PDA

View Full Version : Bàn luận về chủ đề Vương Khánh



kimcuong
15-06-12, 10:59
Ví dụ 2:



Kiếp

Tài

nhật

Tài



NHÂM

BÍNH

QUÝ
BÍNH



TUẤT

NGỌ
DẬU

THÌN



mậu-tân-đinh
đinh-kỷ
tân
mậu-ất-quý




Tài không nhược, lấy nguyệt thượng Chánh tài lập cục, Tài chỉ gặp Quan hoặc Thương mới thành cách, kị Tỷ Kiếp khắc. Quan tinh không thấu, lại còn gặp Kiếp --> cục bất thành, không nên cầu đại phú. Lại phải dùng tượng để luận.
Nói đến Tài cách cũng giống như các cách khác, đều nhớ 1 điều cơ bản về "khinh, trọng", tức là nhiều thì không sợ ít. Tứ trụ trên có Kiếp tài lộ ra phá Tài, nhưng Bính thấu 2, cung Mệnh có Đinh Mùi; Kiếp này không thể phá Tài. Cách cục vì thế không phải là bất thành. Tuy nhiên không cầu đại phú là đúng, vì Tài tinh Hỏa có khố (Tuất), nhưng Tuất KHÔNG VONG, nên sự trợ giúp của gia đình thân nhân kể như không có.


Lấy Tài lập cục, Tài vượng thân nhược, thành ra lấy Ấn Tỷ làm dụng thần của thể. Nhâm thủy thấu xuất khắc Tài phá cục, không thể là dụng của thể. Thiên ấn và Tài không có xung đột, chọn (Ấn) làm dụng thần của thể, giải thích cho nhật chủ có thể giàu, tiểu phú, mà không được sự trợ giúp của anh chị em, cha mẹ giúp cũng nhỏ nhoi. Trợ lực ở người ngoài, người giúp cho nhiều, vợ cậy được và bên vợ giúp cũng nhiều. Sự nghiệp ổn định trong đơn vị, là mẫu người phát triển khi ra ngoài.
Theo tôi, Nhâm thủy vẫn là dụng của cách Tài vượng thân nhược này. Thế mới hiểu ra sự biến hóa của cách; bởi vì nếu chỉ độc có 1 Nhâm thủy khắc Bính hỏa trụ tháng thì mới gọi là "kiếp tài phá tài", nhưng trụ giờ lại thấu Bính, Mệnh thấu Đinh, thì ngược lại NHÂM thủy là cứu cánh, vì nó làm dung hòa tứ trụ trở lại.


Đặc sắc của lá số là ở ngày giờ. Giờ là Chánh tài tọa Quan, là tượng Quan hộ Tài. Điều này giải thích bản thân đang làm ông chủ, 36 tuổi là ứng kỳ. Sau tuổi 36 sẽ chuyển nghề, trước đó công việc khá ổn định.
Thành chủ nhân là có quý khí. "Quý" trong tứ trụ thường là tìm ở Ấn tinh. Tài và Ấn không xuất ra để phá nhau thì Ấn tinh giữ được quý khí của nó. Ta thấy Thìn Dậu lục hợp, chính là Ấn "cố tình" tàng ẩn nên người này vừa tiểu phú lại giữ được quý cách. Trong thương trường là làm chủ nhân quán hàng của mình, hoặc có thể là quản lý chức vụ cao. Theo tôi, người này mà chuyển được sang chức vụ cao thì tốt hơn là tự làm chủ.


Ngọ Tuất hợp, thân thể tổn thương, tai nạn nghề nghiệp, thực ra trên người chỉ có điểm khác người, xem không thấy vết thương nhỏ là tốt rồi. Da dẻ không tươi nhuận, hệ thống tiêu hóa, hô hấp kém. Trong người nóng, kỵ rượu, khói, cay chua, bằng không dạ dày tổn thương nặng.
Điều này giải thích do Hỏa khí quá thậm, có câu "hỏa đa thổ tiêu" nên có thể gây bịnh ở vùng dạ dày là đúng. Nhất là khi có Dần biến thành tam hợp, thêm thiên can dẫn xuất thì chỉ tổn Tài thêm mà thôi.


Tôi dùng cách cục pháp để đoán, cùng với sử dụng vượng suy pháp để giải đoán thì thấy khớp nhau. Bất quá thì người khác đoán mệnh bạn thân nhược Tài vượng thì mệnh nghèo, tôi khẳng định không nghèo, sau 36 tuổi khá giàu, hiện nay (thời điểm viết bài là năm 2011) thu nhập cũng không thấp.
Đã nói qua, luận Cách và Vượng nhược là phân đoạn trước sau mà thôi, chứ không kể ra rặt ròi là 2 "pháp" khác nhau. Thân nhược hay thân vượng cần chú ý là ở những tứ trụ thiên khô thế này, ngoài ra, nếu tứ trụ khả dĩ bình hòa rõ ràng, lúc đó các mệnh sư sẽ không cần nhắc tới Vượng Nhược. Nhưng "không nói tới" không phải là không có nhận xét.

