PDA

View Full Version : 20 câu hỏi về vấn đề Thập thần



Hùng804
28-04-15, 08:34
20 câu hỏi về vấn đề Thập thần


1, Hỏi: Trong Lục thần quan trọng nhất là Chính Quan, có xuất hiện ở trụ năm, trụ tháng, trụ ngày, trụ giờ; có xuất hiện ở trên can, ở trên chi. Nó ở nhiều chỗ khác nhau, từng đại biểu là có ý tứ gì chứ?
Đáp:
1, Trụ năm là cung tổ nghiệp, Chính Quan ở trên trụ năm là biểu thị tổ tiên tài hoa. Trụ năm là vận hạn lúc thiếu niên, lại biểu thị thời thiếu niên vinh quang, xuất thân ở gia đình làm quan, lúc nhỏ thì có thể được một phần sự nghiệp lý tưởng.
2, Trụ tháng là cung cha mẹ, lại là đại biểu cho thời vận lúc thanh niên của một người, trên trụ tháng có Quan tinh, rất là quý báu, bất luận là ở can hay ở chi đều là vật vinh hiển. Như lâm trường sinh, lộc địa hoặc nơi Ấn thụ, đều là người có chức vụ quan hiển quyền hành, nếu tuế vận lại hành Tài địa, làm quan một thăng hai, dẫn đến làm thần thị vệ cho Hoàng đế. Trụ Quan tinh này lại thuyết minh là thế hệ của cha cũng là người làm quan, bản thân là người kế nghiệp chức vụ, thanh niên, làm quan đều hanh thông.
3, Chi ngày có Quan tinh đại biểu bản thân dễ dàng được quan chức.
4, Trụ giờ có Quan tinh, biểu thị bản thân được làm quan hơi muộn, cuối đời được bầu bạn làm quan; giờ lại là cung con cái, lại thuyết minh tương lai con cái cũng vinh quang, cũng là người làm chính trị, bản thân lúc về già danh vọng cao, lại được vinh con cháu. Quan tinh xuất hiện ở trên can là người có quyền thế, Quan tinh ở trên chi là bị đè, tức là nói "Quan nên lộ, Sát nên tàng" .

2, Hỏi: Chính Quan phải sinh vượng thanh thuần, sao gọi là sinh vượng thanh thuần?
Đáp:
Phàm là lấy Quan tinh làm dụng thần, Quan tinh phải đắc địa mà Quan tinh lại không tạp, mới gọi là thanh thuần, mới là quý mệnh. Đại để có mấy loại như sau:
+ Một là, Chính Quan là thuần hòa nho nhã quý nhân, phẩm tính đoan chính, liêm khiết, Quan tinh vượng, có Ấn thụ, Quan sinh Ấn, Ấn sinh Thân, lưu thông có tình, gọi là thanh thuần. Như Quan tinh suy nhược, hỉ Tài sinh Quan, khiến cho Quan tinh khởi nên sinh vượng, cũng gọi là thanh thuần, hai loại tình huống này đối với Quan tinh đều không có tổn thương, cho nên thanh thuần. Nếu như thân vượng Ấn trọng, lại hỉ Tài đến phá Ấn sinh Quan, khiến cho Quan tinh trung hòa, cũng gọi là thanh thuần.
Quan, tức là Lộc, nó là vật để vinh thân, ai mà chẳng muốn, nếu như trong tứ trụ nhiều Tỉ kiên, Dương Nhận, chỉ có một vị Quan tinh, tất nhiên tranh đoạt mà dẫn đến tai họa, thì gọi là không thuần. Loại tình huống này, không bằng vận đến Thương quan, thương tận Quan tinh, chỉ còn lại Tỉ kiên, không có tranh đoạt, thì lòng người an định, cũng là thanh thuần. Chính Quan thanh thuần, nếu như có Thiên Quan tạp loạn, quyền không quy về một mối, cũng gọi là không thuần. Chỉ có vận Thực Thương, hóa khử Sát tinh, chỉ lưu lại Quan; hóa khử Quan tinh, chỉ lưu lại Sát, cũng gọi là thanh thuần.
Chính khí Quan tinh, độc lập là cường, nếu có ba vị, bốn vị Quan tinh lâm vào tứ trụ, là vì quan mà bôn ba lao lụy, quan không chuyên nhất, cũng là không thuần. Nhật can vô khí, càng không có quan chức, Quan tinh suy nhược gọi là vô khí, như không có Ấn thụ thì không vinh, quan lâm trường sinh, quan tất hiển đạt, Tài Quan Ấn tam tinh tương sinh đắc dụng, là làm quan tiến tước.
Quan lâm ở can tháng gọi là quan nắm quyền, tàng ở địa chi là bị chế quan, có Quan không có Tài là quan thanh bần, Tài đa Quan vượng là quan tham tài. Quan tinh hỉ Ấn, không hỗn tạp Tài, hỉ Tài mà không tạp Ấn; Quan khinh không tạp Tỉ Kiếp, Quan tinh không có Tài không hỗn tạp Thương quan đều là thanh thuần, trái lại là không thanh thuần.

