letung73
14-03-15, 22:28
Sự khác biệt nhỏ của Tòng cường cách, Chuyên vượng cách và Chính cách trong mệnh cách của con người.
Giữa Tòng cường cách, Chuyên vượng cách, Chính cách, nhiều lúc rất khó phân biệt, nếu không thể phân biệt những cách này, thì khi lấy hỉ dụng tất nhiên sẽ có sai lầm, khi giải đoán ban đầu thì đa số là chính xác, hoặc cũng có khi đoán mệnh thì có phần chính xác, nhưng lại ở những điểm rất nhỏ hoặc trong tuế vận thì sai lầm lại rất nhiều, đến mức bản thân người dự đoán đã phải hao tâm suy nghĩ mà cũng không thể nào giải đoán được. Đặc biệt là mệnh lý Tân phái, thậm chí có thể đem toàn bộ mệnh cục có được trợ giúp hay kiềm chế không được quy làm Tòng cách, hoặc khi toàn bộ mệnh cục với nhật chủ vượng cực mà sự phù trợ hay kiềm chế không được thì quy làm Tòng cường cách, không có đề xuất phương pháp, quan điểm về mệnh cục Tòng truyền thống khác tách biệt làm Chuyên vượng cách và Tòng cường cách.... Cần biết Chuyên vượng cách và Tòng cường cách ở cách cục với thủ dụng thì có khác biệt.
1. Xuất phát từ một mệnh cục Tòng để so sánh sự khác nhau giữa Tòng cường cách với Chính cách.
Khôn tạo: Kỷ Dậu, Bính Dần, Đinh Tị, Bính Ngọ
Đại vận: Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu
Tạo này 7 tuổi bất đầu hành vận.
Ngay tức thì dựa vào kinh nghiệm nhiều năm luận mệnh một mực nhấn mạnh. Tạo này nhất định là Tòng cách, bởi luận tỉ mỉ mệnh này, đồng thời phân tích kĩ càng Tạo này cho đệ tử xem. Nếu như tạo này Tòng cường, như vậy năm 87 ( đại vận Mậu Thìn), hẳn là phát huy rất tốt mà đỗ cao một trường danh giá ( mệnh chủ đã phản hồi năm này thi vào trường cao đẳng gặp phải xui xẻo, cho nên không thể thi đỗ). Tôi vừa xem, nếu như mệnh này Tòng cường, thì năm Đinh Mão sẽ tất nhiên ứng cát. Một là: Thái tuế Mão xung Dậu Tài là hỉ, hai là: Năm này Đại vận Lưu niên, mệnh cục Dần Mão Thìn tam hội Ấn cục, nếu là cách cục Tòng cường, thì năm này văn thượng đại cát. Mà sự thực lại là tương phản
Vậy tạo này thực sự là chính cách, nhật chủ rất vượng, lấy Thương tiết nhật chủ làm dụng. Đặc biệt tổng kết cách cục khi có nhật chủ rất vượng loại này thì có khác biệt.
(1), Bởi tạo này ngoài trụ năm ra thì ba trụ tháng, ngày, giờ là Bính Dần, Đinh Tị, Bính Ngọ. Hỏa thế cực cường, mà thiên can Kỷ thổ ở trụ năm Kỷ Dậu đắc một Lộc một Nhận ở địa chi. Đây chính là khi mới nhìn dễ cho rằng là Tòng cường cách, mà trong trụ có Thực Thương thì dễ dàng không thể rõ ràng là Tòng cường cách hay là Chính cách. Bởi vì phần nhiều cách cục Tòng cường, thì đương nhiên tứ trụ vây quanh nhật chủ mà phù nó trợ nó, nếu như đều bang phù nhật chủ, thì tự nhiên dễ định là cách cục Tòng cường. Mà Niên trụ của tạo này lại là Thực thần đắc một căn một Nhận cho nên tương đối vượng, do vậy mà không dễ phân biệt. Vậy đề xuất phương án cho tạo này, thì tôi nghĩ đến một mệnh cục nếu nhật chủ vô cùng vượng, trong tình huống mà tứ trụ bang phù nhật chủ tương đối nhiều, thì không dễ dàng có sự phân biệt cuối cùng đâu là Tòng cường cách hoặc là trong tình huống của Chính cách thì sẽ có 3 loại: Một là trong trụ có Thực Thương, Hai là trong trụ có Tài, ba là trong trụ có Quan Sát. Vì sao lại có 3 loại này, bởi vì từ nhật chủ mà nói, thì ngoài quan hệ là bang trợ nhật chủ ra thì chỉ có 3 loại là tiết, hao, khắc nhật chủ, một là Thực Thương tiết; hai là Tài tinh hao; ba là Quan Sát khắc. Ngoài chỗ này ra lại không có mối quan hệ nào khác làm yếu thế lực lượng của nhật chủ.
(2), Dưới 3 tình huống này thì phân biệt như thế nào là chính cách hay là Tòng cường cách?
Một là: Khi trong trụ có Thực Thương, nếu như Thực Thương ở thiên can nhất định phải hư phù vô lực, hoặc bị khặc, tiết, hóa khứ, thì mới có thể nhâp Tòng cường cách. Ở địa chi thì nhất định chỉ có ở một chi, mà bị xung, hợp, hội, tiết khứ mới có thể nhập Tòng cường cách. Như ví dụ trên: Kỷ Dậu, Bính Dần, Đinh Tị, Bính Ngọ, niên can Kỷ thổ đắc một Lộc một Nhận, có lực mà chưa bị khắc, tiết, hóa khứ, cho nên làm chính cách, cho nên lấy Thực Thương làm dụng. Lại như: Nhâm Thìn, Nhâm Dần, Ất Tị, Bính Tý, Bính hỏa Thương quan thiên thấu địa tàng, cho nên làm chính cách.
Hai là: Khi trong trụ có Tài, nếu Tài có lực, cùng không thành Tòng cách. Mậu Tý, Giáp Dần, Giáp Dần, Giáp Tuất, tạo này thiên can thấu Mậu thổ Chính tài, địa chi có Tuất thổ, mà Dần Tuất củng Ngọ, cho nên thành chính cách. Lại như: Canh Thân, Giáp Thân, Tân Sửu Canh Dần, tạo này Giáp Tài thấu xuất, thông căn Dần mộc, cho nên thành chính cách.
Ba là: Khi trong trụ có Quan Sát, Quan Sát trực tiếp công khắc Tỉ Kiếp, nếu trong trụ thiên can, địa chi Quan Sát có khí, thì xác định là chính cách. Loại này tương đối dễ phân biệt, không cần lấy ví dụ.
Giữa Tòng cường cách, Chuyên vượng cách, Chính cách, nhiều lúc rất khó phân biệt, nếu không thể phân biệt những cách này, thì khi lấy hỉ dụng tất nhiên sẽ có sai lầm, khi giải đoán ban đầu thì đa số là chính xác, hoặc cũng có khi đoán mệnh thì có phần chính xác, nhưng lại ở những điểm rất nhỏ hoặc trong tuế vận thì sai lầm lại rất nhiều, đến mức bản thân người dự đoán đã phải hao tâm suy nghĩ mà cũng không thể nào giải đoán được. Đặc biệt là mệnh lý Tân phái, thậm chí có thể đem toàn bộ mệnh cục có được trợ giúp hay kiềm chế không được quy làm Tòng cách, hoặc khi toàn bộ mệnh cục với nhật chủ vượng cực mà sự phù trợ hay kiềm chế không được thì quy làm Tòng cường cách, không có đề xuất phương pháp, quan điểm về mệnh cục Tòng truyền thống khác tách biệt làm Chuyên vượng cách và Tòng cường cách.... Cần biết Chuyên vượng cách và Tòng cường cách ở cách cục với thủ dụng thì có khác biệt.
1. Xuất phát từ một mệnh cục Tòng để so sánh sự khác nhau giữa Tòng cường cách với Chính cách.
Khôn tạo: Kỷ Dậu, Bính Dần, Đinh Tị, Bính Ngọ
Đại vận: Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu
Tạo này 7 tuổi bất đầu hành vận.