Mệnh này không nghèo, nhưng theo tôi, muốn có Tài thì vẫn nhất định phải đạt được Thực, gọi là "tài nguyên" của chính mình dồi dào bền chặt. Tuy thế, vận hành của người này quá tốt, mà ta cũng thấy rõ, từ Kim sang Thủy, ắt hẳn Kiếp Tài trong trường hợp này chính là "phá mà lập".

kimcuong
20-06-12, 12:04
Cách cục pháp hiện lưu hành, hoặc là lấy nguyệt lệnh bản khí lập cách thủ dụng, hoặc sẽ lấy can tàng trong nguyệt chi thấu can lập cách thủ dụng, không phải là không chú ý đến ý nghĩa thấu can mà là không nhìn đến nhân nguyên nắm lệnh. Như vậy, kiểu lập cách này chí ít cũng sai mất nửa, làm rất nhiều mệnh cục tự nhiên xem không chính xác. Điều này làm cho người yêu cách cục phái bị tổn thương.


Nhờ Bát Tự tìm hộ bảng "Nhân nguyên tư lệnh" mà Vương Khánh sử dụng. Nghe nói có nhiều bảng định ngày cầm quyền trong tháng khác nhau (Tam Mệnh Thông Hội, Uyên Hải Tử Bình...), vì số ngày của các bảng đều không giống nhau. Thí dụ tháng Dần Lập Xuân, Giáp 16, 18 hoặc 20 ngày?

Thêm nữa, có chương nào mà Vương Khánh giải thích nguồn căn của Can tàng trong địa chi không? Thí dụ, tại sao địa chi Tí chỉ tàng Quí, địa chi Dần tàng 3 can Giáp Bính Mậu?

kimcuong
20-06-12, 13:21
Càn tạo:



Tỉ

Kiếp
nhật
Tỉ


Tân
Hợi

Canh
Dần

Tân
Tị

Tân
Mão




giáp-bính-mậu




Đại vận:





Kỷ Sửu

Mậu Tý
Đinh Hợi
Bính Tuất


7
1978

17
1988

27
1998

37
2008





Tứ trụ này nếu lấy nguyệt lệnh bản khí lập cách là Chánh Tài cách. Tỉ Kiếp như rừng, Chánh Tài cách ắt hẳn rách bươm không nghi ngờ, Nhật chủ ứng với hạng người nghèo khổ.

Thực tế Tứ trụ này thần nắm lệnh không thấu, lập thành Kiếp tài cục. Kiếp tài hỷ có Quan Sát chế, Quan tinh Dụng thần đắc lệnh mà còn vượng tàng trong Địa chi, là một kết cấu bán thành phẩm, đợi đến khi Quan sát thấu ở Đại vận, cục thành, sẽ rất giàu có.

Mệnh chủ từ vận Mậu Tý rất nổ lực, làm rất nhiều nghề nhưng không kiếm được tiền, mãi đến vận Đinh Hợi, năm Giáp Thân mở café internet mới có tiền. Năm 2008 vào vận Bính Tuất, thu nhập tăng khá nhiều, hiện đã là một ông chủ nhỏ.

Thí dụ trên có thể liệt vào dạng ngoại cách "thiên nguyên nhất khí", tức thiên can toàn 1 ngũ hành, địa chi không phá được, Ấn tinh mạnh. Tị hỏa lại chứa Canh kim, Dần Hợi Mão không có Hỏa. Tài tinh là lệnh tháng, thân vượng, tất nhiên là số phú ông. Dùng Thủy thông quan (Kim-Thủy-Mộc) nên vận Hợi phát tài. Nhưng tứ trụ này lại phá cách ở Thân Dậu tọa Không! Chính vì thế mà số tiểu phú.

Đang đề cập đến số ngày hành quyền, sao không thấy nhắc Giáp là tư lệnh? Vì sinh ngày 25.2 sau Vũ Thủy thì mọi sách vở đều ghi nhận là Giáp hành quyền. Mà Giáp chính là Tài tinh ẩn trong Dần.

Người này nếu theo kiểu "nhân nguyên hành quyền" xét hay không xét, thì TÀI vẫn là Cách. Vấn đề là cách phối thế nào trong bát tự, chứ chỉ nói đến Cách không là chưa đúng.

