Chào mừng đến với Tử Bình diệu dụng.
Trang 1 của 2 12 CuốiCuối
Kết quả 1 đến 10 của 15
  1. #1
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917

    Mệnh Lý Tiểu Long minh tinh màn ảnh Hồng Kong

    Mệnh Lý Tiểu Long : Giờ Thìn, ngày 27/11/1940 DL - Ngày 28/10 âm.

    Theo các bạn vì sao ở đại vận Tân Mão (33-42 tuổi), lưu niên Quý Sửu (1973) đột nhiên tử vong?

    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  2. #2
    thetantr
    Khách
    giáp sinh tháng hợi thấu canh đinh, khí số bất phàm.
    Vận dần khá giống vận mão, tại sao vận dần không tử vong mà đến vận mão mới ứng?

  3. Cảm ơn bởi:


  4. #3
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    Các bạn tham khảo thêm Link: https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD_Ti%E1%BB%83u_Long
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  5. #4
    honguyen
    Khách
    Xem ra diễn đàn cũng vắng vẻ như phố xá ngoài kia. Có câu này trên mạng "Vắng như chùa Bà Đanh xưa rồi, nay là vắng như thời Cô Vy!"

    Tôi là người mới nhập môn nên chỉ có vài nhận xét. Xin mọi người góp ý.

    Có trang của Tàu và trang http://www.phongthuymenhly.com/LasoTuTru.aspx lại tính đại vận hơi khác: Họ Lý 04 tuổi khởi vận, năm 1973 (Quý Sửu) được xếp vào đại vận Canh Dần. Những trang web này tính sai?

    Dạo này anh lesoi hay lấy các ví dụ trong bộ Cân Tương để đố mọi người nên tôi cũng tò mò đọc bộ này xem luận giải ra sao. Luận giải súc tích nhưng lại không đúng vì nhầm một chỗ rất quan trọng: nhầm năm Quý Sửu (1973) thành năm Quý Tỵ (1953). Thành ra tôi cũng hơi phân vân: rất nhiều ví dụ khác trong bộ Cân Tương (chỉ đọc hết cũng cần nhiều thời gian) không biết đúng sai thế nào? Phiền anh lesoi cho ý kiến.

    Tôi nhớ anh lesoi đã từng dịch và đưa lên diễn đàn bài "Tự bính Tự" Can Chi. Anh lesoi dẫn là của Tác giả: Nữ sĩ Lý Quân nhưng tôi không thấy trong bộ Cân Tương. Tìm trên mạng tôi thấy một số trang web nói là của dân gian. Không biết thế nào?



    Bài "Tự bính Tự" Can Chi có 04 câu ứng với bát tự của Lý Tiểu Long [Canh Thìn/ Đinh Hợi/ Giáp Tuất(Nhật nguyên) /Mậu Thìn]:

    Giáp mộc địa chi phùng Thìn Tuất,
    Lại phùng Mậu Canh đều không cát. (10 cái bát tự thì 10 cái đều sẽ phát sinh chuyện không tốt);
    Huyết quang hoạ tai sẽ không miễn,
    Xung hình hội hợp là ứng kỳ.

    Kiến thức tôi còn ít nên chưa lý giải nổi.

    Nhưng tôi để ý thấy một điểm. (Nhiều khi bài toán thêm điều kiện có thể dễ giải hơn chăng?)

    Họ Lý qua đời vào ngày 20/7/1973 nghe đâu là vào giờ Hợi. Câu hỏi đặt ra không phải là "tại sao đột tử vào năm Quý Sửu (1973)?" mà phải là "tại sao vào năm tháng ngày giờ này?"

    Đổi sang can chi đó là năm Quý Sửu, tháng Kỷ Mùi, ngày Đinh Tỵ, giờ Tân Hợi.

    Mọi người có để ý thấy: Năm mất và tháng mất thiên khắc địa xung, ngày mất và giờ mất thiên khắc địa xung.

    Mời mọi người cho ý kiến!

  6. #5
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Đang ở
    Hà Nam
    Bài viết
    1,706
    Sách mệnh lý TQ trên mạng thường có nhiều sai sót, một phần do sự nhầm lẫn của chính tác giả, phần nhiều do người chia sẽ không có tâm làm sai lệch nguyên bản. Đây cũng là chỗ khó của những người dịch thuật sách Tử Bình, vừa phải dịch chính xác nội dung vừa phải kiểm tra sự kiện, soi chiếu ngày tháng, thấm nhuần cách luận... để cho ra một bản dịch hoàn chỉnh, có giá trị tham khảo. Những sách đăng trên Kimtubinh, anh Lesoi và các dịch giả đều đã có gắng hết sức mình vì điều này.

