PDA

View Full Version : Vương Khánh giải tứ trụ



Nhật hoa
14-06-12, 18:55
Sách tử bình thì 10 quyển thì hết 9,5 quyển giống nhau, quanh đi quẩn lại chỉ có ngũ hành vượng tướng, cách cục, dụng thần, bình luận ví dụ cổ xưa trong sách cổ, ... theo lý thuyết của tác giả.

Để tránh nhàm chán, Topic này giới thiệu phương pháp luận tứ trụ của lão sư Vương Khánh dựa vào các ví dụ thực tế. Vương Khánh vốn có công lực, thâm niên hàng chục năm mệnh lý. Phép tử bình ông sử dụng là trường phái truyền thống, nhưng đọc vào sâu sẽ thấy ông dùng cả lý luận khác, tức hấp thu lý thuyết của phái khác, người khác,...

kimcuong
14-06-12, 19:12
:) Cám ơn Bát tự, nào xem Vương Khánh luận tổng hợp thế nào đây. Dù thế nào, cũng sẽ có nhiều lợi điểm khi tìm hiểu các mẫu thí dụ tứ trụ qua vài chủ ý khác nhau.

Nhật hoa
14-06-12, 19:44
Ví dụ 1: Lá số này thế nào ?

Càn tạo:



Thương

Sát

nhật

Thương



KỶ

NHÂM

BÍNH

KỶ



MÙI

THÂN

THÌN

SỬU



kỷ đinh ất

mậu nhâm canh
mậu ất quý

kỷ quý tân



Thương-Kiếp-Ấn

Thực-Sát-Tài

Thực-Ấn-Quan

Thương-Quan-Tài




Bạn sinh sau Lập thu 9 ngày, (là thời điểm) Canh chưa nắm lệnh (chú: Mậu[10 ngày] - Nhâm[3n] - Canh[17n]), Tài và Sát không chủ khí bằng không là Sát vô chế đắc Tài sinh, (mệnh) gánh tội lớn. Cha mẹ, anh em không cậy nhờ thì không nói, còn có bệnh mạn tính, mang tật, hiện mức độ bệnh đã giảm nhiều.

Lấy Thương quan lập cách, không thấy Ấn tinh thủ nguyệt lệnh Tài để làm dụng thần, Tài không thấu lại bị Sát tiết, giàu có lớn e rằng khó, chẳng nên mưu cầu.

Không có cách cục thì luận theo tượng, mệnh này có hai đại tượng: tượng Thương quan sinh Tài và tượng Tài sinh Sát chế thân. Về kỹ thuật thì Tài vận không gây trở ngại, chẳng qua là Tài sinh Sát, Sát chế thân dễ gây khó khăn. Nếu không có việc sức khỏe không tốt thì trong nhà cũng có chuyện, dẩn đến thường xuyên thất nghiệp hoặc khó kiếm tiền.

Tuế vận dụng thần là Ấn, Tài nửa cát nửa hung, mộc Ấn là dụng của cách, cũng là dụng của thể, tức mộc là cơn đói khát, thèm muốn của mệnh. Người "khát" ấn thì nội tâm cô độc, thiếu đi sự yêu thích cũng như trên thân thể có vấn đề về phương diện mộc. Học hành nhiều đối với mệnh của bạn có thể cải thiện được vấn đề, trồng nhiều cây cũng có thể giảm bớt tổn hại, cải thiện tinh thần và sức khỏe. Hậu vận không đến nổi nào, có nổ lực bản thân. Vài lời giúp bạn tham khảo, cố gắng lên.

Đương số: 2005 bắt đầu học bát tự, hiện nay là công chức, ngành hành pháp.

Nhật hoa
14-06-12, 20:32
Ví dụ 2:

Càn tạo:



Kiếp

Tài

nhật

Tài



NHÂM

BÍNH

QUÝ
BÍNH



TUẤT

NGỌ
DẬU

THÌN



mậu-tân-đinh

đinh-kỷ

tân

mậu-ất-quý









Vận






Đinh mùi

Mậu thân

Kỷ dậu

Canh tuất




Tài không nhược, lấy nguyệt thượng Chánh tài lập cục, Tài chỉ gặp Quan hoặc Thương mới thành cách, kị Tỷ Kiếp khắc. Quan tinh không thấu, lại còn gặp Kiếp --> cục bất thành, không nên cầu đại phú. Lại phải dùng tượng để luận.

