Chào mừng đến với Tử Bình diệu dụng.
Trang 1 của 2 12 CuốiCuối
Kết quả 1 đến 10 của 14
  1. #1
    lang_tu
    Khách

    Thế nào là cách cục " Tòng" trong mệnh lý Tứ Trụ !!! ( by Thiện Minh)

    Hiện nay trong giới nghiên cứu mệnh lý tứ trụ đang dấy động lên phong trào “bình loạn” các loại hình cách cục, dụng thần, thân vượng hặc thân suy....v..v...
    Các cách sở “tòng” trong giới mệnh lý Tứ Trụ hiện nay còn nhiều điều bất cập, vì vậy hôm nay Thiện Minh lập nên topic này cùng các bạn phân tích vấn đề này.

    Để định hình các cách sở tòng cần phải có các điều kiện sau:

    1. Nhật can vô căn, vô trợ.
    _Nhật can vô trợ không có Tỷ Kiên hoặc Kiếp Tài trợ lực, thân mệnh thuộc thân cô không có sự hổ trợ.
    _Nhật can vô căn không có Chính Ấn, hoặc Thiên Ấn làm nguồn căn, thân mệnh thuộc thế cô không có điểm tựa.

    2. Trong mệnh cục xuất hiện một hành chuyên vượng và chuyên chế nhật can.
    _Nếu trong mệnh cục xuất hiện Chánh Quan, hoặc Thiên Quan cường vượng, buộc lòng thân mệnh phải tòng Quan Sát Cách.
    _Nếu trong mệnh cục xuất hiện Chánh Tài hoặc Thiên Tài cường vượng, buộc lòng thân mệnh phải tòng Tài Cách.
    _Nếu trong mệnh cục xuất hiện Thực Thần hoặc Thương Quan cường vượng, buộc lòng thân mệnh phải tòng Thực Thương Cách.

    3. Trong mệnh cục không xuất hiện thế đối lập tương chế hành chuyên vượng.
    _Trong cách Tòng Quan Sát không có Thực Thần, Thương Quan tiết chế lại, thì cách cục này được sếp là chân cách, chủ phát quan quyền hiển hách.
    _Trong cánh Tòng Tài không có Tỷ Kiên, Kiếp Tài tiết chế lại, thì cách cục này được sếp là chân cách, chủ phát đại phú.
    _Trong cách Tòng Thực Thương không có Chính Ấn hoặc Thiên Ấn tiết chế lại, thì cách cục này được sếp là chân cách, chủ phát nhất nghệ tinh nhất thân vinh.

    Qua ba điều kiện trên ta thấy không hề tồn tại cách cục “Tòng Ấn” vì theo nguyên lý khi mệnh vô căn vô trợ, xuất thân trong gia đình nghèo hèn ra đời lập nghiệp lại vô thế không người trợ giúp. Nhưng do bản thân cố gắng nỗ lực hơn sức người thường, không có tinh thần ỷ lại và theo (tòng) chuyên một ngành, một nghề để bản thân về sau được phú quí vinh hoa và nỗi tiếng trong đất nước.
    Cái quí được sếp vào chân cách ở chổ tinh thần ý chí của mệnh tạo vô thế vô thân nhưng tinh thần ý chí quật cường ngày đêm cố gắng vương lên không biết mệt mỏi, vì tinh thần phi thường như thế nên cuộc đời đặc biệt được mở mang rộng sáng.

    Có thể nói một cách dể hiểu hơn:
    _Khi mệnh tạo vô thân vô thế, xuất thân trong gia đình khó khăn. Nhưng tinh thần ý chí cố gắng phi phàm từ khi bước chân vào quan trường làm lính quèn, chịu đựng tất cả mọi sự áp lực trong quan trường. Và một ngày nào đó tính nhân quả tương ứng, bản thân lập được chiến công hạng mã mà vang danh trong chốn quan trường. Đó là cách cục Tòng Quan Sát.

    _Khi mệnh tạo vô thân vô thế, xuất thân trong gia đình khó khăn, cái ăn cái mặt túng thiếu trước sau, và ra đời phải vất vả ngược xuôi mưu sinh kiếm sống. Nhưng do tinh thần khôn khéo biết phấn đấu học hỏi tìm hiểu con đường buôn bán, thương mại, biết tích lủy từ cái nhỏ sang cái lớn. Và một ngày nào đó bản thân được súc tích giàu có từ con đường kinh doanh thương mại, một bước trong đời phát thành đại phú. Đó là cách cục Tòng Tài.

    _Khi mệnh tạo vô thân vô thế, xuất thân trong gia đình nghèo khó. Nhưng từ nhỏ đã có tiềm ẩn một biệt tài kỷ nghệ, kỹ thuật, hoặc có năng khiếu về nghệ thuật, và cộng thêm tinh thần ngày đêm không ngừng nghỉ mệt mỏi rèn luyện sở trường, năng khiếu. Và một ngày nào đó trong thiên hạ được người trọng dụng, thế là có đất dụng võ phát huy sở trường năng khiếu của chính bản thân, và tiếng tăm khi ấy gần xa trong ngoài đất nước đều được vang danh. Đó là cách cục Tòng Thực Thương.

    Và củng nên lưu ý rằng cách cục sở tòng trong cuộc đời cụ thể, bản thân mệnh tạo tiền vận phải chịu nhiều sự vất vả gian truân không thấy ánh sáng mặt trời của ban mai, nhưng khi tinh thần ý chí vương lên cao độ hơn sức người thường thì mới đúng là chân cách cục sở tòng, mới xứng đáng là tấm gương cho thiên hạ ca ngợi.

    Và nên lưu ý thêm một điều khi trong mệnh cục không thể nào có tên gọi “Tòng Ấn” bởi lẻ một kẻ khi xuất thân từ điều kiện sống đàng hoàn, cơm ăn áo mặc đầy đủ, được cha mẹ thương yêu, có bạn bè thân hữu trợ giúp thì loại hình mệnh cục này cách cục sẻ có tên gọi khác, và không thể gọi là “tòng” được.

    Ngoài ra, còn có các loại hình “Giả Tòng” cách nữa, chủ phát phúc, phát huy nữa đời hoặc mức độ phát huy nổi tiếng không vang xa và rộng lớn, hoặc hình thức phát huy cuộc đời không bằng chân cách “tòng”

  2. Cảm ơn bởi:


  3. #2
    lang_tu
    Khách
    Trên thực tế, mệnh cục chân tòng rất hiếm gặp. Bởi lẻ những mệnh cục này thể hiện mệnh chân quí, chân phú, công danh sự nghiệp của họ rất phát và nổi tiếng trong xã hội đương thời (đường cuộc). Vì vậy các nhà mệnh lý xưa và nay đều sếp vào loại “kỳ cách” tức là cách cục đặc biệt.
    Song song đó tồn tại những loại mệnh cục có bố cục rất giống với “Tòng Cách” theo thời gian lưu ý và kinh nghiệm của tôi có những điểm như sau:

    1. Nhật can hữu căn, hữu trợ, nhưng vô lực.
    _Trong mệnh cục có Tỷ Kiếp trợ thân, nhưng lực vượng của Tỷ Kiếp quá suy nhược, lại bị hình xung hợp và mộ làm mất lực tương trợ thân.
    _Trong mệnh cục có Ấn Kiêu sanh thân, nhưng lực vượng của Ấn Kiêu quá mỏng, lại bị hình xung hợp hoặc mộ làm mất lực tương sanh cho thân.
    _Trong mệnh cục tuy thiên nguyên niên nguyệt thời không có Tỷ Kiếp và Ấn Kiêu, nhưng trong nhân nguyên của niên nguyệt và thời trụ thì Tỷ Kiếp hoặc Ấn Kiêu tại vị trí trung khí, tạp khí không được chiếm thế chánh khí của địa nguyên, lại thêm tình trạng tử mộ thai tuyệt đối với cương lãnh nguyệt lệnh.

    2. Trong mệnh cục xuất hiện một hành chuyên chế nhật can, nhưng tạp không thuần.
    _Nguyệt, nhật và thời chi là thần sở tòng chuyên vượng dẫn khí nguyên mạch như: tháng tị, ngày ngọ, giờ mùi, hoặc tháng dần ngày mão giờ thìn..v.v...
    _Niên, nguyệt cùng nhật chi là thần sở tòng chuyên vượng dẫn khí nguyên mạch như : năm hợi tháng tí ngày sữu, hoặc năm thân tháng dậu ngày tuất..v.v.....
    _Hoặc niên và nguyệt chi là thần sở tòng chuyên vượng dẫn khí cộng thêm nhật hoặc thời chi trùng hành khí chuyên vượng như : năm hợi tháng hợi, ngày tí, hoặc là năm hợi tháng hợi và giờ tí..v.v...
    _Củng như các trường hợp trên, nhưng thiên nguyên tại niên nguyệt hoặc thời trụ trùng hành khí sở tòng nhưng tạp âm dương không thuần.

    3. Có hành đối lập chuyên chế sở tòng, nhưng vô lực không đủ vượng.
    _Trong mệnh cục tòng Quan Sát, nếu xuất hiện Thực Thương chuyên chế lại nhưng lực của Thực Thương không đủ độ mạnh.
    _Trong mệnh cục tòng Tài, nếu xuất hiện Tỷ Kiếp chuyên chế lại nhưng lực của Tỷ Kiếp không đủ độ mạnh.
    _Trong mệnh cục tòng Thực Thương, nếu xuất hiện Ấn Kiêu chuyên chế lại nhưng lực của Ấn Kiêu không đủ độ mạnh.

    Tính chất mệnh cục “giả tòng” này trên thực tế khả năng phát huy về mặt hình thức hay mức độ không kém gì mệnh cục “chân tòng” chỉ kém hơn mệnh cục “chân tòng” khoảng độ hai ba phần. Và thời gian phát huy đường vận phú quí có nhất định giới hạn, bởi lẻ khi gặp vận tái phục tạp thần sở tòng, hoặc gặp vận chuyên chế thần tòng, hoặc ngộ phải khu vực địa lý khơi nguồn lực lương chuyên chế thần tòng, lập tức mệnh cục trở lại bình thường cách, không khác gì thường dân trong xã hội.

    Và củng nên lưu ý rằng trong mệnh cục không hề tồn tại “giả tòng ấn” cách, nếu có xuất hiện tương tự như thế trong giới mệnh lý đã phân định tên gọi trong một loại cách cục khác.

    Sau đây là vài ví dụ minh họa, lấy càn tạo làm đơn cử:

    1. Năm Mậu Tí, Tháng Quí Hợi, Ngày Bính Tí, Giờ Bính Thân.
    _Trong mệnh cục này nguyệt chi hợi nắm lệnh, niên và nhật chi trùng hành khí sở tòng hợi Thiên Quan Thất Sát, nhưng vì niên cùng nhật chi là tí thủy là tạp âm dương với Chánh Quan.
    Trong khi đó Bính hỏa Tỷ Kiên trợ thân (nhật can) bị tuyệt khí tại lệnh nguyệt trụ hợi thành thế tựa nhu vô căn.
    Niên can Mậu là thần chuyên chế Thất Sát, lại bị tuyệt khí nơi nguyệt trụ hợi, không chuyên chế nổi Thất Sát.
    Đây chính là cách cục “giả tòng sát” khi đến vận đại vận 5 Mậu Thìn lập tức cách cục này bị phá hoại, hoặc đương số sinh sống vùng núi cao, sinh hoạt nơi hướng thìn tuất cách cục này củng bị hoại như thường không thể thuận tòng theo quan trường được.

    2. Năm Quí Hợi, Tháng Giáp Tí, Ngày Canh Tí, Giờ Kỷ Mão.
    _Trong mệnh cục này nguyệt chi tí nắm lệnh, niên và nhật chi cùng với niên can trùng hành khí sở tòng Tí Thương Quan.
    Kỷ thổ Chính Ấn trụ giờ tuy có tương sanh cho nhật can canh kim, nhưng Chính Ấn bị tuyệt khí tại nguyệt trụ tí thủy trở thành vô lực, không thể tương sanh cho nhật can được.
    Kỷ thổ chính là thần chuyên chế sở tòng Thương Quan, khi đến đại vận 5 Kỷ Mùi lập tức cách cục này bị hoại, hoặc đương số sinh sống vùng miền nam đồng bằng nơi có khí hậu ẩm nóng, sinh hoạt hai hướng sữu mùi cách cục này lập tức bị hoại cách cục, đương số không thể nổi tiếng nữa.
    Đây chính là cách cục “giả tòng thương”

