PDA

View Full Version : Mệnh Tổng thống PhiLippine Ferdinand Marcos



lesoi
13-09-15, 10:29
Mệnh Tổng thống Philippine Ferdinand Marcos

https://vi.wikipedia.org/wiki/Ferdinand_Marcos

(Sinh ngày 11/9/1917 DL, giờ Thìn)

Bát tự là:
Đinh Tị - Kỷ Dậu - Bính Thìn - Nhâm Thìn.
1 tuổi khởi vận.
Đại vận: Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ/ Ất Tị/ Giáp Thìn/ Quý Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu.

Thời thượng nhất vị độc Sát, can tháng có Thương quan chế, Sát Thương đều có căn, cách thành Sát yêu Thực chế. Vốn là Kỷ thổ tọa dưới có Dậu kim hóa tiết, ứng là phá cách, chỉ vì Dậu kim Tài tinh không thể trực tiếp sinh Nhâm Sát (bởi vì trung gian có Thìn thổ ngăn cách), cộng thêm Tị hỏa thấu ra, Tị Dậu không thể hợp hóa thành kim, Tị hỏa vẫn cứ có tác dụng khắc chế Dậu kim, như vậy thì bảo vệ được cách cục. Mệnh cục Sát trọng chế khinh, hỉ Tỉ Kiếp lập ở trụ năm sinh Thương quan, như vậy thì dù có gặp Giáp Ất Kiêu Ấn cũng không thể chế Thương phá cách. Chỉ cần không đến Nhâm vận hợp Đinh hỏa, những vận khác đều có thể thông hành không có cản trở, đúng là mệnh tốt. Tiếc là mệnh chủ không phải là người tốt, vì trong mệnh bày ra đều có Kiếp, Thương, Sát là ba ác thần. Kiếp là Dương Nhận, phối Thương quan thì là giỏi võ.
Mệnh chủ lúc nhỏ đến vận Đinh Mùi Kiếp tài, thì rất thích múa đao múa võ, cậy mạnh hiếp yếu. Sau khi tốt nghiệp đại học làm luật sư, nói năng bóp chát đấu với pháp quan. Vận Giáp Thìn, mộc sinh hỏa mà hỏa sinh thổ, có lực chế Sát, liền đảm nhận chức cao Viện trưởng Thượng nghị viện, tiếp theo lúc 48 tuổi năm này lại leo lên chức vị cao nhất, làm đến Tổng thống nước Phi Líp Phin. Một khi nắm đại quyền, thiếu chế ước, thì mệnh chủ không có chỗ kiêng kỵ, thì đều biểu lộ không bỏ sót đặc tính của Kiếp, Thương, Sát. Vận Nhâm Dần, Đinh Nhâm hợp nhất mà hóa Kiêu khắc Thương, lại gặp năm Ất Sửu, thiên can là Ất mộc đoạt Kỷ thổ, địa chi là Tị Dậu Sửu tam hợp Tài cục, Đinh Tị Tỉ Kiếp hoàn toàn biến thành kỵ thần, Thương quan bị chế, Sát tinh thì thừa cơ công thân, mệnh chủ rớt đài mà lưu vong, sau lại nỗ lực khôi phục, thế nhưng tiếp theo sau là đại vận Tân Sửu, Tị Dậu Sửu hợp Tài sinh Sát, sao có thể cho ông ta có cơ hội ngóc đầu lên lại?
Ở trên chính là cách cục Sát yêu Thực chế cách.
Phàm là Sát yêu Thực chế cách, chỉ cần một khi thấy Tài tinh tiết Thực sinh Sát, tức là phá cách. Nhưng cũng có Sát yêu Thực chế cách mặc dù có Tài tinh phá cách, nhưng nếu đại vận có cứu ứng, thì tất nhiên vẫn là mệnh tốt.


(Trích Tử Bình chính tông)

thachmoc
13-09-15, 19:04
Mệnh cục Sát cường, thân nhược, một điểm Thương quan chế Sát quả rất hay!