Lấy Tài lập cục, Tài vượng thân nhược, thành ra lấy Ấn Tỷ làm dụng thần của thể. Nhâm thủy thấu xuất khắc Tài phá cục, không thể là dụng của thể. Thiên ấn và Tài không có xung đột, chọn (Ấn) làm dụng thần của thể, giải thích cho nhật chủ có thể giàu, tiểu phú, mà không được sự trợ giúp của anh chị em, cha mẹ giúp cũng nhỏ nhoi. Trợ lực ở người ngoài, người giúp cho nhiều, vợ cậy được và bên vợ giúp cũng nhiều. Sự nghiệp ổn định trong đơn vị, là mẫu người phát triển khi ra ngoài.

Đặc sắc của lá số là ở ngày giờ. Giờ là Chánh tài tọa Quan, là tượng Quan hộ Tài. Điều này giải thích bản thân đang làm ông chủ, 36 tuổi là ứng kỳ. Sau tuổi 36 sẽ chuyển nghề, trước đó công việc khá ổn định.

Ngọ Tuất hợp, thân thể tổn thương, tai nạn nghề nghiệp, thực ra trên người chỉ có điểm khác người, xem không thấy vết thương nhỏ là tốt rồi. Da dẻ không tươi nhuận, hệ thống tiêu hóa, hô hấp kém. Trong người nóng, kỵ rượu, khói, cay chua, bằng không dạ dày tổn thương nặng.

Tôi dùng cách cục pháp để đoán, cùng với sử dụng vượng suy pháp để giải đoán thì thấy khớp nhau. Bất quá thì người khác đoán mệnh bạn thân nhược Tài vượng thì mệnh nghèo, tôi khẳng định không nghèo, sau 36 tuổi khá giàu, hiện nay (thời điểm viết bài là năm 2011) thu nhập cũng không thấp.



--
Hãy xem thêm tứ trụ người nữ này, cũng có hai Tài hai bên nhưng thực sự rất khác:

Khôn tạo:



Kiêu

Tài

nhật

Tài



CANH

BÍNH

NHÂM
BÍNH



THÂN

TUẤT
THÂN

NGỌ



mậu-nhâm-canh

mậu-tân-đinh

canh-nhâm-mậu

đinh-kỷ









Vận 6 tuổi

16 tuổi

26 tuổi

36 tuổi



Ất dậu

Giáp thân

Quý mùi

Nhâm ngọ

Nhật hoa
16-06-12, 12:55
Khôn tạo:



Kiêu

Tài

nhật

Tài



CANH

BÍNH

NHÂM
BÍNH



THÂN

TUẤT
THÂN

NGỌ



mậu-nhâm-canh
mậu-tân-đinh
canh-nhâm-mậu
đinh-kỷ








Vận 6 tuổi

16 tuổi

26 tuổi

36 tuổi



Ất dậu
Giáp thân
Quý mùi
Nhâm ngọ




Bát tự này so với tứ trụ trên xem sơ qua thì cũng thấy hai Tài tinh Bính hỏa giáp biên, nhưng trên thực tế rất khác, bát tự trước Nhâm Tuất / Bính Ngọ / Quý Dậu / Bính Thìn Tài vượng chủ khí, nhật chủ có ý kiếm tiền cầu tài, hậu vận thủy vượng nên phát tài, mệnh tiểu phú. Còn bát tự này chủ khí lại là Thiên ấn, thành tựu về khía cạnh học thuật, chủ về mặt tinh thần. Đương nhiên Tài chế Ấn hàm nghĩa nghiên cứu học thuật nghiêng về mảng kinh tế, cũng có thành tựu, vận Tài gặp liên tiếp. Đây là sự bất thường nhưng hết sức thích hợp cho nghiên cứu Chu dịch, xem ra rất cần cho một nữ dự trắc sư chuyên nghiệp. Đó là do Thiên ấn, chuyên nghiên cứu vào một vấn đề chuyên nhất, thành tựu chỉ là vấn đề thời gian.

Cách cục Thiên ấn rất khó dự đoán, do Thiên ấn như con tắc kè, có khả năng biến thành hung thần Kiêu, mà cũng có thể trở thành cát thần Thiên ấn, một cát một hung, thành công không cùng một dạng, chọn dụng thần cũng khác nhau. Người Thiên ấn vốn thông minh tài cán nhưng tư tưởng hay thay đổi, tính cách rất thất thường, sầu não.

Bát tự này thực ra mang điểm không tốt, dụng phép vượng suy sinh khắc thì bề ngoài có vẻ tốt đẹp, thân nhược Tài Quan vượng, thủ Ấn Tỉ làm dụng, Tài hoại Ấn, dụng thần thụ thương, không nhờ cậy cha mẹ, hành hành thấp kém, đường công danh khó thành. Luận theo kiểu này có thể sai đúng lẫn lộn, nhưng căn bản không nói được sự kiện cuộc đời một cách cụ thể, chỉ chung chung.

Dùng tử bình theo phép luận cách cục sẽ có hai luồng ý kiến cho bát tự này, cách cục Thiên ấn rất khó luận, thường xuyên gặp hai ý kiến khác nhau, các cách cục khác không gặp phải trường hợp này:

- Một đằng sẽ luận là niên thượng Thiên ấn, chọn Thiên Tài làm cục dụng thần, cách cục Thiên ấn dụng Tài thành cách, là loại bát tự rất thành tựu, có thể xếp vào loại mệnh phú quý.

- Một kiểu luận khác là niên thượng Thiên ấn lập cục, cục dụng thần là Tài, tiếc là Tài bị thần nắm lệnh trong tháng sinh là Thất sát hóa tiết, nguyệt can phía trên là Tài vô dụng, chỉ thể dụng Tài ở can giờ. Điều đó nói rõ đương số trước 32 tuổi nghiệp học hành trắc trở khó thành, sau tuổi 32 mới có thành tựu học vấn nhờ vào năng lực bản thân. Tôi theo hướng lý luận này, đương số tuy thông minh tài giỏi, trước 32 tuổi khó thành, sau 32 tuổi sự nghiệp mới khởi sắc.

Phản hồi: người nữ này, quá trình học đại học chuyên ngành [chú: chuyên khoa - chia thành "trung chuyên" và "đại chuyên" - học khoảng 3 năm, khuynh hướng đào tạo thực hành, tương tự hệ cao đẳng/hệ trung cấp chuyên nghiệp ở VN] thì sau lại thi vào bản khoa [chú: bản khoa - học 4-5 năm, đào tạo tri thức và lý luận, tương tự hệ đại học], năm 2004 tốt nghiệp, năm 2004-2007 nhiều lần thi công chức hoặc vào các đơn vị hành chính sự nghiệp đều thất bại, vào 2008 thi đậu vào được một cơ quan chính sách xã hội cấp quận, hiện nay lương cũng khoảng 7.000 đồng.

Vương Khánh: Bát tự này thực ra tôi đã lầm tưởng là người cùng giới nghiên cứu (dịch học), nhưng cũng không ảnh hưởng đến điều đã đoán, bát tự định tính khó định lượng, cô này không phải là người nghiên cứu Chu dịch thì quỹ đạo đời người cũng cùng một dạng. Trước tuổi 32 học nghiệp nan thành, mọi sự đều trở ngại, sau 32 tuổi có chuyển biến lớn, ắt có thành tựu. Nếu như nghiên cứu Chu dịch thì sẽ thành một dự trắc sư trứ danh, làm công chức có thực quyền, danh lợi song thâu. Từ thực tế thấy trước học chuyên khoa sau theo bản khoa, đi công chức 5 năm mới thành, đủ thấy học nghiệp khó khăn, cũng đủ thấy thực tiễn và bát tự cùng một kết quả; "ta là bát tự, mà bát tự cũng là ta".

Quay lại ví dụ 1, bát tự lấy Thương quan lập cách, Thương quan có Tài tiết, người thông minh tài trí, có tương lai, theo lý thuyết thì là người làm ra tiền, nhưng thực tế lại là người chấp hành pháp luật trong một đơn vị nhà nước, phép xem theo phép cách cục cũng có điểm sai, tất nhiên là khi dùng Thất sát để lập cục điểm, Thất sát đắc Thương quan khắc thì mới phù hợp với thực tế. Thể dụng thần là Ấn, ở đây bất kể lập cách cục theo dạng nào thì bát tự "khát" Ấn là bất biến.

Tử bình mệnh học là khoa rất khó và rất dễ sai, vì tìm ra cách cục điểm cũng là kết luận được thái cực điểm của mệnh. Tuy nhiên, khi cách cục điểm tìm sai thì rất nhiều việc đoán không chuẩn mất đi ý nghĩa luận mệnh, chẳng lẽ vượng suy pháp đoán không chệch nhiều thứ ư?