    Sách Cân tương dẫn chiếu ví dụ mệnh Lý Tử Long, luận giải lưu niên Quý Tị thiên khắc địa xung với trụ tháng, vận Tân Mão sinh khắc trực tiếp với Nhật chủ dẫn tới ứng kỳ LTT mất mạng, quả thực là thiếu sót. Chỗ này Cân quyết có 2 câu cuối rất có giá trị, chắc honguyen đã đọc qua:

    "Giáp Tuất Thương quan khố Hà Khôi,
    Mã nhập thảo nguyên Ngọc Nữ quý"

    Hà Khôi chỉ Tuất khố của Thương quan. Gặp Mã (Ngọ), Ngọc Nữ (Đinh hỏa) đều quý. Vận dụng Cân quyết với mệnh LTL thì điểm mấu chốt sinh tử là ở chữ Tuất. Trong mệnh Tuất bị 2 Thìn xung đã là điểm bất lợi, ngoài ra trong Tuất có tàng Tân, Đinh, mâu thuẫn giữa Quan và Thương quan phát sinh trong chính nội tại, chỉ cần đúng thời điểm thì sẽ ứng kỳ. Đầu vận Tân Mão, thế lực của Tân nổi lên, khắc tiết nhật chủ, hỗn loạn Quan Sát. Đến năm Quý Sửu, Sửu hình Tuất làm giải khai mộ khố, Đinh hỏa có cơ hội trỗi dậy, lại thêm Quý thủy súc nộ tạo thành ứng kỳ.

    Về xung khắc của thời điểm năm Quý Sửu, tháng Kỷ Mùi, ngày Đinh Tỵ, giờ Tân Hợi, tôi cho là không phải, vì đây là trời đất tự nhiên, bao trùm hết mệnh số con người, chỉ ứng kỳ đến ai khi có tác động lên can chi bát tự mà thôi.
    Phản bổn quy chân

  7. #6
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Đang ở
    Hà Nam
    Bài viết
    1,706

    Smile

    Xem thêm phần nhật nguyên Giáp Tuất sinh tháng Hợi, tôi thấy có ví dụ mệnh một người mà ngày tháng năm sinh trùng với LTL, chỉ khác giờ sinh. Mạn phép anh Lesoi tôi đưa ra đây để mọi người tham khảo:

    VD 153, Càn: Giờ Mão, ngày 27/11/1940 DL (nhằm ngày 28 tháng 10 năm 1940 âm lịch).
    Càn: Canh Thìn/Đinh Hợi/Giáp Tuất/Đinh Mão.
    Vận: Mậu Tý/Kỷ Sửu/Canh Dần/Tân Mão/Nhâm Thìn/Quý Tị.
    03 tuổi khởi vận.
    "Thương quan Dương nhận ở chi giờ, thai đầu con cái tất khắc mất", mệnh chủ ở đại vận Kỷ Sửu, lưu niên Kỷ Hợi kết hôn, thai đầu sinh con trai không thành. Tạo này là một nhân viên nghiên cứu khoa học, lưu niên Mậu Thìn, đại vận Nhâm Thìn, bản thân vì tai nạn xe cộ liệt nửa người. Tiêu chí tai nạn xe cộ rõ ràng nhất đó là Giáp, Mậu, Canh, Thìn, Tuất, Dần, Thân xung khắc.

    Mệnh này không theo võ nghiệp, không phát sinh sự kiện năm Quý Sửu, vận Tân Mão, mà sang vận Nhâm Thìn mới có chuyện. Mấu chốt là ở đâu nhỉ?
    Phản bổn quy chân

  8. Cảm ơn bởi:


  9. #7
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    Trích dẫn Gửi bởi honguyen:
    Dạo này anh lesoi hay lấy các ví dụ trong bộ Cân Tương để đố mọi người nên tôi cũng tò mò đọc bộ này xem luận giải ra sao. Luận giải súc tích nhưng lại không đúng vì nhầm một chỗ rất quan trọng: nhầm năm Quý Sửu (1973) thành năm Quý Tỵ (1953). Thành ra tôi cũng hơi phân vân: rất nhiều ví dụ khác trong bộ Cân Tương (chỉ đọc hết cũng cần nhiều thời gian) không biết đúng sai thế nào? Phiền anh lesoi cho ý kiến.
    Ngay từ đầu khi tôi gặp bạn dịch lời thơ Cân tương của mệnh Lưu Cơ tôi đã biết bạn như thế nào rồi? Rất có duyên khi gặp bạn.
    Trước hết là tôi muốn nói với bạn là không phải là tôi "Đố" các bạn, mà là tôi muốn các bạn cho ý kiến về mệnh lý để tôi trắc nghiệm thêm sự giải đoán của tác giả trong Quyết Cân tương để mà nghiệm lý; việc thứ hai, đó là bạn nhìn thấy một số sai lầm trong quyển sách mà tác giả đã bàn giải (như chỗ gạch dưới chữ màu đỏ mà bạn đã nêu), rất hoan nghênh bạn đọc góp ý. Trong sách rất nhiều chỗ ghi nhầm lẫn, tôi đã phải chỉnh lý lại nhiều, nhất là ngày tháng năm sinh bát tự ở các ví dụ.

    Tôi nhớ anh lesoi đã từng dịch và đưa lên diễn đàn bài "Tự bính Tự" Can Chi. Anh lesoi dẫn là của Tác giả: Nữ sĩ Lý Quân nhưng tôi không thấy trong bộ Cân Tương. Tìm trên mạng tôi thấy một số trang web nói là của dân gian. Không biết thế nào?
    Ở đề tài mang tên "Tự bính Tự" có nhiều tác giả, trong đó có tác giả Vương Khánh, Phan Hữu Chiêu... và nhiều tác giả khác bình luận về đề tài này. Còn nguyên tác "Tự bính Tự" chính là Quyết Cân tương của nữ sĩ Lý Quân.
    Tôi biết bạn am hiểu về Tử Bình kể cả dịch thuật, cho nên nếu bạn tham gia bình luận đề tài này tôi rất hoan nghênh.

    Còn câu hỏi này:
    Họ Lý qua đời vào ngày 20/7/1973 nghe đâu là vào giờ Hợi. Câu hỏi đặt ra không phải là "tại sao đột tử vào năm Quý Sửu (1973)?" mà phải là "tại sao vào năm tháng ngày giờ này?"

    Đổi sang can chi đó là năm Quý Sửu, tháng Kỷ Mùi, ngày Đinh Tỵ, giờ Tân Hợi.

    Mọi người có để ý thấy: Năm mất và tháng mất thiên khắc địa xung, ngày mất và giờ mất thiên khắc địa xung.
    Theo tôi sách Cân tương đã có từ lâu đời, đa số là các ví dụ thời xưa. Còn khi viết sách lại là con cháu ba đời (Lý Quân) viết ra, có đưa các ví dụ hiện đại vào sách và bình chú theo Quyết khiếu. Chúng ta cần phải có thời gian tra cứu thêm, vì đây chỉ là ý kiến riêng của Lý Quân chứ không phải của tiền nhân để lại.
    Muốn học Cân quyết, đòi hỏi người dịch kể cả người học phải trải qua hiểu biết mệnh lý mới có thể nắm được vài phần vì nó quá sâu sắc trong đạo lý ứng dụng.
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  10. Cảm ơn bởi:


  11. #8
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    5,917
    Trích dẫn Gửi bởi TM:

    Mệnh này không theo võ nghiệp, không phát sinh sự kiện năm Quý Sửu, vận Tân Mão, mà sang vận Nhâm Thìn mới có chuyện. Mấu chốt là ở đâu nhỉ?
    Mấu chốt đều nằm ở câu thơ này: "Mã nhập thảo nguyên Ngọc Nữ quý", TM!
    Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
    Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.


  12. #9
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Đang ở
    Hà Nam
    Bài viết
    1,706
    Trích dẫn Gửi bởi lesoi Xem bài viết
    Mấu chốt đều nằm ở câu thơ này: "Mã nhập thảo nguyên Ngọc Nữ quý", TM!
    Đúng vậy anh! Như vậy mới thấy mỗi câu Cân quyết đều có giá trị. Đinh hỏa nguồn sinh là "quý" rồi.
    Phản bổn quy chân

  13. #10
    thetantr
    Khách
    sách in giấy mà nhiều lỗi


  14. Cảm ơn bởi:


 

 

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •