia cảnh lúc về già.
    Vd:
    Nhâm thân- bính ngọ- nhâm ngọ- bính ngọ
    Số này dương nam thuận vận tây bắc, tài vượng gặp tỷ kiếp thấu khắc chế, lại có tinh thần nên không khô. Số giàu có, nhưng chung thân vô thành mà thôi. Bởi vì ngày giờ là trọc khí tung hoành, cho nên vợ con đều xấu, làm nhiều rồi cũng theo gió mây bay đi mất, có tồn lại được giá trị gì đâu?

    Nhâm tuất- bính ngọ- đinh hợi- canh tý
    Số này cũng là số giàu có, nhưng lại tốt hơn mệnh trên nhiều lần, ngày giờ đều là hỷ dụng, cho nên sự nghiệp, vợ con đều tốt, về sau con cái tài giỏi, phát huy cơ nghiệp người cha. Cho nên hơn nhau là ở ngày giờ, nhiều kẻ giàu có mà con cái phá của, vợ/chồng không hạnh phúc thì đau khổ về tinh thần, thế cũng có gì là Tốt?

 

 

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •