Chính văn:
Cách cách suy tường,
Dĩ sát vi trọng,
Hóa sát vi quyền,
Hà sầu tổn dụng.
Đại lục giải thích:
Cách cục có nhiều loại, có đôi khi một bát tự lại có 2 cách, 3 cách, vậy trong đó loại cách cục nào quan trọng nhất chứ? Là Sát Quan cách. Sát Quan cách cùng lúc tồn tại, thì lại lấy Sát cách làm trọng. Tại sao chứ? Bởi vì Thất Sát là vật công thân, mệnh mang Thất Sát, thì giống như nằm bên cạnh mãnh hổ, nếu đầu tiên không lấy chế phục, thì có lúc mà mệnh khó giữ được, thì sao mà có tâm trí để suy nghĩ nói chuyện danh lợi hôn nhân chứ? Cho nên “Cách cách suy tường”, là cần phải lấy Sát cách làm trọng là đầu tiên. Thứ đến là Chính Quan cách, bởi vì Chính Quan là đại biểu cho danh dự, địa vị, quyền lực, chế độ cùng luật pháp. Chỉ cần mỗi con người sinh hoạt ở trong quần thể xã hội, dù ở bất cứ nơi nào thì cũng cùng ảnh hưởng bởi sự quản thúc của nhà nước. Xúc phạm ở chỗ Quan đại biểu cho sự vật, thì phải gặp đến sự công kích của quần thể xã hội, nhẹ thì chịu xã hội cưỡng bức, nặng thị phải bị quần thể tước đoạt tài sản, có khi đến cả sinh mệnh. Bởi vậy, Chính Quan tính quan trọng chỉ đứng sau ở Thất Sát.
Cho nên 《 Uyên Hải Tử Bình • Bảo pháp nhị 》có nói: "Phàm cách đương dĩ Sát Quan ngôn chi." 《 Tam Mệnh thông hội • Luận Chính Quan 》nói: "Hựu viết quan tinh bất tất chuyên nê vu nguyệt lệnh chi thần, hoặc nguyệt can, hoặc niên nhật thời chi can, chỉ nhất xứ hữu, bất tằng tổn thương, giai khả thủ dụng" ( Lại nói Quan tinh không nên chấp nê ở thần nguyệt lệnh, hoặc can tháng, hoặc can năm , ngày, giờ, chỉ một nơi có, không bị tổn thương, đều có thể lấy làm dụng). Ý là muốn nói, phàm bát tự chỉ cần có Sát Quan thành cách, bất kể đúng hay không đúng là nguyệt lệnh dụng thần, đều cần phải trước tiên lấy Sát Quan cách này. Chỉ cần năm, ngày, giờ có Sát Quan thành cách, thì không sợ tổn hại nguyệt lệnh dụng thần, ý chỗ này cũng là "Hóa sát vi quyền, hà sầu tổn dụng" .
Có mệnh sư ôm lấy quyết định nguyệt lệnh dụng thần mà không hiểu biến thông, một mặt bám chặc lấy ở thiên can nắm quyền ti sự , hoặc chỗ vấn đề gọi là "Bình hành", "Điều hậu", "Thông quan" để lấy "Dụng thần", không hiểu đạo “Cách cách suy tường” lấy Sát Quan là phương pháp đầu tiên để thủ cách, dạng này sẽ tồn tại xuất hiện một loại bát tự ở trên mà suy đoán sai lầm.
Như mệnh Ngô Đại Đình, sinh vào ngày 8, tháng 12, năm 1824, giờ Thìn, mệnh thức là : Giáp Thân/ Đinh Sửu/ Bính Dần/ Nhâm Thìn. 《 Tam Mệnh thông hội • Nhân Nguyên dụng sự ca 》nói: "Sửu cung cửu nhật quý chi dư, trừ khử tam tân giai thuộc kỷ." Ý tức là tháng Sửu trước 9 ngày là Quý thủy dụng sự, tiếp theo 3 ngày là Tân kim dụng sự, còn lại 18 ngày là Kỷ thổ dụng sự. Tra 《 Vạn niên lịch 》có thể biết, năm này ngày 17, tháng 11 âm lịch là giao tiết Tiểu Hàn, tới tháng 12, ngày 8, cộng lại là 21 ngày, gặp lúc Kỷ thổ dụng sự, cũng tức là Thương Quan dụng sự. Nếu như chúng ta chấp nhất lấy Kỷ thổ Thương quan làm dụng thần, như vậy, có thể lấy cách cục chỉ có Thương quan phối Ấn cách. Xem lý thuyết, mệnh chủ nếu đến Đông Bắc phương thủy mộc vận mới có thể phát phúc. Nhưng mà, mệnh chủ lại ở Tị vận, 42 tuổi năm Ất Sửu phụng chỉ phép vua tới trông coi nghề làm muối ở Phúc Kiến, chính thức bước vào con đường làm quan. Vào vận Nhâm Ngọ lúc 43 tuổi năm Bính Dần thăng chức Tuần phủ Đài Loan,cùng được phong tước Nhị phẩm. Mệnh chủ ở trong vận Nhâm Ngọ một đường đảm đương chức quyền, thẳng đến 53 tuổi vào vận Quý sau đó qua đời. Thử nghĩ, Ngọ vận chính là Ấn tinh tử địa, Dần Ngọ hợp mà hóa Ấn thành Kiếp, mệnh chủ tại sao có thể có địa vị là Tuần phủ Đài Loan chứ? Chỗ này là dụng Thương quan luận cách mà thật sự là không có phép giải thíc. Thực ra, mệnh này tháng thấu Nhâm Sát, tuy có thể dụng Giáp Ấn hóa Sát, cũng có thể lấy Đinh hỏa hợp Sát, vận Nhâm Ngọ chính là Đinh hỏa đất đắc Lộc, hợp Sát có lực, cho nên mà mệnh chủ mới có thể giữ địa vị làm quan lớn trấn giữ ở biên cương.