Hùng804
28-04-15, 08:35
3, Hỏi: Trước mắt các loại sách mệnh phồn tạp, có sách đem Thiên Quan gọi là Sát hoặc Sát, có sách gọi là Thiên Quan, thì cuối cùng thuyết pháp nào là chính xác?
Đáp:
Sát đồng nghĩa Sát, đều là ý sát phạt, ở trong mệnh học, lấy thân vượng thân nhược mà luận. Thân vượng, Ấn trọng, Tỉ kiên, Dương Nhận nhiều là hỉ Sát, thì gọi là Thiên Quan, là một vị Tướng tinh. Thân nhược bị khắc phạt, Quan biến thành Quỷ, thì gọi là Thất Sát, là tinh sát thân, gọi là Quỷ. Dương là dương quỷ, âm là âm quỷ, ở trong chi thì gọi là Ám quỷ. Sát ở giữa thiên can cách 7 vị mà tương khắc, cho nên gọi là Thất Sát.

4, Hỏi: Thất Sát nhập mệnh cách cục rất không thống nhất, nghe nói trong tứ trụ lấy Thất Sát dụng Tài, Thất Sát dụng Ấn, Thất Sát dụng Quan, Thất Sát dụng Thực Thương, Thất Sát dụng Tỉ … vậy phương pháp sử dụng phân biệt như thế nào?
Đáp:
Thất Sát là người hung bạo, rất thích công thân, ở anh hùng hào kiệt, là tướng công hầu trong bát tự phần đa là có Thất Sát, cho nên có tài năng làm một phen công trạng kinh thiên động địa, trong đó nguyên nhân chủ yếu chính là được chế phục, thân Sát tương đình, sau đây là nói một ít tình huống sử dụng.
+ Thất Sát dụng Tài, chỗ sử dụng phương pháp là khác nhau. Như nhật can thân cường, Thực thần vượng, Thất Sát nhược, có thể dụng Tài tinh cướp tiết lực vượng của Thực Thương, Tài lại có thể sinh Thất Sát phù Sát nhược, đây gọi là Tài tư Sát nhược. Lại còn có một loại tình huống là thân cường dụng Thực thần chế Sát, mà thiên can thấu Ấn đoạt Thực, dụng Tài tinh khử phá Ấn hộ Thực, đạt đến công hiệu Thực chế. Lại có một tình huống, nhật chủ thái nhược vô lực, nếu như Thất Sát thái quá, trong tứ trụ lại có Tài tinh tư vượng Sát, nhật chủ càng nhược, thân không có chỗ dựa, chỉ có bỏ mệnh mà tòng theo Sát, hoặc là theo nghề lính, hoặc làm nghề võ, thì có thể miễn đi họa bị sát hại. Một cục Sát vượng, Tòng Sát, thân nhập đất Sát vượng mới phát phúc.
+ Thất Sát dụng Ấn, mấu chốt là ở Ấn, nhật chủ nhược, Thất Sát vượng, tối kỵ Tài tinh phá Ấn, Ấn thụ thân vượng, đều là quý cách, chỗ này gọi là Sát Ấn hữu tình. Nếu như Tài phá Ấn, Sát công thân, là mệnh bần tiện. Thất Sát dụng Thực chế, là đứng đầu thượng cách. Cần phân ra can dương, can âm. Can dương cần nhật nguyên thân kiện vượng, can âm không sợ Sát cuồng, chỉ yêu cầu là có Thực chế.
+ Thất Sát dụng Thực chế, trong tứ trụ không hỉ thiên can lộ Tài thấu Ấn, Tài có thể sinh Sát, Ấn có thể đoạt Thực hộ Sát, nếu Sát cường Thực tiết mà Ấn lộ, là tiện cách. Sát dụng Thực chế, quý ở trung hòa, Sát khinh trợ Thực, Sát Thực cân bằng, nhật chủ căn vượng, đều là cách phú quý. Nếu nhật chủ khinh, độc Sát là cường, một Thực có thể cầm giữ, thì hỉ dụng Ấn. không có Thực thần, hoặc gặp hình xung, hóa hợp gọi là Địch phục binh, đại vận nhập đất chế Sát, là thành danh tiến tước. Thất Sát mang Quan, gọi là Quan Sát hỗn tạp. Quan lộ Sát tàng gọi là Tòng Quan, Sát lộ Quan tàng gọi là Tòng Sát. Chính Quan thanh chính, Thất Sát hung ngoan, như Quan vượng tạp Sát, lễ nghĩa khó truyền, thế Quan không thể xác lập, như Sát vượng tạp Quan, kẻ ác không thể hóa thiện, nên khử Quan lưu Sát, hoặc khử Sát lưu Quan, cách cục lại có thể thanh chính. Nếu như trong bát tự Chính Thiên Quan cùng thấy, một Ấn có thể hóa mà hàng phục. Ngày giờ quy về đất Ấn, là hóa Sát hữu tình. Ngày sinh Sát Ấn, tự hóa giải không có hại.
+ Thất Sát dụng Nhận, Dương Nhận là Kiếp tài. Quyền trong bát tự, là Sát vậy, là nhận binh quyền vậy. Thân vượng cùng Sát cân bằng, là mệnh tướng soái, uy trấn Càn Khôn. Sát vượng hỉ hành đất chế, Nhận vượng hỉ hành đất Sát vậy, nguyên cục Sát vượng hành đất Sát, kiến công lập vinh, khó miễn chết ở dưới đao kiếm. Nhận nhiều lại hành đất Nhận, lúc tiến lộc được tài, chết bởi do ăn thuốc độc. Hai vật Sát Nhận, Sát khinh Nhận trọng hỉ trợ Sát, Quan vận không có lo. Nhận khinh Sát trọng, cần chế phục, nguyên cục không có Thực Thương càng tốt, nhưng hành Quan vận là có hại, Thất Sát Dương Nhận cùng cân bằng, mang hợp có căn, là mệnh tướng soái. Như Vong Thần Kiếp Sát gặp lâm quan, đế vượng, là vũ công siêu quần, anh dũng đội mũ ba quân.

Hùng804
28-04-15, 08:36
5, Hỏi: Trong bát tự, có người có Quan tinh, có người không có Quan tinh, người có Quan tinh lại nói là người này mệnh tiện, lao lục không làm quan; người không có Quan tinh trái lại nói là người này Quan tinh sinh vượng, thì làm quan, đạo lý này là sao vậy?
Đáp:
Bạn hỏi vấn đề này, hàm ý rất sâu. Muốn trả lời nó cần phải theo bản thân bát tự cường vượng, suy nhược phía trên mới có thể rõ ràng. Một là, người bát tự sinh vượng, có thể mới gánh nặng chức vụ, như người có thân cường lực tráng, đang ở thời kỳ phong hoa tao nhã, chính là thời gain theo đuổi một phen sự nghiệp, trong bát tự tuy không có Quan tinh, nhưng trong tuế vận đem nâng đến Quan tinh, Ấn tinh, đúng lúc làm được, thì có thể đảm nhận làm quan. Có người, trong bát tự tuy có Quan tinh, nhưng bản thân thân vượng Quan khinh, Quan tinh lại không có Tài tinh tư sinh, bốn phía có Thực Thương bao vây, chỗ Quan tinh ở xứ tử địa, mộ địa, tuyệt địa, đất thụ khắc, đất không vong, tuy có cũng như không, cho nên mà không không làm quan. Có người thân nhược, có Quan tinh, nhưng lại hỗn tạp Sát tinh, lại không có Ấn tinh sinh thân, bản thân suy nhược, tai bệnh triền thân, lại càng không thể đảm nhận chức vụ, cuối cùng người này là mệnh tiện, bần khổ.

6, Hỏi: Thất Sát tuy vượng, có công chế, nhưng xuất hiện ở năm, tháng, ngày, giờ từng chỗ thì có tác dụng gì?
Đáp:
1, Trụ năm Thất Sát, thân vượng, thuyết minh tổ thượng hoặc đời của cha mẹ có uy vũ cương cường, danh môn thế gia tướng soái, mất nguyệt lệnh, là thanh hàn bần khốn.
2, Thất Sát ở trụ tháng, có chế, quan cư nhất phẩm, gặp Ấn, Sát Ấn tương sinh, công danh hiển đạt. Sát là võ nghệ, Ấn là văn chương, có Sát không có Ấn là thiếu văn chương, có Ấn không có Sát thì thiếu uy phong, Sát Ấn song toàn, văn võ đều có, có quyền là dụng Sát không dụng Ấn.
3, Ngày sinh có đóng Thất Sát, một cửa tướng tài.
4, Can giờ đóng Thất Sát, dấu hiệu đại quý, gọi là Thời thượng nhất vị quý. Nhưng kỵ thấy Chính Quan hỗn tạp, trái lại là mệnh khổ bần khốn. Trụ giờ lại là cung con cái, Thất Sát có chế, nam mệnh nhật chủ dương được con trai, nhật chủ âm được con gái; nữ mệnh nhật chủ dương được con gái, nhật chủ âm được con trai, mà còn lúc về già sinh ra quý tử.

7, Hỏi: Sao gọi là Quan Sát hỗn Sát? Cụ thể ở trong tứ trụ thể hiện như thế nào?
Đáp:
Quan là Chính Quan, Sát là Thất Sát, cả hai minh thấu ở thiên can tứ trụ gọi là hỗn tạp, minh thấu 2 Quan hoặc là 2 Sát gọi là trùng điệp. Quan Sát tàng ở địa chi không lấy hỗn tạp luận. Như Giáp lấy Tân là Quan, thiên can thấu Tân lại thấu Canh gọi là hỗn tạp, thiên can thấu 2 Tân hoặc là 2 Canh gọi là Trùng điệp. Địa chi 2 Dậu cùng thấy thì không gọi là trùng, Thân Dậu cùng thấy thì không lấy hỗn tạp mà luận.
Trong tứ trụ, Quan Sát cùng thấy, cũng không lấy hỗn tạp luận, dụng Ấn hóa Sát, không kỵ Quan tinh, dụng Tài sinh Quan, tối kỵ Thất Sát tương hỗn, dụng Thực chế Sát, mà nguyên cục cùng thấy Quan Sát, Quan nhiều thì tòng Sát, cũng không lấy hỗn tạp mà luận. Nhưng quan trọng là phải có can chi trụ tháng đều có Quan Sát nắm lệnh lại tổn thương thân. Bát tự mệnh cục là như vậy, trong hành vận cũng luận giống vậy. Như Giáp dụng Tân Quan thấy Dậu, hành vận thấy Canh là hỗn, thấy Thân không phải là hỗn. Thấy Tân là trùng điệp, thấy Dậu thì không phải luận là trùng. Còn lại dựa theo chỗ này mà luận, bát tự là vô cùng biến hóa, hay là ở thông biến, thiên vạn không thể cố chấp mà luận.