Ngay tức thì dựa vào kinh nghiệm nhiều năm luận mệnh một mực nhấn mạnh. Tạo này nhất định là Tòng cách, bởi luận tỉ mỉ mệnh này, đồng thời phân tích kĩ càng Tạo này cho đệ tử xem. Nếu như tạo này Tòng cường, như vậy năm 87 ( đại vận Mậu Thìn), hẳn là phát huy rất tốt mà đỗ cao một trường danh giá ( mệnh chủ đã phản hồi năm này thi vào trường cao đẳng gặp phải xui xẻo, cho nên không thể thi đỗ). Tôi vừa xem, nếu như mệnh này Tòng cường, thì năm Đinh Mão sẽ tất nhiên ứng cát. Một là: Thái tuế Mão xung Dậu Tài là hỉ, hai là: Năm này Đại vận Lưu niên, mệnh cục Dần Mão Thìn tam hội Ấn cục, nếu là cách cục Tòng cường, thì năm này văn thượng đại cát. Mà sự thực lại là tương phản
Vậy tạo này thực sự là chính cách, nhật chủ rất vượng, lấy Thương tiết nhật chủ làm dụng. Đặc biệt tổng kết cách cục khi có nhật chủ rất vượng loại này thì có khác biệt.
(1), Bởi tạo này ngoài trụ năm ra thì ba trụ tháng, ngày, giờ là Bính Dần, Đinh Tị, Bính Ngọ. Hỏa thế cực cường, mà thiên can Kỷ thổ ở trụ năm Kỷ Dậu đắc một Lộc một Nhận ở địa chi. Đây chính là khi mới nhìn dễ cho rằng là Tòng cường cách, mà trong trụ có Thực Thương thì dễ dàng không thể rõ ràng là Tòng cường cách hay là Chính cách. Bởi vì phần nhiều cách cục Tòng cường, thì đương nhiên tứ trụ vây quanh nhật chủ mà phù nó trợ nó, nếu như đều bang phù nhật chủ, thì tự nhiên dễ định là cách cục Tòng cường. Mà Niên trụ của tạo này lại là Thực thần đắc một căn một Nhận cho nên tương đối vượng, do vậy mà không dễ phân biệt. Vậy đề xuất phương án cho tạo này, thì tôi nghĩ đến một mệnh cục nếu nhật chủ vô cùng vượng, trong tình huống mà tứ trụ bang phù nhật chủ tương đối nhiều, thì không dễ dàng có sự phân biệt cuối cùng đâu là Tòng cường cách hoặc là trong tình huống của Chính cách thì sẽ có 3 loại: Một là trong trụ có Thực Thương, Hai là trong trụ có Tài, ba là trong trụ có Quan Sát. Vì sao lại có 3 loại này, bởi vì từ nhật chủ mà nói, thì ngoài quan hệ là bang trợ nhật chủ ra thì chỉ có 3 loại là tiết, hao, khắc nhật chủ, một là Thực Thương tiết; hai là Tài tinh hao; ba là Quan Sát khắc. Ngoài chỗ này ra lại không có mối quan hệ nào khác làm yếu thế lực lượng của nhật chủ.
(2), Dưới 3 tình huống này thì phân biệt như thế nào là chính cách hay là Tòng cường cách?
Một là: Khi trong trụ có Thực Thương, nếu như Thực Thương ở thiên can nhất định phải hư phù vô lực, hoặc bị khặc, tiết, hóa khứ, thì mới có thể nhâp Tòng cường cách. Ở địa chi thì nhất định chỉ có ở một chi, mà bị xung, hợp, hội, tiết khứ mới có thể nhập Tòng cường cách. Như ví dụ trên: Kỷ Dậu, Bính Dần, Đinh Tị, Bính Ngọ, niên can Kỷ thổ đắc một Lộc một Nhận, có lực mà chưa bị khắc, tiết, hóa khứ, cho nên làm chính cách, cho nên lấy Thực Thương làm dụng. Lại như: Nhâm Thìn, Nhâm Dần, Ất Tị, Bính Tý, Bính hỏa Thương quan thiên thấu địa tàng, cho nên làm chính cách.
Hai là: Khi trong trụ có Tài, nếu Tài có lực, cùng không thành Tòng cách. Mậu Tý, Giáp Dần, Giáp Dần, Giáp Tuất, tạo này thiên can thấu Mậu thổ Chính tài, địa chi có Tuất thổ, mà Dần Tuất củng Ngọ, cho nên thành chính cách. Lại như: Canh Thân, Giáp Thân, Tân Sửu Canh Dần, tạo này Giáp Tài thấu xuất, thông căn Dần mộc, cho nên thành chính cách.
Ba là: Khi trong trụ có Quan Sát, Quan Sát trực tiếp công khắc Tỉ Kiếp, nếu trong trụ thiên can, địa chi Quan Sát có khí, thì xác định là chính cách. Loại này tương đối dễ phân biệt, không cần lấy ví dụ.