    3. Năm Đinh Tị, Tháng Bính Ngọ, Ngày Quí Mùi, Giờ Nhâm Tuất.
    _Trong mệnh cục này nguyệt chi ngọ hỏa nắm lệnh, cái thế của niên nguyệt cùng nhật chi tạo thành thế nhất mạch phương nam, nhất khí hành hỏa Chính Tài là thần sở tòng.
    Niên trụ Đinh và nguyệt trụ Bính hỏa là âm dương tạp không thuần.
    Trụ giờ Nhâm thủy Kiếp Tài tuy trợ cho nhật can, nhưng Kiếp Tài bị suy vi (thai) đối với nguyệt trụ ngọ hỏa, nên không đủ lực tương trợ cho thân mệnh.
    Nhân nguyên Tân kim Kiêu Thần ẩn trong thời chi Tuất là trung khí, và bị suy vi (bệnh) đối với nguyệt trụ ngọ hỏa.
    Nhâm thủy Kiếp Tài là thần chuyên chế sở tòng Tài, khi đến đại vận 3 Quí Mão lập tức cách cục này bị hoại, hoặc đương số sinh sống vùng sông biển, nơi hàn lạnh hoặc sinh hoạt phương bắc thì cách cục này bị hoại đương số không còn sự nghiệp đại phú nữa.
    Đây chính là cách cục "giả tòng tài" cách.

    Ngoài ra còn nhiều loại mệnh cục “giả tòng” tương tự như trên vừa nêu.

  4. Cảm ơn bởi:


  5. #3
    lang_tu
    Khách
    Càn tạo :
    Năm Kỷ Tị, Tháng Canh Ngọ, Ngày Giáp Dần, Giờ Tân Mùi

    1. Trong mệnh cục này nhật can Giáp đến nguyệt lệnh là tử địa, chỉ duy nhất được tọa vị lâm quan đất lộc.
    2. Nguyệt can canh kim Thiên Quan Thất Sát tương phá tương khắc với nhật can.
    3. Thế của thổ kim dày nhật chi dần rất dể bị lung lay không vững.
    4. Hành hỏa tị ngọ mùi một mạch hỏa phương nam.
    5. Không có hành thủy trong mệnh cục chuyên chế hỏa cực vượng.
    Vậy trường hợp này chỉ được gọi là giả tòng vì có chút điểm tựa của nhật can là tọa lộc, nên không thể liệt kê vào cách cục chân tòng được.

    Xét về mệnh cục này là giả tòng thương quan, tại nguyệt trụ có đào hoa và tướng tinh, thân nhược vô căn tọa lộc.
    Nói lên khả năng đương số là người tài hoa, có khiếu hoặc đam mê trong các lãnh vực mỹ thuật hay nghệ thuật.
    Nhưng đây chỉ là nét cơ bản trong mệnh, cần phải phát triển thên vài điểm khác trong vận.
    Ta có thể triển khai tổng quát các khoảng đại vận như sau:

    Tổng quan thiên nguyên vận: đại vận 1, 2, 3, 4 ta có kỷ, mậu, đinh, bính là những vận tương thuận tương hổ cho sở tòng thương quan.
    Khoảng độ kỷ và mậu làm cho thân vô căn, nhưng chưa phát huy cục sở tòng thương quan, chỉ có thể nhận định trong khoảng thời gian này bản thân đương số chưa thừa được thiên mệnh để phát huy khả năng chính bản thân, thường gặp phải những việc ngoại lai đem đến không thuận.
    Khoảng vận đinh và bính tăng trưởng thương quan phát triển, lúc này đương số mới thừa thiên mệnh phát huy khả năng chính bản thân.

    Tổng quan địa nguyên vận: 3, 4 và 5 ta có một dãy phương đông hành mộc thìn, mão, dần là những vận tương trợ cho nhật can, mệnh chủ làm suy giảm đi mệnh cục sở tòng thương quan.
    Khoảng độ thìn tuy là phương đông, nhưng lúc này địa nguyên vận vẫn được xem là hành thổ làm cho thân vô căn, tương thuận tương trợ cho mệnh cục thương quan.
    Khoảng độ mảo dần là hành mộc tương trợ cho nhật can, thân mệnh làm suy giảm mệnh cục sở tòng, trong lúc này đương số trở lại cách cục bình thường không còn phát huy gì về sở trường hay khả năng nhạy bén, củng như tiếng tăm sẻ bị thuyên giảm đi.

    Thiên nguyên vận đa phần thể hiện tiêu chí thông tin thừa thiên mệnh thể hiện tài năng, hoặc nói lên hoàn cảnh bên ngoài như: ngoài đường, phương xa, bạn bè, hoặc tính chất may rủi không do con người làm chủ.
    Địa nguyên vận đa phần thể hiện tiêu chí thông tin thuận theo địa lợi để phát huy sự nghiệp, hoặc nói lên hoàn cảnh nội tại của đương số như: trong nhà, lục thân trong gia đình, hoặc tính chất may rủi do con người tạo ra.

    Vậy xét qua ví dụ này ta thấy khoảng đại vận 4 bính dần còn tiếp thừa được thiên nguyên vận, nhưng địa nguyên vận có vẻ kém xuống, nhưng mức độ chưa thật sự xấu hẳn đi.

    Đây là mệnh cục rất xấu, cần đòi hỏi đương số là người cố gắng hơn những người bình thường khác trong xã hội mới có được kết quả thành tựu trong đời, tuy mức độ thành tựu không tiếng tăm gì nhưng ít nhất là một đời người quân bình được cuộc sống sự nghiệp tài lộc, hậu vận về sau khá, nhưng có phần nào bản thân ỷ lại nên sức cố gắng không còn cao độ như lúc trẻ nữa.

  6. #4
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Jun 2012
    Bài viết
    101
    @ lang_tu: không biết bạn có tìm được ý hay nào trong bài này không ? mong được cùng chia sẻ.

    Riêng tôi thì thấy cái nhìn "thiên lệch" từ bài viết... Các ví dụ trình bày quá chung chung, cố gắng để triển khai ý tác giả nhưng không có đối tượng thực tế cụ thể nên không có giá trị tham khảo.

  7. #5
    lang_tu
    Khách
    ví dụ cuối cùng là của em họ lang_tu, em đưa ví dụ này để anh ấy luận xem sao thì thấy rất chính xác với những gì anh ấy luận giải.
    trước kia em không hiểu nhiều về cách cục Tòng nhưng qua bài viết nè em hiểu được phần nào đó. ví như thế nào gọi là "Giả Tòng"...

  8. #6
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    3,610
    Quan niệm về "Tòng" cách, nhất là phân biệt "Chân tòng" và "Giả tòng" theo cách nhìn nhận của tôi thường nói là "Kiêm Cách". Bởi vì rất khó phân biệt hẳn hòi nhược, vượng, tòng hay không tòng.

    Vì thế trong tứ trụ cần luận thêm yếu tố cung Mệnh, Không Vong, tiến hành của đại vận thuận hay nghịch theo dụng thần, kị thần của nhật chủ. Ngoài ra các tương tác ngầm sinh trợ hay ngầm phá (ám cách) cũng là 1 yếu tố có thể làm đảo lộn tình hình. Dụng thần biến hóa vô lường là như thế.

    Thí dụ về người sinh năm Mậu Tí trong bài viết ở trên.

    1. Năm Mậu Tí, Tháng Quí Hợi, Ngày Bính Tí, Giờ Bính Thân.
    _Trong mệnh cục này nguyệt chi hợi nắm lệnh, niên và nhật chi trùng hành khí sở tòng hợi Thiên Quan Thất Sát, nhưng vì niên cùng nhật chi là tí thủy là tạp âm dương với Chánh Quan.
    Trong khi đó Bính hỏa Tỷ Kiên trợ thân (nhật can) bị tuyệt khí tại lệnh nguyệt trụ hợi thành thế tựa nhu vô căn.
    Niên can Mậu là thần chuyên chế Thất Sát, lại bị tuyệt khí nơi nguyệt trụ hợi, không chuyên chế nổi Thất Sát.
    Đây chính là cách cục “giả tòng sát” khi đến vận đại vận 5 Mậu Thìn lập tức cách cục này bị phá hoại, hoặc đương số sinh sống vùng núi cao, sinh hoạt nơi hướng thìn tuất cách cục này củng bị hoại như thường không thể thuận tòng theo quan trường được.
    Vì không biết rõ về người này, nên tạm lấy ngày sinh 2.12.2008 để luận thực tế, vì ngày tháng khác trùng với Can Chi là ngày 16.11.1828.