Hùng804
28-04-15, 08:37
8, Hỏi: Bên trên khó mà hiểu hết được ý nghĩa nói về Thất Sát, dưới đây nghe qua một chút về phương pháp sử dụng Chính Tài.
Đáp:
Tài là tiền lương, là nguồn dưỡng mệnh, ở trong mệnh người không thể không có. Thực Thương là gốc của Tài, cho nên Tài hỉ Thực sinh, can tháng có Thực thần sinh Tài, là mệnh đại phú, Tài làm trở ngại chủ, thân khinh hỉ vận Tỉ Ấn, thân vượng hỉ vận Tài Thực, không kỵ Thất Sát, Chính Quan lại nghịch.
Tài là vật chỗ người ưu ái, được vinh hoa, trong tứ trụ nếu Tài tinh đắc cục, không có Thất Sát, rất sợ Dương Nhận làm họa, như tuế vận gặp nhiều Dương Nhận Kiếp tài phá cục, sẽ có họa tang gia tù ngục, sầu lo thương thê khắc tử. Như thân nhược Tài vượng, hành Tài lâm đất trường sinh đế vượng, gọi là Tài khí thái quá, vì tàimà chết. Như trong tứ trụ Thất Sát chuyên quyền, nhật chủ bị áp chế thân càng nhược, không dụng Tài, trong tuế vận gặp sinh phù, vận Tỉ Ấn, hoặc có Tỉ Kiếp thấu lộ ở can, phù thân địch Sát, gọi là Tài đa thân nhược hỉ sinh phù, Tài tinh đắc dụng. Nếu can không thấu Tỉ Kiếp, vận không gặp Tỉ Ấn, lại hành vận đất Tài, tất vì Tài mà gây ra họa, tai hại đến thân, gọi là Tài đa thân nhược lại thành hại.
Tứ trụ Tài tinh, không có Tỉ Kiếp tranh đoạt, an nhiên không sao, Tài lâm Tài khố, an định là phú ông, như gặp hình xung, khiến cho trong khố ám tàng Tỉ Kiếp xung ra, gọi là họa cướp trộm. Là Điểu ăn mất, bởi vì tài chết. Trong bát tự Tỉ Nhận phục tàng, không gặp Tài không có tranh đoạt, nếu như trong trụ có Tài, tuế vận gặp Tài, e rằng sẽ khởi Tỉ Kiếp tranh đoạt làm họa, hình hao hại vợ.
Tài, là Mã, minh thấu thiên can, Tỉ kiên không dám tranh đoạt, rất sợ đất tam hợp và lục hợp, Tỉ kiên thừa cơ âm thầm trộm cướp, là họa không nhẹ. Tài tàng trong khố, Tỉ kiên sẽ trộm lấy tài, gặp năm xung, giống như Mã ở ngoài đường vậy, mọi người đều tranh đoạt.
Tài, là căn cơ của Quan, Quan là phúc, thân cường hành ở hai xứ, là danh lợi xuất trần. Quan hành Quan vận, lộc quá dư, Tài hành Tài vận, bổng có dư, là vì bổng lộc quá dư, tất nhiên tham ô bãi chức. Tài mang Thương quan, người đeo Ấn, có Tỉ Kiếp, lấy Thương quan sinh Tài là đẹp, thân nhược lấy Tỉ Kiếp bang thân là cát, tứ trụ sử dụng phối hợp. Tài mang Thất Sát, bất luận hợp Sát, hay chế Sát, tuế vận hỉ hành Thực Thương thân vượng. Tài mang Sát Ấn, hỉ Ấn kỵ Tài, tuế vận Thực Thương rất là cát lợi.

9, Hỏi: Tài tinh ở trên tứ trụ có tác dụng gì?
Đáp:
Trụ năm có Tài tinh, biểu thị tổ cơ phú hào có quyền thế, bản thân lúc thiếu niên đắc chí, gặp Kiêu Ấn, Kiếp tài, Thương quan, tổ nghiệp phá tài. Trụ tháng có Chính Tài, tài vận cả đời phát đạt. Có Chính Quan là nắm quyền làm quan, có Thất Sát, thân nhược là bần khốn, gặp Thực thần là phú ông, gặp Thương quan, có sinh Tài, trước Ấn sau Tài, là người khốn đốn vô phúc, ngày sinh tọa dưới Tài, điền viên vạn khoảnh. Trụ giờ có Chính Tài, con cái vinh hoa phú quý, về già tài sản phong hậu. Can giờ có Chính Tài, thai đầu là con trai.

Hùng804
28-04-15, 08:38
10, Hỏi: Trong quá trình luận mệnh, các loại dụng thần bát tự không phải chuyên nhất, là Ấn thụ mà nói, có thân vượng Ấn lại nhiều, Ấn thiếu thân lại nhược, thân vượng mà Ấn khinh hoặc thân khinh mà Ấn trọng, thân nhược mà nhiều khắc tiết …, làm sao mà thủ dụng Ấn thụ ?
Đáp:
Lúc luận mệnh, sắp xếp bát tự tứ trụ, có Quan và Ấn, Tài và Quan, Quan và Thực Thương .. lẫn lộn lẫn nhau, thì thủ Ấn yêu cầu lấy Ấn thanh thuần, lấy hỉ kỵ bát tự khác nhau mà thủ dụng thần. Trước tiên phân ra thân cường thân nhược, thân cường thấu Quan thấu Ấn, không sợ Quan tinh quá nhiều, Quan tinh ít hỉ Tài sinh Quan phá Ấn.
Thân nhược dụng Ấn, kỵ Tài phá Ấn. Thân vượng, Quan thấu Ấn nhiều, hỉ Quan cướp tiết Ấn. Thân vượng Ấn cường, hỉ Thực Thương tiết thể làm dụng, hoặc là hỉ Tài phá Ấn sinh Quan, thân vượng bảo vệ không phá Quan, thân nhược bảo vệ không phá Ấn, đều là yêu cầu Ấn thanh.
Ấn là sao nhân từ, vật thực quyền, gặp Tài thì sẽ không giữ gìn thanh danh bản thân. Nếu như trong tứ trụ, Ấn thụ sinh vượng, thì không cần Quan Sát đến tư sinh, lại hành nhập đất Quan Ấn, làm quan thanh cao. Nếu hành đất Tài, Ấn thụ bị khắc, trong bát tự không có Tỉ Kiếp giải cứu Ấn tinh, thì sẽ bãi chức về hưu, trở về cố hương, thương khắc nặng thì sẽ chết ở đất khách, đây gọi là làm quan tham tài tất nhiên phải mất chức. Như có Tỉ Kiếp phân đoạt Tài tinh, thì có thể bảo vệ Quan tinh.
Trái lại, thân vượng Tài vượng, là vinh hoa. Nếu như lại hành đất Tài vượng, Tài đa mà lực bất tòng tâm, thì cần có Ấn vượng, lưu niên tương sinh trợ giúp, trái lại có thể tiến tước thăng quan, thì không thể lại xem là tham Tài mà phá Ấn. Ấn lại phân ra khinh trọng, phàm trong mệnh cục, Ấn trọng Sát khinh, cuối cùng không thể vinh quý, phải hành đất Tài vượng, khắc khử Ấn quá nhiều, làm cho Sát Ấn bằng nhau, tất nhiên quý hiển. Nếu như Ấn khinh phùng Tài, khắc khử Ấn tinh, Sát tinh thừa vượng, lại là đại hại, thì đây gọi là Ấn đa hỉ Tài, Ấn thiếu sợ Tài. Ấn có thể giải nguy lưỡng Sát, Ấn là Ấn chương, thượng cấp nhận thừa quyền ấn. Thiên can tứ trụ thấu ra 2 Sát, không có Thực thần giải cứu, có Thực thần lại có Kiêu thần đoạt Thực thần, là tối hung, dụng Ấn hóa Sát, có Ấn quyền Thất Sát hàng phục, phú quý siêu quần.

11, Hỏi: Tứ trụ Ấn thụ đối với mệnh cục có ảnh hưởng gì?
Đáp:
1, Chính Ấn ở trụ năm, biểu thị tổ tông một thời có tu dưỡng văn hóa, tọa Quan sinh Ấn, là phú quý vinh hoa. Lại đại biểu bản thân được ân đức của tổ thượng, thế hệ gia đình xuất thân làm quan, lúc nhỏ học nghiệp thành danh. Thiên Ấn là hung tinh, là sao vong ân phụ nghĩa, thương tàn, cô độc, nếu ở trụ năm, chủ tổ nghiệp phá sản, gia cảnh bần khốn.
2, Trụ tháng có Chính Ấn, biểu thị nắm ấn, phú quý có quyền, văn chương xuất danh, duy chỉ có độc Tài xung phá hoặc là có Thương quan, chủ lao khổ bôn ba, ly hương xa quê, trụ tháng có Kiêu Ấn, là người thông minh tài năng, đa tài đa nghệ, có quyền sinh sát, nhưng dễ gây ra thù oán, gặp Thực thần, nhiều họa hoạn, lại hành xung hình có hung tai, nữ mệnh sinh con gái, không có con trai.
3, Trụ ngày có Chính Ấn, chủ văn học đạt sĩ, chiếm Kiêu Ấn, cả đời hiếu học kỹ nghệ, làm quan có quyền, mệnh cô độc.
4, Trụ giờ có Chính Ấn, Kiêu Ấn, sinh con gái. Chiếm Chính Ấn, biểu thị phúc nhiều thọ cao, về già hưởng phúc, sự nghiệp con cháu phát đạt. Tọa trường sinh, mệnh quan quốc gia, dừng quan hết thọ. Lúc gặp Kiêu Ấn, thấy Thực thần, chủ về già cô khổ lẻ loi, kết cục bi lương, gặp hình xung càng bất lợi. Tứ trụ Nam mệnh có Kiêu Ấn cùng lập, thể nhược nhiều bệnh, thương tàn, ly hương xa quê. Nữ mệnh không chồng không con, cô quả độc thân.

Hùng804
28-04-15, 08:39
12, Hỏi: Trong Lục thần, Thực thần là phúc thần. Ở dưới tình huống nào, mệnh gặp mới có phúc khí? Lại ở dưới tình huống nào, nhân mệnh gặp lại không có phúc khí?
Đáp:
Phép thủ dụng thần có hai loại: Một loại là phù ức, nhược là phù, cường là ức; còn một loại là điều hầu, kim thủy tính hàn, dụng mộc hỏa điều hậu, mộc hỏa cháy khô hỉ thủy điều hậu, nếu như chỉ dụng Thực thần, cần xem nhật nguyên và dụng thần vượng suy, cùng ở giữa tứ trụ thanh tạp mà xác định. Trên sử dụng, Thực thần là tài nguyên, là căn gốc của Tài, thân cường Tài vượng là mệnh đại quý, nhật tọa Thực thần là phúc địa, lại là sao Thực có tính cầu tài, như nguyệt lệnh Tài tinh sinh vượng, lúc Tài là tập đoàn mua bán lớn. Thực thần là thần tiết tú, có phân ra khinh trọng, thân vượng Tài thiếu, tối hỉ Thực thần sinh Tài, thấy Thực mà Tài tinh có khí.
Thân nhược Thực nhiều, Tài nguyên nhiều, chung quanh không xuể, chính cần Tỉ Kiếp tương trợ, quý nhân tương phù khiến bản thân cường tinh hóa, cầu tài đến tay, ở chỗ này trong sách gọi là "Thực thần tối hỉ Tỉ kiếp bang" .
Trong tứ trụ Thất Sát có thể đủ thương thân, Thực là phúc thần, là Thiên Trù quý nhân tinh, có thể đủ sức hàng phục Thất Sát, thanh niên đắc chí, nếu như gặp Thiên Ấn sinh vượng có lực, khắc phạt Thực thần, dưới tình huống này, lại xem Thiên Tài chế phục Kiêu Ấn, thì tất nhiên dung túng Sát mà hại thân, là họa nghiêm trọng. Cổ nhân nói: "Mệnh bị yểu chiết, Thực thần phùng Kiêu" . Chỉ dụng Thực thần, có Tài vận thì phú, không có Tài vận thì nghèo, Thực thần sinh Tài, thân khinh có Tỉ Kiếp, trợ thân địch Thực. Thực thần quá nhiều, thiếu niên mệnh khổ, nữ bị lạc phong trần, Thực thần nhập mộ khố, thọ không dài. Trụ giờ gặp Thực thần, có chỗ dựa hậu nhân, nam mệnh có trụ giờ chiếm Thực thần, thai đầu là con trai, nữ mệnh thì thai đầu là con gái. Trụ năm có Thực thần, tổ thượng sung túc. Trụ tháng có Thực thần, cha mẹ có tiền tài, ngày đóng Thực thần, cả đời tài bạch phong phú. Trụ giờ có Thực thần, có chỗ dựa con cái, về già hưởng phúc.

13, Hỏi: Trong《 Tử Bình chân thuyên 》có nói: Tài, Ấn không phân ra thiên chính. Câu nói này thì lý giải làm sao?
Đáp:
Chỗ gọi là Tài Ấn không phân thiên chính, chỉ là theo nguyên tắc mà nói, người bình thường đối với tài bạch cũng không đi truy cứu nguồn gốc, chủng loại và phương pháp của nó, nói chung, là giá trị sử dụng vật đổi thành tài bạch là như nhau, cho nên không đi truy tìm kĩ càng. Ấn thụ cũng như vậy, Ấn là văn chương, Ấn là sinh khí, tức là tinh thông, Chính Thiên Ấn cùng chung tác dụng là vật sinh thân, về phần sinh khí nhiều hay ít, sinh khí tà chính cũng không đi tính toán, cho nên thuyết pháp Tài Ấn không phân ra Thiên hay Chính là cũng chính xác, nhưng chỉ là nói đại khái mà thôi, quý là ở linh hoạt.

Hùng804
28-04-15, 08:40
14, Hỏi: Sao gọi là Thương quan thương tận?
Đáp:
Thương quan thương tận, bát tự rất là quý báu, tức thiên can là Thương quan, trong tứ trụ có Thương quan không có một chút Quan tinh, hoặc trong địa chi có tàng Chính Quan, nhưng lại tự động hóa mất, gọi là Thương tận. Như có Chính Quan thấu can gọi là Thương không tận, bát tự hỗn tạp không thanh, là hung, thì không gọi là Thương quan thương tận.