Không rõ cuốn Tử Bình chính tông của tác giả nào anh Lesoi nhỉ?

lesoi
14-09-15, 10:59
Hì...hì, chỗ này bí mật, TM xem ở phần Ví dụ Tổng thống Philippin Mã Tư Khoa trong sách anh đã gửi đấy.

thachmoc
14-09-15, 14:46
Vận Giáp Thìn, em thấy không chỉ "mộc sinh hỏa mà hỏa sinh thổ", còn một chữ Thìn thủy khố nữa, như vậy Sát cũng có lực để đạt tới quyền cao. Bên trên luận thêm chữ Thìn thì hay biết mấy.

lesoi
14-09-15, 19:34
Ừ, cũng có lý.

kimcuong
09-08-22, 11:37
Hôm nay đọc bài này, tôi có ý kiến khác Tử bình chính tông, các bạn thử xem lại nhé.

Nguyệt lệnh vẫn là định chính cách, chỉ khi nào có tạp khí thì mới xét ngoài chính cách. Đây là Dậu tàng Tân kim, thuần kim không tạp, nên vẫn xoay quanh Chính Tài Cách.

Chính Tài mà có thiên can là Thương Quan, gốc ở Tị và Thìn thì đủ để giản luận là Thương quan sinh Tài cách. Ấn không cần lộ mới là hay. Vì Tài tinh chú điểm vào Nhâm Quí là Quan Sát để phát huy sức mạnh (thương sinh tài) của nó. Nên toàn bộ mệnh này hỉ thần là Sát.

Tính cách của Sát tinh chúng ta rõ là "không diệt không được", mà Sát lại được chủ quản mệnh (lệnh tháng) tương phù thì không có gì hơn được, tuy gọi là "ác nhơn" nhưng mệnh số là vậy, ở đây chúng ta chỉ bàn theo mệnh để hiểu người đó.

Vận Quí Mão, Nhâm Dần của ông ta là cao trào khi Quí lộ, Mão xung Dậu chính là điểm sợ hãi nhất đột phá ra. Đó là hình ảnh của thủy đổ xuống mộc là Ấn xung với Tài tinh, là hình ảnh của tài năng khí thể cùng cách mạng chống phá nó nổ ra.

Thìn hình Thìn ở trụ giờ thường không mang lại hậu vận tốt, trong khi chính nó là quan sát (sự khắc chế mình). Vì thế nên có thể giải thích tượng vượng cực hóa suy, cho dù là dụng, hỉ trong mệnh: Vận Tân Sửu, năm Kỉ Tị, Tân kim hợp trói Bính, Tị Dậu Sửu thành hình, tháng tử vong cũng là tháng Dậu (chết ngày 28.9.1989). Đây cũng là điều cần chú ý khi luận hạn tử vong với ngũ hành thái quá.

Còn 2 điểm ẩn trong mệnh để luận hạn tử vong nói trên, các bạn thử đoán xem.

iaeaok
10-08-22, 22:25
Mệnh này nếu luận Sát cách, Sát đi về phương tử tuyệt, vẫn có thể Phú quý sao?


Theo tôi, vẫn phải lấy Tài cách làm chủ, Cách luận Tài hỷ thực sinh mà phối Ấn. Tiên Tài Hậu Ấn, mà đắc Phúc.
Nhâm thủy Sát tinh là Hỷ thần. Nhâm hợp chặt Đinh Kiếp, bảo vệ Tài cách. Cho nên con trai mênhj chủ mới lại Quý thành Tổng thống.