Phối cách thì cơ bản không cần nhất thiết nguyệt lệnh phải thấu can. Nhìn các thiên can lộ ra để kết hợp với lệnh tháng, đồng thời kết cấu với địa chi, cung mệnh, thần sát (KV là 1 thần sát) mà xác định Cách. Sau đó lại xét đại vận để biết Cách thành bại ở mức độ nào.

Vì thế, không phải xét theo Cách là nhất định phải thấu can thì mới gọi là Cách!

Lại gặp ngoại cách thì theo ngoại cách mà luận.

Đã gọi là biết bàn luận đến Cách Cục, thì không thể không chịu khó đọc hết các ngoại cách. Tiền nhân chẳng chấp nê vào 8 cách hay thấu can mà thôi, đó là điều mà hậu nhân cần nắm rõ trước khi phản luận.

Nhật hoa
20-06-12, 14:18
1.Nhờ Bát Tự tìm hộ bảng "Nhân nguyên tư lệnh" mà Vương Khánh sử dụng. Nghe nói có nhiều bảng định ngày cầm quyền trong tháng khác nhau (Tam Mệnh Thông Hội, Uyên Hải Tử Bình...), vì số ngày của các bảng đều không giống nhau. Thí dụ tháng Dần Lập Xuân, Giáp 16, 18 hoặc 20 ngày?

2.Thêm nữa, có chương nào mà Vương Khánh giải thích nguồn căn của Can tàng trong địa chi không? Thí dụ, tại sao địa chi Tí chỉ tàng Quí, địa chi Dần tàng 3 can Giáp Bính Mậu?

1. Theo Trích Thiên Tủy. [Có thể sai lệch là do Trung quốc trải dài trong 5 múi giờ quốc tế, các ông tác giả ở mỗi múi có cách định nhân nguyên tư lệnh khác nhau chút xíu.]

2. Không có.

kimcuong
21-06-12, 11:36
Số ngày hành quyền trong các tháng nguyên từ Nhị Thập Bát Tú mà tính ra. Khi xưa chưa biết đến múi giờ nên chắc đúng là vì thế mà các tác giả có số ngày khác nhau... :)

Trong Tích Thiên Tủy chương Nguyệt lệnh có câu:


...như dần nguyệt sanh nhân ,lập xuân hậu thất nhật tiền ,giai trị mậu thổ dụng sự ,bát nhật hậu thập tứ nhật tiền ,bính hỏa dụng sự ,thập ngũ nhật hậu ,giáp mộc dụng sự ,tri thử tắc khả dĩ thủ cách ,khả dĩ thủ dụng hĩ...

= người sinh tháng Dần, tính từ Lập Xuân, 7 ngày đầu Mậu thổ nắm lệnh, rồi đến Bính hỏa 8 ngày, cuối cùng mới là Giáp 15 ngày. (tổng cộng 30 ngày)

Ở quan điểm này, ta trở lại tìm hiểu thì thấy khi xưa cổ nhân mới chỉ tính từng ngày khi định sự cát hung, thí dụ ngày Giáp Dần mà thuộc thời khắc của Mậu hay Bính thì không tốt bằng thời khắc của 15 ngày cuối trong tiết Lập Xuân, vì Giáp vượng nhất. (Thời xưa tính thiên văn qua cung Hoàng đạo với 28 vì sao gọi là Nhị thập bát tú; các mệnh lý gia suy diễn thêm sự tốt xấu cũng từ đấy thôi).

Sau này dùng trong bát tự Tử bình, các mệnh gia mới định "nhân nguyên dụng sự" giữa các trụ với nhau; thí dụ người có thiên can trụ ngày là Giáp mà sinh tháng Dần thì tính rõ sinh ngày giờ nào, trong thời khắc của Bính, Mậu hay Giáp, rồi lấy đó làm "lệnh".

Nhưng dù chúng ta có được 5 bảng khác nhau cho 5 múi giờ Trung quốc, sẽ thấy bản khí của tháng đều được xếp rơi vào khoảng 15 ngày cuối của tháng, như tháng Dần có 2 tiết Lập Xuân và Vũ Thủy, mỗi tiết 15 ngày. Sau Vũ Thủy thì tất cả bảng đều định bản khí Giáp là lệnh, tức là Giáp hành quyền 15 ngày.

Vậy trước Vũ Thủy thì định Mậu hay Bính? Và định bao nhiêu ngày? Chỗ này thì nhiều ý kiến khác nhau về số ngày.

Về cơ bản thì ta thấy tháng Sửu (Tiểu Hàn-Đại Hàn) có Kỉ Quí Tân; nếu Kỉ là "lệnh" từ tiết Đại Hàn, tức là 15 ngày sau, sang đến Lập Xuân thì Thổ còn dư khí ở những ngày đầu, nên mới nói Mậu chiếm lệnh 7 ngày. Có nơi giải thích là Bính sinh Mậu, nên để Bính trước Mậu, v.v...

Hiểu sang vòng trường sinh thì ta sẽ thấy quan điểm Sinh-Vượng-Mộ của ngũ hành trong các can tàng. Thật tế thì 1 địa chi không chỉ "tàng" 1 hay 2, 3 can tàng, mà các thiên can đều tuần tự đi qua đủ 12 cung của địa chi, tức là có đủ Tử, Tuyệt, Thai, Bệnh....v.v.... Nhưng các cung đó không được dùng làm "dụng sự" (hiểu là hữu dụng cho mình). Ý chính là chúng ta nên nhìn vào những can tàng được xem là hữu dụng đó mà lấy làm "lệnh" để dùng trong cuộc đời. Đúng là chẳng ai khuyên ta dùng Kỉ trong Dần làm dụng sự cả, vì Kỉ thổ tử ở Dần. Ngược lại, Giáp sinh tháng Dần thì cần dùng Mậu, Bính hay Giáp là tốt nhất, vì Giáp được lâm quan, Bính Mậu được trường sinh.

Chuyển sang thập thần thì Giáp là Tỉ kiên, Bính là Thực thần và Mậu là Thiên tài. Từ đó chúng ta mới hiểu được quan điểm của can tàng có liên đới với hệ thống định Cách Cục hiện nay là như vậy.

kimcuong
21-06-12, 20:59
VD3: nam bị ở tù



Càn tạo:
Ấn

Quan

nhật

Tỷ




Mậu
Tuất

Bính
Thìn
Tân
Mùi

Tân
Mão




mậu-đinh-tân

mậu-ất-quý

kỷ-đinh-ất

ất










Đại vận:
Sát

Ấn

Kiêu

Kiếp




Đinh
Tị
Mậu
Ngọ
Kỷ
Mùi
Canh
Thân



04 tuổi
1962
14
1972
24
1982
34
1992




Nhật chủ vì Ấn vượng nên thành vượng, do đó Ấn là kị thần, chọn Tài tinh chế Ấn làm dụng thần. Nguyệt lệnh đất thổ Chính ấn là kị thần, thìn tuất tương xung, thổ vượng mộc chiết, Ấn tinh vượng chuyển hóa thành Kiêu thần. Ấn tinh cát thần mang nghĩa bình an, may mắn mất đi thay bằng Kiêu thần là dấu hiệu tai họa. Nhật chủ trong công tác, sinh hoạt thường biểu hiện sự thiếu ổn định, lận đận, tổn tài, quan tai, bệnh tật,... Nhật chủ trình độ văn hóa cao trung, năm 1993 việc làm biến động bất lợi; năm 1995 được đề bạt; năm 1997 bị người ta lừa gạt một khoản tiền khá lớn 60 ngàn tệ, đồng thời do họa nghề nghiệp mà bị tạm giam, năm 1998 tòa phán quyết phải ở tù 4 năm.

Cách cục là Chính Ấn (Mậu thổ trong Thìn). Thấy nhiều Ấn đã là phá cách (Tuất Thìn Mùi -cung mệnh cũng là Tuất-), khỏi cần xét kỹ. Nếu không tòng được thì lại càng khó khăn cho đương số. Tân kim trụ giờ thấu ra là điểm ngăn trở cách tòng cường. Tứ trụ loại vào thân vượng, dùng Thực và Tài. Thổ chính là kị thần; điểm đáng nói là có tam hình Thổ; Tuất xung Thìn là dở, vì Tuất KV đáng lý giảm bớt lực của Thổ, nhưng được Tuất xung nên trở lại có động.

Động tam hình thì ứng ở hạn có đủ tam hình, đấy là năm 1997 Đinh Sửu, có đủ Sửu Tuất Mùi. Bắt đầu phạm pháp cũng là do nguyên cục Quan tinh bị hợp (Bính Tân hợp). Thường ta hay nghe nói Quan Ấn có liên hệ mật thiết nghĩa là như vậy. Một trong hai có tật thì lôi kéo cái kia theo. Ở cuộc đời vẫn thường do quan chức mà thất tín (quan-ấn), do hành vi phạm lỗi mà danh tiếng bị lôi xuống theo (tỉ-thực). 1998 Mậu Dần, đáng lý được Dần Mão Thìn là tốt, nhưng Mậu cái đầu, trong Dần có Vong thần (cũng gọi là Quan phù), xung Thân đại vận, nên hậu quả là lãnh án.