15, Hỏi: "Thương quan kiến Quan vi họa bách đoan" cũng có nói ở trong sách, Thương quan không thể nói là hung, Thương quan có thể kiến Quan, làm sao mà lý giải?
Đáp:
Bát tự có Thương quan nhập mệnh, rất nhiều biến hóa, càng phải linh hoạt mà sử dụng, trước tiên phải phân rõ thân khinh thân nhược, để quyết định thủ dụng Thương quan. Thương quan có thể kiến Quan, có vài loại tình huống có thể thấy:
+ Loại thứ nhất là, mộc hỏa Thương quan và kim thủy Thương quan, hai loại này Thương quan là điều hầu thủy hỏa mà sử dụng, bát tự quá hàn lạnh, dụng hỏa điều hậu, quá viêm nhiệt dụng thủy điều hậu, kiến cho trung hòa, đúng cần kiến Quan.
+ Loại thứ hai là, đối với những loại Thương quan khác, nếu như thân cường, Quan tinh nhược, Tài tinh có khí, chính cần Thương quan sinh Tài, Tài sinh Quan, Thương quan lại là căn cơ sinh Quan, chuyển hung thành cát, cách cục rất là cát lợi. Loại cách cục này mấu chốt là ở một chữ Tài, hóa Thương làm Tài, luận Thương Tài, khiến cho cách cục thủ thanh.
+ Loại thứ ba là, trong tứ trụ Thương quan thương tận, tuế vận gặp Quan tinh cát lợi. Chỗ nói là thương quan kiến Quan họa sự bách đoan, là chỉ nguyên trong tứ trụ bát tự có Thương quan không thương tận, tuế vận lại gặp Quan, thân lại nhược, tự nhiên sinh ra tai xuất bất ngờ.

16, Hỏi: "Thương quan phối ấn" ở dưới tình huống nào bội Ấn là quý cách?
Đáp:
+ Thương quan là thần tú khí, là sao biểu diễn nghệ thuật và văn nhân học thuật. Thương quan bội Ấn là nói nhật nguyên quá nhược, Thương quan tiết khí quá trọng, dụng Ấn sinh thân mà dụng Ấn. Hai là, hóa Thương sinh thân dụng Thiên Ấn, nhưng không nến hóa Tài tinh, Tài tinh phá Ấn là hung, cách cục không thanh.
+ Thương quan dụng Ấn, tạp nhập Tài tinh, lại cần phân rõ là Tài vượng hay là Ấn vượng, Tài quá vượng mà hỉ Ấn phá Tài, Ấn quá vượng mà hỉ Tài phá Ấn, lưỡng tướng quân hành, Ấn là quý cách. Bát tự có nhật nguyên cường thắng, càng hỉ Thương quan để tiết thế cường mà chuyển tú, thân vượng Tài khinh, càng hỉ Thương quan sinh Tài, Thương Tài chuyển hoán sinh Quan, thân cường Quan Sát vượng, lại hỉ Thực Thương chế Quan Sát mà là cách cục thuần thanh, thăng quan tiến tước, cho nên, phàm là người được quan, trong bát tự đều là có Thương quan, không có Thương quan là không tú khí.
+ Thân nhược, Thương quan phùng Thất Sát, là thương tàn; Dương Nhận, là hình tai. Tình huống bình thường, Thương quan sinh vượng, bát tự Tài Ấn tương chiến, cách cục không thanh, Ấn vượng có thể dụng Tài, Tài vượng chỉ có thể dụng Tỉ Kiếp, không thể dụng Ấn, dụng Ấn không tạp Tài tinh, là quý cách. Ngũ can dương có Thương quan quy khố, tuế vận gặp thì đa số thấy tang vong hoành họa; ngũ can âm thì không có ngại, cho nên có "Thương quan nhập mộ là chết" .

Hùng804
28-04-15, 08:41
17, Hỏi: Thương quan ở trên tứ trụ có tác dụng gì?
Đáp:
Trụ năm đóng Thương, tổ cơ phúc tổn, không có tài sản lưu lại cho hậu nhân. Hai trụ năm, giờ đóng Thương quan, khó nuôi con trai, gọi là chôn giết con trai. Trụ tháng đóng Thương quan, là người thanh cao không làm quan, thành danh kỹ nghệ, chi tháng Thương quan cùng Dương Nhận, mệnh làm tướng công hầu. Chi ngày đóng Thương quan, hôn nhân khó khăn, gặp Dương Nhận, chồng có hung tai bất ngờ, nam mệnh thì vợ hay mắng chồng. Giờ là nơi lúc quay về già, can lâm Thương quan sinh vượng, chủ sinh con gái, địa chi không có Tài, nhà nghèo không con trai, gặp Kiếp tài, về già bi thương.

18, Hỏi: Sao gọi là Tỉ kiên, Kiếp tài, Dương Nhận?
Đáp:
Trong tứ trụ Giáp thấy Giáp, Ất thấy Ất cùng một loại gọi là Tỉ kiên. Giáp thấy Ất; Ất thấy Giáp củng loại gọi là Kiếp tài. Địa chi Giáp thấy Mão, Ất thấy Dần, Mậu thấy Ngọ gọi là Dương Nhận. So với Nhận đều là thần hao tài, duy chỉ có Quan Sát có đủ để chế phục; Thực Thương có đủ để sinh hóa, thấy Tài thì đem tranh đoạt, thấy Ấn sinh họa.

19, Hỏi: Tính cách Tỉ Kiếp hỉ kỵ là như thế nào?
Đáp:
Tỉ kiên, như có thấy anh em, bạn bè, bướng bỉnh cố chấp, có lòng tự tôn, vừa quan tâm bằng hữu, lại vừa sủng ái bộ hạ, cam nguyện bản thân gian khổ, cũng trọng tình nghĩa bạn bè. Kiếp tài là tranh đoạt, là kiến thức tiểu nhân, thấy tài thấy lợi thì muốn tranh đoạt, hơn nữa lại thích kiếm tiền, lại thích xài tiền, nói rộng rãi, khoe khoang, khoác lác, ăn xài như rác.
Khắc tinh Tỉ kiên là Thiên Quan, khắc tinh Kiếp tài là Chính Quan, phàm trong mệnh người có Tỉ Kiếp nhiều, chỉ có hành vận Quan Sát mới có thể tụ tài, mới có thể khắc chế vận xấu phá bại tổn hao, vợ xa con tán. Tinh tiết hóa Tỉ kiên là Thực thần, tinh tiết hóa Kiếp tài là Thương quan, phàm trong tứ trụ người có Tỉ Kiếp sinh vượng thân cường, hành vận Thực thần là tài lợi sung túc. Trái lại, người có Tỉ Kiếp nhiều, phục hành tuế vận Tỉ Kiếp đó là vợ con ly tán, phá bại bất kham, bần khổ lảo đảo, thậm chí chết đột ngột.

20, Hỏi: Tỉ Kiếp là thần tranh đoạt, trong mệnh người có Tỉ Kiếp có thể hay không thể phú quý? Lại suy đoán như thế nào?
Đáp:
Một vận mệnh con người tốt hay xấu, cát hung hỉ kỵ, hoàn toàn đều là dựa vào tổ hợp tứ trụ bát tự mà quyết định. Cũng không phải nói là tốt xấu mà phân biệt. Hung thần, cát thần, chỉ cần sử dụng được lúc thành cách, đều là thanh, Tỉ Kiếp chỉ là một dạng.
Tỉ Kiếp quý cách có mấy loại: Kiếp là Dương Nhận, trong năm tháng thấu ra Thất Sát, không thương không khắc, là đại quý, là mệnh tướng soái, xưa đến nay kiến công lập nghiệp, người có một phen sự nghiệp làm kinh thiên động địa, đều là người có Tỉ Kiếp Sát tinh sinh vượng. Cho nên, cổ nhân nói: "Tỉ Kiếp có chế thành đài phúc" . Tỉ Kiếp mang Quan tinh, mang Tài là phú quý, vận hành đất Thực Thương, phú so với họ Đào họ Công tài năng cầm đầu phú thương. Tứ trụ người có Tỉ Kiếp mang Quan tinh, hỉ hành đất Ấn thụ Quan Sát, Quan Ấn tương sinh, được người tôn kính, không những có công việc tốt, chức vị có thăng.
Tỉ Kiếp tạp cách không thanh cũng có mấy loại:
+ Một là, Tỉ Kiếp Thất Sát tương phùng, nhân mệnh quý hiển, nếu gặp Thực Thương khắc chế Thất Sát, phá cách là không thanh, làm cho Thất Sát mất đi tác dụng quản chế, Tỉ Kiếp lại phục biến thành họa điên loạn, lại sẽ khiến cho người tài tán nghiệp phá, tương hỗ tham tài hại mệnh, gọi là "Chế chi bất phục thành đại họa" .
+ Hai là, tứ trụ Tỉ Nhận sinh vượng, không có Tài tinh, tuế vận phùng Tài, nhật chủ tham Tài, Tỉ Nhận tranh đoạt nhẹ thì dừng quan bãi chức, nặng thì phá gia tang mệnh.
+ Ba là, Quan tinh mang Tài, vận hành đất quy lộc, Tỉ kiên thừa vượng, thì tranh quan đoạt tài, trái lại sẽ mất bổng lộc, cần nên trốn tránh mà bảo vệ thân. Một cục Tỉ Kiếp, nhật can chuyên lộc, cục toàn tọa không có Tài tinh, hỉ tuế xung phá Tài tinh mà đắc dụng, còn lại những cái khác suy theo như vậy.
1, Trụ năm Tỉ kiên, anh chị em nhiều. Phùng Kiếp tài, tổ nghiệp bần khốn, không được tổ nghiệp.
2, Trụ tháng đóng Tỉ Kiếp, anh em chị em nhiều, cả đời kiếm tiền nhiều, khó hưởng thụ, độc lập sáng nghiệp, người cùng khốn.
3, Nhật tọa Tỉ Kiếp, lại thành Tỉ cục, là hại vợ khắc cha, tuế vận cùng thấy là họa, Ấn sinh Tỉ kiên, thê thiếp thích thì cưới thích thì hại.
4, Giờ gặp Tỉ Kiếp, con cái bại gia, về già thê lương, can giờ là Tỉ kiên, nam mệnh can ngày dương sinh trai, can âm sinh gái, nữ mệnh can ngày dương sinh gái, can âm sinh trai. Can giờ gặp Kiếp tài, nam mệnh can ngày dương sinh gái, nữ mệnh sinh trai. Trụ giờ Tỉ Kiếp phùng xung hại, về già chết ác tử, con cái có thương tàn.

(Hết)