Sức quyến rũ của Tử bình học là ở chổ dùng lý luận thuyết phục và phục tùng con người, bất luận suy đoán cát hay hung đều phải hết sức hợp lo-gic, luôn trung thành với sự thực, tuyệt đối không vì chỉ biết đúng mà không biết đến vì sao đoán đúng. Đúng phải có lý lẽ đúng, sai cũng có nguyên nhân. Khi đoán sai thì đi tìm ngay vấn đề, chứ đoán sai còn vòng vo, đề cao chi tiết vụn vặt thì chỉ là kẻ ngây dại.

Nhật hoa
19-06-12, 14:22
NGUYỆT LỆNH CẦU CHÂN

Nguyệt lệnh ≠ bản khí nguyệt chi # thần nắm lệnh

Bây giờ ngày càng nhiều người biết tới tầm quan trọng của cách cục, đội ngũ học theo cách cục pháp càng ngày càng nhiều, nhưng thực tiễn ứng dụng luôn vấp phải trắc trở, xác suất đúng không bằng vượng suy sinh khắc pháp. Ham học mà không thuần thục, thích mà không nắm đc phương pháp thì thật là ôm rơm nặng bụng.

Từ những năm 90' thế kỷ trước, sau khi lão sư Thiệu Vĩ Hoa khơi dậy phong trào Dịch học, các môn phái Bát tự, thượng đài biểu diễn, đại triển quyền cước, từ truyền thống hỗn hợp phái, sinh khắc đại pháp phái, tân phái, Manh phái, tượng số phái,... đến cách cục phái, có thể nói trăm hoa đua nở.

Sinh khắc đại pháp phái, tân phái từ năm 1998 trở thành trào lưu mệnh chính yếu, tuy tranh nghị không ngừng nhưng đã hơn mười năm vẫn chiếm cứ vị trí chủ chốt.

Vượng suy sinh khắc phái (phương pháp luận dùng tổng hợp sinh khắc đại pháp và tân phái, gọi là vượng suy sinh khắc pháp) có rất nhiều vấn đề, linh hồn cách cục pháp thực chất là Tử Bình thuật, nhưng tại sao nhiều khi tiếp xúc với người dùng cách cục pháp, rất thích dùng cách cục luận mệnh thì vẫn còn dùng vượng suy sinh khắc pháp? Một loại phương pháp hay dỡ không phải do người truyền bá định đoạt, mà do người học và thực tiễn mới là người đánh giá, bỏ nó hay chọn dùng.

Cách cục pháp là chính tông, nhưng không đắc yếu lĩnh; vượng suy pháp còn nhiều thiếu sót, nhưng cũng có mặt phương pháp thấu đáo, đơn giản rõ ràng, thực dụng.

Vượng suy sinh khắc pháp là phương pháp do hậu nhân tăng bổ, cách tân, tự ngộ ra, không đc truyền từ minh sư, cũng không tồn tại môn quy, có thể được quảng bá rộng khắp, phát triển và hoàn thiện.

Cách cục pháp là do Tử Bình tiên sư hoặc Quỷ Cốc Tử sáng tác, đã sớm hoàn thiện, định hình, đc truyền lại kế thừa bằng mật pháp, có môn quy hết sức nghiêm ngặt làm người sở đắc nó đã ít lại càng ít hơn.

Thực ra chúng ta bây giờ đang chứng kiến là cách cục pháp, hầu hết do văn nhân nho sĩ dùng Tử Bình thuật ghép nối, phát huy thông tin. Rất nhiều trí tuệ thánh nhân thượng cổ kết tinh, nếu không có thầy truyền lại thì kẻ thiên tài cũng chỉ có thể tiếp cận tương đối mà không cách nào lý giải một cách chính thức, lại càng không thể phát triển, cách tân lý luận. Tôi cho rằng Thần Phong Thông Khảo, Quản Kiến Tử Bình, Tử Bình Chân Thuyên ắt hẳn là tác phẩm của những thiên tài hậu sinh.

Cách cục pháp không đc như vượng suy pháp, vấn đề then chốt ở đâu?

Cách cục pháp lấy thiên địa chủ khí định cách chọn dụng thần, đoán địa vị, xem xét cát hung. Tìm chủ khí là mấu chốt của cách cục pháp và cũng là căn cơ của cách cục pháp. Chủ khí tìm trong nguyệt lệnh, đây là nhận thức chung.

Tử Bình Chân Thuyên bàn về điều này rất tỉ mỉ: "Bát tự dụng thần chuyên cầu nguyệt lệnh, lấy nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, sinh khắc khác nhau mà phân ra cách cục. Tài Quan Ấn Thực là các dụng thần thiện thì thuận dụng, Sát Thương Kiêu Nhận là các dụng thần bất thiện thì nghịch dụng. Đang thuận thì theo thuận, nghịch thì theo nghịch, phối hợp được ích lợi như vậy thì đều là quý cách".

Vấn đề là lại xuất hiện nhận thức chủ khí khác nhau. Bây giờ tuyệt đại đa số khi lập cách cục cho rằng: nguyệt lệnh chính là nguyệt chi bản khí, nguyệt chi bản khí chính là thần nắm lệnh (chủ khí), chính là trung tâm điểm của việc lập cách cục.

Bởi vậy, xuất hiện hai quan niệm cách cục phái:

1) Dùng nguyệt lệnh bản khí lập cách thủ dụng, bất kể bản khí, trung khí, dư khí thấu hay không thấu. Khi bản khí không thấu, còn trung dư khí thấu can, thì nền tảng bản khí lập cách này luận thành biến cách.

2) Dùng can tàng nguyệt lệnh thấu ra để lập cách thủ dụng, thấu cái nào thì lấy đó lập cách, còn tất cả can tàng đều không thấu thì lấy bản khí lập cách thủ dụng.

Thử xem Trích Thiên Tủy luận nguyệt lệnh và xác định lập cách cục điểm ra sao. Chương Nguyệt lệnh viết rằng: nguyệt lệnh ví như phủ quan với lề lối khuôn phép, cũng như nhà cửa vậy, thì thần nắm lệnh là người sống trong nhà, phải định hướng nhà, không thể không xem hướng cho người sống trong nhà.

Câu không cần giải thích, rõ rành rành là nói đến vấn đề nguyệt lệnh và định cách cục.

Cách cục pháp hiện lưu hành, hoặc là lấy nguyệt lệnh bản khí lập cách thủ dụng, hoặc sẽ lấy can tàng trong nguyệt chi thấu can lập cách thủ dụng, không phải là không chú ý đến ý nghĩa thấu can mà là không nhìn đến nhân nguyên nắm lệnh. Như vậy, kiểu lập cách này chí ít cũng sai mất nửa, làm rất nhiều mệnh cục tự nhiên xem không chính xác. Điều này làm cho người yêu cách cục phái bị tổn thương.

Nhật hoa
19-06-12, 14:22
Chọn vài ví dụ điển hình là mệnh lệ có thực để nói cho rõ.


Khôn tạo:



Thực

Thương

nhật
Tài


Tân
Dậu
Canh
Dần
Kỷ
Tị
Nhâm
Thân



giáp-bính-mậu




Đại vận:





Tân Mão

Nhâm Thìn

Quý Tị
Giáp Ngọ


4 tuổi
1985
14
1995
24
2005
34
2015



Tứ trụ này trong nguyệt lệnh gồm Giáp mộc, Bính hỏa, Mậu thổ đều không thấu, nếu lấy Giáp mộc bản khí để lập Chính quan cách thì Thương quan Thực thần vượng thấu can, Thương quan gặp Quan mệnh nát như tương.

Trên thực tế thần nắm lệnh không thấu thì không thể lập cách, chỉ có thể chọn một chữ trong những Thiên can hoạt động mạnh nhất để lập cục. Lập được Thương quan cục, chọn thời thượng Tài tinh làm thành cục Dụng thần.

Dần Tị Thân tam hình Tài căn bị tổn thương, Thương quan cục đan xen giữa thành và bất thành. Số này đại phú đại quý khó cầu, tiểu phú tiểu quý thì đương nhiên.

Người này hiện là công chức ở trung ương, cũng có chức vụ nhất định. Người có bát tự vô cách mà hữu cục, sĩ đồ không phải là sự lựa chọn đầu tiên, theo đường cầu tài sẽ có trời giúp, đoán sau kỳ 34 tuổi sẽ bỏ chức vụ theo con đường kiếm tiền.