    thực quan tỉ cung Mệnh:
    mậu quí bính bính NHÂM
    hợi thân TUẤT
    Không Vong

    Vận: Giáp Tí, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỉ Tị, Canh Tuất

    Thân nhược do Bính sinh tiết Lập đông, Hỏa hưu tù, Bính tọa Bệnh, Thai, Tuyệt. Thủy vượng, xem như có thể tòng theo Sát, nhưng khó mà tòng, dù là giả tòng. Lý do:

    - Thực thần Mậu có bản khí ở cung mệnh Tuất, Mậu kề bên Quí là thiên can hợp, Quí thủy mất lực
    - Tỉ kiên Bính cũng thấu can, trong Tuất có Đinh hỏa hỗ trợ
    - Thân kim sinh cho Thủy tọa Không Vong; bán hợp với Tí trụ ngày, nhưng gặp ám cách (Thìn # Tuất), thủy cục khó thành lập. Vận Mậu Thìn thành lập thủy cục, nhưng Mậu ở thiên can gọi là "cái đầu", Sát khó được toàn mỹ.
    - Nếu tòng Sát, dù giả hay chân tòng, đều lấy Thủy làm dụng, hỉ thần là Kim, Mộc Hoả là kị; nhưng đại vận thứ 3 đã phá cách vì Dần Mão Thìn là Mộc vận, thêm Bính Đinh Mậu ở thiên can thì cách tòng Sát không mỹ mãn.

    Như vậy, ngay từ nguyên cục cũng khó mà hoàn toàn "giả tòng Sát", vì thế dụng Ấn và Tỉ và tốt nhất, thành công ở học nghiệp, dùng tài văn chương, khẩu khí mà sinh sống, vận hạn tốt nhất là Bính Dần, Đinh Mão.
    bi - trí - dũng

  9. Cảm ơn bởi:


  10. #7
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    3,610
    Và nên lưu ý thêm một điều khi trong mệnh cục không thể nào có tên gọi “Tòng Ấn” bởi lẻ một kẻ khi xuất thân từ điều kiện sống đàng hoàn, cơm ăn áo mặc đầy đủ, được cha mẹ thương yêu, có bạn bè thân hữu trợ giúp thì loại hình mệnh cục này cách cục sẻ có tên gọi khác, và không thể gọi là “tòng” được.
    Và củng nên lưu ý rằng trong mệnh cục không hề tồn tại “giả tòng ấn” cách, nếu có xuất hiện tương tự như thế trong giới mệnh lý đã phân định tên gọi trong một loại cách cục khác.
    Đúng thế, khi Ấn quá vượng, không gọi là "tòng Ấn", tên gọi của cách này có 2 trường hợp phổ biến nhất: Tòng cường cách, hoặc là Hoại tử.

    Tòng cường cách: là loại tòng thân vượng, ấn vượng, dụng thần chỉ là Ấn. (Khác với thân nhược, dùng Ấn sinh Tỉ)

    Hoại tử: thí dụ như khi hành của nhật chủ hoàn toàn không có trong tứ trụ và cung mệnh, Ấn quá trọng, lại có Thực Thương xuất hiện, dụng thần của nhật chủ tự nhiên là Tỉ Kiếp (tiết Ấn, trợ Thực). Hỉ thần là Tài tinh (khắc bớt Ấn). Nhận ra những người thuộc dạng Hoại tử ở điểm thường tỏ ra cách biệt với những người xung quanh, hoặc đôi khi xử sự bất bình thường, cơ bản vì thân yếu nên không hiểu chính mình.