lesoi
17-08-22, 15:40
Ui, chỗ này tôi dịch đã lâu từ năm 2015 cơ. Thấm thoát đã 7 năm trời rồi, giờ không biết nằm chỗ nào? :20:
Nay lại thấy cô KC luận lại, lâu quá không vào diễn đàn được vì sự cố.
Nhìn thêm cách luận của cô KC, xem lại thì đúng là có cái sai biệt. Sách này toàn luận cách cục, nhìn toàn cục nhật chủ Bính hỏa tọa Thìn, thiên can kề gần gặp khắc tiết, chỉ có trụ năm Đinh Tị là có Tỉ Kiếp bang trợ. Địa chi kề gần cùng gặp tiết hao, thân nhật chủ thiên nhược.
May là người này gặp toàn vận hanh thông Ấn Tỉ trợ giúp cho nên đảm nhận được chức cao vọng trọng như vậy.
Nay thấy cô KC sưu tầm luôn cả ngày tháng năm chết, còn chưa nghĩ ra kịp :x_x:

lesoi
17-08-22, 16:02
Vận Tân Sửu, năm Kỉ Tị, Tân kim hợp trói Bính, Tị Dậu Sửu thành hình, tháng tử vong cũng là tháng Dậu (chết ngày 28.9.1989). Đây cũng là điều cần chú ý khi luận hạn tử vong với ngũ hành thái quá.

Còn 2 điểm ẩn trong mệnh để luận hạn tử vong nói trên, các bạn thử đoán xem.

Theo em, xem đơn giản Mệnh này Bính hỏa lấy Tị làm cường căn, nhưng đều bị tam hợp Tị Dậu Sửu thành kim cục rồi, căn bị mất, kim cục lại sinh Nhâm thủy Thất Sát kề thân khắc chế thái quá mà chết.
Còn cô nói "ngũ hành thái quá" ở đây là ngũ hành nào vậy? và ám tàng ở 2 điểm nào nữa thì chưa nhìn thấu được?

HDL
17-08-22, 17:34
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=520&stc=1Bài dịch phân tích theo tôi nghĩ chính xác. Tài cách, nhưng trụ giờ có sát( Sát căn tại lưỡng Thìn)
Dụng thần: Nhâm( quan trọng sát trọng)
Thương thần: Kỷ
Hỉ thần: Đinh
Mệnh có đủ 3 thần trên thấu can là cách cao rồi.
Sát hỉ thương chế lại hỉ Kiếp là võ mệnh.
Vận Ngọ, Tỵ, Thìn thì là Sát hỉ thương chế.
Nhưng Dần, Mão theo tôi khi đó Đinh Nhâm đắc căn, khử Sát tồn tài. Chuyển thành tài cách phối ấn. Vì nếu giữ nguyên cách cũ thì Kỷ Nhâm gặp Dần Mão địa là tử địa, dụng tương thần tử thì sao làm tổng thống được.
Tân vận lại khôi phục Sát hỉ thương chế, tuy nhiên Tài Tân( từ Dậu) thấu tiết thực sinh sát phá cách. Kỷ tỵ là ứng kỳ.
Chết Kỷ tỵ/ Quý Dậu/ Tân mão vì bệnh phổi, thận, tim.

Trung
18-08-22, 15:36
H

Thìn hình Thìn ở trụ giờ thường không mang lại hậu vận tốt, trong khi chính nó là quan sát (sự khắc chế mình). Vì thế nên có thể giải thích tượng vượng cực hóa suy, cho dù là dụng, hỉ trong mệnh: Vận Tân Sửu, năm Kỉ Tị, Tân kim hợp trói Bính, Tị Dậu Sửu thành hình, tháng tử vong cũng là tháng Dậu (chết ngày 28.9.1989). Đây cũng là điều cần chú ý khi luận hạn tử vong với ngũ hành thái quá.

Còn 2 điểm ẩn trong mệnh để luận hạn tử vong nói trên, các bạn thử đoán xem.
Theo tôi: Mệnh này dụng thương chế sát sinh tài (nếu thương không chế được sát thì phá cách). Vận Tân Sửu năm Kỷ Tỵ, tháng Quí Dậu hội thành Tài cục hóa thương sinh sát phá cách nên tử./.

HDL
18-08-22, 19:30
Tài tiết thương sinh Sát, Sát vô chế công thân nên đại nạn.