Càn tạo:



Thương

Thương
nhật
Thương


Bính
Dần

Bính
Thân

Ất
Mùi

Bính





canh-nhâm-mậu




Đại vận:





Đinh Dậu

Mậu Tuất
Kỷ Hợi
Canh Tý


6 tuổi
1992
16
2002
26
2012
36
2022



Trụ này can tàng nguyệt lệnh đều không thấu, nếu lập theo bản khí nguyệt lệnh kim là Chính quan cách, Thiên can đều một Thương quan, đồng thời Dần Thân xung làm tổn thương chân thần, cuộc sống sẽ không dễ chịu lắm. Thực tế Mệnh chủ sinh sau Lập thu 11 ngày, Nhâm thủy đương lệnh. Nhâm thủy không thấu không thể lập cách nên lập Thương Quan cục, chọn chân thần nắm lệnh là Nhâm thủy Ấn tinh làm thành cục Dụng thần, Thương quan phối Ấn tự hầu thành cách. Chỉ do Dần Thân xung, chân thần bị hao tổn, cách giáng làm cục, lại Thiên can tam Bính tương hỗn, cấp độ của cục giáng xuống thêm một bậc. Là mệnh tốt thuộc tầng lớp trung lưu, tiểu phú quý. Mệnh chủ hiện làm ở Tỉnh ủy, cấp Phó phòng, năm sau có thể thăng Trưởng phòng, tiền đồ rất tốt.


Càn tạo:



Tỉ

Kiếp
nhật
Tỉ


Tân
Hợi

Canh
Dần

Tân
Tị

Tân
Mão




giáp-bính-mậu




Đại vận:





Kỷ Sửu

Mậu Tý
Đinh Hợi
Bính Tuất


7
1978

17
1988

27
1998

37
2008




Tứ trụ này nếu lấy nguyệt lệnh bản khí lập cách là Chánh Tài cách. Tỉ Kiếp như rừng, Chánh Tài cách ắt hẳn rách bươm không nghi ngờ, Nhật chủ ứng với hạng người nghèo khổ.

Thực tế Tứ trụ này thần nắm lệnh không thấu, lập thành Kiếp tài cục. Kiếp tài hỷ có Quan Sát chế, Quan tinh Dụng thần đắc lệnh mà còn vượng tàng trong Địa chi, là một kết cấu bán thành phẩm, đợi đến khi Quan sát thấu ở Đại vận, cục thành, sẽ rất giàu có.

Mệnh chủ từ vận Mậu Tý rất nổ lực, làm rất nhiều nghề nhưng không kiếm được tiền, mãi đến vận Đinh Hợi, năm Giáp Thân mở café internet mới có tiền. Năm 2008 vào vận Bính Tuất, thu nhập tăng khá nhiều, hiện đã là một ông chủ nhỏ.

Nhật hoa
19-06-12, 14:23
Tổng kết:

1. Nguyệt lệnh không phải nguyệt chi bản khí, nguyệt chi bản khí và trung dư khí đều chỉ là thần nắm lệnh tiềm năng, rốt cuộc cái nào có thể trở thành chủ khí, thì phải dùng nhân nguyên tư lệnh ca quyết mà định đoạt.

2. Thần nắm lệnh chỉ khi thấu can mới có thể lập cách đầy đủ.

3. Thần nắm lệnh không thấu thì không có tư cách lập thành cách, chỉ có thể tìm thập thần là Thiên can tối hoạt để định hướng lập cục.


Nói thêm:

- Tử Bình thuật là trí tuệ kết tinh của tiên hiền, thái độ người học huyền học hiện nay không nên quan tâm đến sự chênh lệch trình độ so với cổ nhân một hai bực, mà chúng ta có thể làm là kế thừa phát huy những cái bất biến, phát triển cách tân này nọ chỉ là mộng ảo.

- Cách cục pháp không bằng vượng suy sinh khắc pháp không phải là vấn đề cách cục, mà là do chúng ta nông cạn cuồng vọng không nhìn ra được chân cơ của cách cục.

- Nếu bạn thật sự ái mộ cách cục, vậy xin hãy hạ mình xuống, không vì danh lợi, quý trọng tầm thường,... mà đi sâu vào khai mở những nan đề. Chúng ta có thể có cả ngàn nguyên nhân thất bại, nhưng không thể vịn cớ cho một nửa thất bại.

Nhật hoa
20-06-12, 14:11
Nguyệt lệnh và thực tiễn


Nguyệt lệnh là đề cương, nó không chỉ là nguồn lực chủ yếu của ngũ hành thập thần, mà còn là điểm gốc mô tả trạng thái thông tin mệnh cục, bao gồm phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung của đương số.

Nguyệt lệnh thể hiện các thông tin chính phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung, bí quyết chắt lọc thông tin chính là cát hung, hỷ kị của thập thần nguyệt lệnh.

Nguyệt lệnh cát thần:

- Nguyệt lệnh là bốn cát thần Tài, Quan, Ấn, Thực, khi cát thần không chuyển hóa thành hung thần hoặc không có sự can thiệp của hình xung hợp hại thì cuộc sống bình yên, phúc ấm trọn vẹn. Nguyệt lệnh cát thần làm dụng thần, không những bình an, may mắn, thông suốt mà còn phú quý cát tường.

- Nguyệt lệnh cát thần làm kị thần, lực của nó mạnh hoặc do yếu tố xung hợp hại can thiệp mà chuyển hóa thành hung thần thì liền mất đi cuộc sống bình yên, cát thuận mà theo đó thay bằng sự bất ổn, rối ren,... tai họa thường do cái miệng.

- Nguyệt lệnh cát thần làm kị thần lại có năm, tháng là kị thần vượng và hữu lực, nguyệt lệnh cát thần tuy không chuyển hóa thành hung thần nhưng mệnh cục thái trọc (quá đục) làm nhật chủ nghèo khổ (bần tiện), cuộc đời khó mà được bình an, trôi trảy.


Nguyệt lệnh hung thần:

- Nguyệt lệnh là 4 hung thần Sát, Kiêu, Thương, Kiếp; bất kể là hỷ kị đều thể hiện tính chất "xâm phạm", không xâm phạm đến người khác thì cũng bị người khác gây chuyện với mình, tai họa tổn thương; chỉ khi nguyệt lệnh hung thần có chế hóa hoặc làm dụng thần, các tổ hợp khác ở trong tình huống tốt, thuận thì "xâm phạm tính" mới giảm hẳn.

- Nguyệt lệnh hung thần mà là kị thần vô chế hóa, nhật chủ tất phải bị sát phạt. Cuộc sống từ bị hãm hại, mắc bệnh, thương tật, cho đến mắc vạ miệng hoặc kiện tụng, thậm chí tàn tật, chết yểu. Đặc biệt, khi Thất Sát, Thương quan là Kị vô chế hóa chiếm giữ nguyệt lệnh thì điềm tai họa càng mạnh.

- Nguyệt lệnh hung thần đang là dụng thần, hoặc là kị thần được chế hóa thì xâm phạm tính, tai họa các loại giảm thiểu rõ rệt, ngược lại thể hiện nhật chủ thông minh, lanh lợi tháo vát, ý chí quật cường, khá dễ dàng có khi chỉ một phen mà sự nghiệp thành công.

- Nguyệt lệnh hung thần là dụng thần, nhưng các tổ hợp khác rất bất lợi, như địa chi có kị thần, hung thần hình xung hợp hại hoặc thấu nhiều thiên can là tứ hung thần, nếu thế thì có thể khẳng định nhật chủ là người tính cách nhiều chuyện, bao đồng, tuy là người có năng lực, quyết đoán, nhưng làm việc quá tỏ vẻ, thường thường kiếm tiền khó đạt, cuộc sống lên xuống thất thường, tổn thương bệnh tật, quan tai khó đoán, rất dễ lâm vào tình trạng cực đoan. Theo đường bất chính, trái khuôn phép, pháp luật phần nhiều là loại người này.


Một số mệnh cục thuyết minh:

Càn tạo:



Thực

Ấn

Nhật

Thương



Mậu


Ất
Mão

Bính
Ngọ

Kỷ
Hợi



quý

ất

đinh-kỷ

nhâm-giáp





Mệnh cục này rõ ràng vượng, hỷ kiến Thực Thương tiết tú, Quan tinh cũng có tác dụng nhất định, dụng thần lưỡng thấu ở năm, giờ, mệnh cục lưu thông tương đối trôi chảy, tóm lại khá ổn.

Nguyệt lệnh là Chính ấn cát thần, nhật chủ cường nên không hỷ Ấn sinh, nhưng Ấn tinh lưu thông không vì quá vượng mà chuyển hóa thành Kiêu thần, càng không đi thương khắc Thực, Thương; bởi vậy tác dụng của Ấn tinh cát thần có thể hiển hiện. Nhật chủ có một cuộc sống bình an, may mắn trôi chảy, có vinh dự, hưởng phúc khí. Nhật chủ tốt nghiệp đại học, theo nghiệp giáo dục, năm 1992 -Nhâm thân được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng một trường trung học.


Càn tạo:



Quan

Ấn

Nhật

Kiêu



Quý
sửu

Ất
mão

Bính
thìn

Giáp
ngọ



kỷ-quý-tân

ất

mậu-ất-quý

đinh-kỷ





Mệnh cục thân vượng, Kiêu thần là kị thần, chọn Thực thần tiết thân phát tiết tinh hoa làm dụng thần. Nguyệt lệnh là Ấn tinh cát thần, cùng một dạng với ví dụ trên, lưu thông và không thương đoạt Thực, Thương. Bởi thế nên cũng mang điềm lành, may mắn, bình an, thông suốt. Tiếc là mệnh cục tồn tại tổ hợp Mão Thìn tương hại, đến năm Dần tạo thành Ấn cục dần mão thìn tam hội, liền biến thành Kiêu thần, sẽ mang tai họa thể hiện bởi Kiêu thần. Mệnh này cuộc đời tuy tương đối bình an, cát thuận, nhưng vẫn có thể mắc một số bệnh, xen lẫn vài cung đoạn hoạn nạn như bị giáng chức, thất nghiệp, không có được cái may mắn, bình an như mệnh cục trước. Thực tế nhật chủ là một giáo viên thể dục của một trường học, năm 1998 Mậu dần mắc bệnh phải xin nghỉ gần một năm.

(còn tiếp)

Nhật hoa
21-06-12, 12:28
(tiếp theo chương Nguyệt lệnh dữ thực chiến, sách Bát tự thực chiến bí pháp công khai - tác giả Vương Khánh - xb 2009)

VD3: nam bị ở tù



Càn tạo:

Ấn

Quan

nhật

Tỷ




Mậu
Tuất

Bính
Thìn
Tân
Mùi

Tân
Mão




mậu-đinh-tân

mậu-ất-quý

kỷ-đinh-ất

ất










Đại vận:

Sát

Ấn

Kiêu

Kiếp




Đinh
Tị

Mậu
Ngọ

Kỷ
Mùi

Canh
Thân




04 tuổi
1962

14
1972

24
1982

34
1992




Nhật chủ vì Ấn vượng nên thành vượng, do đó Ấn là kị thần, chọn Tài tinh chế Ấn làm dụng thần. Nguyệt lệnh đất thổ Chính ấn là kị thần, thìn tuất tương xung, thổ vượng mộc chiết, Ấn tinh vượng chuyển hóa thành Kiêu thần. Ấn tinh cát thần mang nghĩa bình an, may mắn mất đi thay bằng Kiêu thần là dấu hiệu tai họa. Nhật chủ trong công tác, sinh hoạt thường biểu hiện sự thiếu ổn định, lận đận, tổn tài, quan tai, bệnh tật,... Nhật chủ trình độ văn hóa cao trung, năm 1993 việc làm biến động bất lợi; năm 1995 được đề bạt; năm 1997 bị người ta lừa gạt một khoản tiền khá lớn 60 ngàn tệ, đồng thời do họa nghề nghiệp mà bị tạm giam, năm 1998 tòa phán quyết phải ở tù 4 năm.


VD4: Số chết yểu



Càn tạo:

Ấn

Tài

nhật

Kiếp




Canh

Bính

Quý
Nhâm




Tuất

Tuất
Mùi

Tuất




mậu-đinh-tân

mậu-đinh-tân

kỷ-đinhất

mậu-đinh-tân










Đại vận:

Sát


Lưu niên:

Quan




Kỷ
Tị



Mậu
Dần




23 tuổi
1993





29 tuổi
1998




Nguyên mệnh cục thân nhược, Quan Sát cường khắc chế thân thành bệnh, chọn Ấn tinh hóa Sát sinh thân làm dụng thần. Nguyệt lệnh Tuất thổ là Chính quan cát thần, thông thường điều này không thương hại đến nhật chủ; mệnh cục Quan tinh cường vượng, do yếu tố Tuất Mùi hình nhau mà Quan tinh chuyển hóa thành Thất sát, nguyệt lệnh cũng thành Thất sát. Nguyệt lệnh là Thất sát hung thần, lại vượng và hữu lực, nhật chủ sẽ bị thương tổn, bệnh tai, mang điềm chết hung. Năm 1998 Mậu dần, nhật chủ vô duyên vô cớ đột nhiên tử vong.


(còn tiếp)