    2 loại Tòng cách nói trên lưu ý là trái ngược nhau ở Ấn. Tòng cường thì dụng Ấn, Hoại tử là kị Ấn. Cả hai đều rất mất thăng bằng, chỉ có đại vận tốt mới giải cứu được. Đặc biệt là những cách này thường không có quan hệ tốt với mẹ. Nhẹ nhất là giống như câu nói "xa thì nhớ, gần thì xung".
    bi - trí - dũng

  11. Cảm ơn bởi:


  12. #8
    Ban quản trị

    Ngày tham gia
    May 2012
    Bài viết
    3,610
    Càn tạo :
    Năm Kỷ Tị, Tháng Canh Ngọ, Ngày Giáp Dần, Giờ Tân Mùi
    Em họ của lang_tu (sinh 23.6.1989)

    Luận theo Cách, đây là Thương quan cách (Đinh hỏa ở Ngọ), cơ bản là nếu không lộ Quan Sát thì thật là tốt. Nhưng Canh Tân đều thấu ra là phá cách. Đáng lý được "Thương quan sinh Tài" vì có Kỉ lộ, nhưng cũng vì lại có cả Quan Sát làm lệch hướng, suy nghĩ bất thường. Cứu ứng là đại vận, lưu niên có Ất hợp bán Canh kim, lưu lại Quan tinh thì công việc có phần trôi chảy hơn.
    bi - trí - dũng

  13. Cảm ơn bởi:


  14. #9
    lang_tu
    Khách
    cảm ơn chị KC đã cho đôi lời bình. biển học quả vô biên.... tụi em cần phải học hỏi chị và mọi người nhiều!!!
    không biết khi nào có lớp Tử Bình căn bản vậy chị... nếu có lớp thì chị cho em đăng kí với nhé!!! vì em thấy mọi người bảo lớp nâng cao học sắp xong rồi...

    Về cách cục Tòng thì em cũng còn 1 ví dụ nữa của bạn em, sinh sau em họ em 3 ngày tức ngày 26/6/1989
    Nam mệnh:
    Kỉ Ty... Canh Ngọ.... Đinh Tỵ.... Đinh Mùi
    vận:Kỉ Tỵ( 6-15t)
    em thấy trụ nè, Đinh Kỷ đắc Ngọ Lộc, Hỏa Thổ cường vượng nên trụ nè là Tòng vượng Hỏa Thổ, dụng là Hỏa, Thổ, Mộc.
    tính tình ích kỷ, rất ham mê tiền, chỉ luôn muốn vụ lợi về bản thân..., Tỷ kiếp dày mà Tài lại lộ thì mệnh cục e rằng khó giàu được, có chăng vận 46-55 Ất Sửu, Ất hợp Canh Kim, Sửu mùi xung nên Thổ Tinh xung động giảm bớt tính cướp đoạt của Tỷ kiếp đối với Tài tinh...
    hành vận tốt thế này nhưng em thấy quan tinh không hiển lộ, vận cũng không thấy thì đường công danh của người này ra sao, nếu Tài đã không tốt mà Quan cũng không có, vậy vận tốt như trên thì ứng vào điều gì vậy chị???

    Mong nhận thêm chia sẻ từ mọi người!!!!

  15. #10
    Thành viên

    Ngày tham gia
    Jun 2012
    Bài viết
    101
    Trích dẫn Gửi bởi lang_tu Xem bài viết
    Về cách cục Tòng thì em cũng còn 1 ví dụ nữa của bạn em, sinh sau em họ em 3 ngày tức ngày 26/6/1989
    Nam mệnh:
    Kỉ Ty... Canh Ngọ.... Đinh Tỵ.... Đinh Mùi
    vận:Kỉ Tỵ( 6-15t)
    em thấy trụ nè, Đinh Kỷ đắc Ngọ Lộc, Hỏa Thổ cường vượng nên trụ nè là Tòng vượng Hỏa Thổ, dụng là Hỏa, Thổ, Mộc.
    tính tình ích kỷ, rất ham mê tiền, chỉ luôn muốn vụ lợi về bản thân...,
    @ lang_tu: cần định rõ nếu là Tòng thì tòng theo cái gì, Hoả thái vượng mà nhật chủ lại là Hoả thì chỉ là Tòng cường (vượng) cách chứ làm sao mà Tòng thổ được... :4:

    Trụ này khuyết Thủy, Mộc, dù theo hướng Tòng cường hay Thực thần tiết tú thì Thổ khí đều lành. Dữ kiện về người này có vẻ nghiêng về Tòng cường nhưng chưa rõ hẳn...

 

 

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 7 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 7 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •