lesoi
27-09-15, 14:29
Đoàn Kiến Nghiệp giải mệnh Chu Nguyên Chương
Mệnh Chu Nguyên Chương
( Trích từ Mệnh lý trân bảo của Đoàn Kiến Nghiệp)
Chu Nguyên Chương là nguyên thủ khai quốc nhà Minh, cả đời trải qua rất ly kỳ, sớm mất cha mẹ, về già mất con; từ một khất cái, hòa thượng đi đến là Hoàng thượng. Chỗ này có thể xem từ trong bát tự mà thấy sao? Tham khảo thêm link:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Minh_Th%C3%A1i_T%E1%BB%95
Sinh giờ Mùi, ngày 21 tháng 10 năm 1328 D.L, tức ngày 18 tháng 9 năm Mậu Thìn âm lịch. Sinh sau tiết Hàn Lộ 21 ngày.
Càn tạo:
Mậu Thìn, Nhâm Tuất, Đinh Sửu, Đinh Mùi.
6 tuổi nhập vận: Quý Hợi/ Giáp Tý/Ất Sửu/ Bính Dần/Đinh Mão/Mậu Thìn/ Kỷ Tị.
Những việc trải qua:
Sinh ở trong miếu. Vận Giáp Tý năm Giáp Thân vì hạn hán cộng thêm dịch bệnh mà cả nhà đều chết. Bất đắc dĩ phải xuất gia, sau khi đi làm ăn mày 3 năm. Đến năm Mậu Tý trở lại Hoàng Giác tự.
Cuối vận Giáp Tý năm Nhâm Thìn, nhập quân Khăn đỏ, cưới con gái nuôi của Quách Tử Hưng là họ Mã làm vợ, thăng chức tổng binh.
Đầu vận Ất Sửu, năm Quý Tị tự chiêu mộ quân đội, lễ hiền đãi sĩ, bản thân trở thành người dẫn đầu đoán quân cướp chính quyền.
Năm Bính Thân đánh bại Kim Lăng, xưng là Ngô quốc công. Năm Canh Tý lại đánh đại bại quân Trần Hữu Lượng.
Năm Nhâm Dần, gian nữ Thiệu Vinh, phản nghịch Thiệu Vinh, hiểm bị Thiệu giết. Năm này thuộc hạ trốn tránh rất nhiều.
Năm Quý Mão, đầu vận Bính Dần. Trần Hữu Lượng đại bại, đem giết chết. Xưng là Ngô vương.
Năm Ất Tị đánh bại Trương Sĩ Thành.
Năm Mậu Thân và tháng giêng đăng cơ.
Năm Tân Hợi thống nhất toàn quốc.
Vận Kỷ Tị năm Đinh Sửu, thái tử chết; chết ở năm Mậu Dần. Chôn theo toàn bộ cung nữ phi tần.
Cổ thư lúc giải bát tự Chu Hồng Vũ, nói chung là giảng Thìn Tuất Sửu Mùi chiếm đủ tứ khố, là mệnh đế vương. Tôi nghi ngờ, sau thấy Thìn Tuất Sửu Mùi là rất nhiều, đều không có triển vọng lớn. Cho nên mới biết cổ thư có sai lầm. Sau đó có một ngày nhìn thấy tạo này, bừng tỉnh hiểu ra, sau hỏi Vương Khai Vũ, trả lời: Mệnh này tối thiểu có thể có cấp bậc thủ tướng, sớm chết cha. Tôi hỏi tại sao? Đáp: Thương quan khử Quan, thiên địa toàn khử, ch nên quan tất là cực đại; trong Sửu Tài bị xung, cũng bị chế khử, cho nên Tài tất là cực đại. Tôi nói: Nếu Tài Quan đều là cực đại, vậy làm cái gì? Khai Vũ giác ngộ: À, nguyên là mệnh Hoàng đế.
Khử mất kỵ thần Tài tinh, cho dù là không có người nào có thể sánh tài phú bằng ông ấy; kỵ thần Quan cũng khử mất, tứclà tất cả quan đều bị thu phục, không phải Hoàng đế là gì. Đạo lý đơn giản như vậy, mấy trăm năm đều không có người nào giảng thấu.
Nếu chúng ta muốn tham khảo tại sao sớm khắc cha? Tại sao sớm làm khất cái?
Lấy Nhâm thủy Quan là cha, Thương quan khử Quan là khắc cha. Có người hỏi Quan là kỵ thần khử đi là cát, sao còn khắ cha chết? Lý Hàm Thần thì giảng cha làm kỵ thần lúc bị chế thì cha cát. Trên thực tế ông ta không hiểu được chỗ trọng yếu của cung vị. Chúng ta giảng qua lúc Thê tinh đắc Thê vị, thì là kỵ thần cũng không thể chế, chế là chết. Cha cũng như vậy, Phụ tinh đắc vị Nhâm bị chế, thì cha chết. Đương nhiên nếu giảng từ trên mệnh lý, ông ấy khắc cha là đế nghiệp có lợi cho ông ấy. Nếu ngược lại, nếu như cha ông ấy không chết, thì không có thể thành tựu đế nghiệp.
Trước đã nói qua ở trong mệnh có Tài cực nhược lại có nguyên thần thì dễ làm khất cái. Tạo này tuy Tài tinh có nguyên thần mà còn bị chế, nhưng Tài tinh này chế mất hết, nguyên thần là không còn sinh Tài, cho nên lý do làm khất cái là không phải chỗ này. Hác tiên sinh lại có một bí quyết giảng cũng là khất cái: "Xung Thực là thiếu sữa thiếu ăn, không có những tinh khác cứu trợ thì dễ thành khất cái." Những tinh khác, là Ấn tinh vậy. Chúng ta xem Ấn tinh của tạo này cũng bị xung phá. Thuyết minh ông ấy không có bất cứ chỗ dựa nào, thì chỉ có làm hành khất. Tại sao nói ở vận Giáp Tý năm Giáp Thân bắt đầu làm khất cái? Lưu lại cho mọi người nghiên cứu.
Sửu thổ ở trong cung Thê có Thê tinh, bị xung khử, lẽ ra là vợ chết, nhưng vợ chính họ Mã cũng không chết sớm, là sao vậy? Hác tiên sinh còn có một bí quyết: "Thê nhập mộ hỉ xung, xung mộ được vợ hiền, không xung mộ thì vợ có họa." Từ trong mộ khố chúng ta liền biết là có phép xem đặc thù.
Phàm đối với tạo này sự kiện đại vận lưu niên ứng kỳ không có giải thích, mời các bạn tự nghiên cứu.
Mệnh Chu Nguyên Chương
( Trích từ Mệnh lý trân bảo của Đoàn Kiến Nghiệp)
Chu Nguyên Chương là nguyên thủ khai quốc nhà Minh, cả đời trải qua rất ly kỳ, sớm mất cha mẹ, về già mất con; từ một khất cái, hòa thượng đi đến là Hoàng thượng. Chỗ này có thể xem từ trong bát tự mà thấy sao? Tham khảo thêm link:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Minh_Th%C3%A1i_T%E1%BB%95
Sinh giờ Mùi, ngày 21 tháng 10 năm 1328 D.L, tức ngày 18 tháng 9 năm Mậu Thìn âm lịch. Sinh sau tiết Hàn Lộ 21 ngày.
Càn tạo:
Mậu Thìn, Nhâm Tuất, Đinh Sửu, Đinh Mùi.
6 tuổi nhập vận: Quý Hợi/ Giáp Tý/Ất Sửu/ Bính Dần/Đinh Mão/Mậu Thìn/ Kỷ Tị.
Những việc trải qua:
Sinh ở trong miếu. Vận Giáp Tý năm Giáp Thân vì hạn hán cộng thêm dịch bệnh mà cả nhà đều chết. Bất đắc dĩ phải xuất gia, sau khi đi làm ăn mày 3 năm. Đến năm Mậu Tý trở lại Hoàng Giác tự.
Cuối vận Giáp Tý năm Nhâm Thìn, nhập quân Khăn đỏ, cưới con gái nuôi của Quách Tử Hưng là họ Mã làm vợ, thăng chức tổng binh.
Đầu vận Ất Sửu, năm Quý Tị tự chiêu mộ quân đội, lễ hiền đãi sĩ, bản thân trở thành người dẫn đầu đoán quân cướp chính quyền.
Năm Bính Thân đánh bại Kim Lăng, xưng là Ngô quốc công. Năm Canh Tý lại đánh đại bại quân Trần Hữu Lượng.
Năm Nhâm Dần, gian nữ Thiệu Vinh, phản nghịch Thiệu Vinh, hiểm bị Thiệu giết. Năm này thuộc hạ trốn tránh rất nhiều.
Năm Quý Mão, đầu vận Bính Dần. Trần Hữu Lượng đại bại, đem giết chết. Xưng là Ngô vương.
Năm Ất Tị đánh bại Trương Sĩ Thành.
Năm Mậu Thân và tháng giêng đăng cơ.
Năm Tân Hợi thống nhất toàn quốc.
Vận Kỷ Tị năm Đinh Sửu, thái tử chết; chết ở năm Mậu Dần. Chôn theo toàn bộ cung nữ phi tần.
Cổ thư lúc giải bát tự Chu Hồng Vũ, nói chung là giảng Thìn Tuất Sửu Mùi chiếm đủ tứ khố, là mệnh đế vương. Tôi nghi ngờ, sau thấy Thìn Tuất Sửu Mùi là rất nhiều, đều không có triển vọng lớn. Cho nên mới biết cổ thư có sai lầm. Sau đó có một ngày nhìn thấy tạo này, bừng tỉnh hiểu ra, sau hỏi Vương Khai Vũ, trả lời: Mệnh này tối thiểu có thể có cấp bậc thủ tướng, sớm chết cha. Tôi hỏi tại sao? Đáp: Thương quan khử Quan, thiên địa toàn khử, ch nên quan tất là cực đại; trong Sửu Tài bị xung, cũng bị chế khử, cho nên Tài tất là cực đại. Tôi nói: Nếu Tài Quan đều là cực đại, vậy làm cái gì? Khai Vũ giác ngộ: À, nguyên là mệnh Hoàng đế.
Khử mất kỵ thần Tài tinh, cho dù là không có người nào có thể sánh tài phú bằng ông ấy; kỵ thần Quan cũng khử mất, tứclà tất cả quan đều bị thu phục, không phải Hoàng đế là gì. Đạo lý đơn giản như vậy, mấy trăm năm đều không có người nào giảng thấu.
Nếu chúng ta muốn tham khảo tại sao sớm khắc cha? Tại sao sớm làm khất cái?
Lấy Nhâm thủy Quan là cha, Thương quan khử Quan là khắc cha. Có người hỏi Quan là kỵ thần khử đi là cát, sao còn khắ cha chết? Lý Hàm Thần thì giảng cha làm kỵ thần lúc bị chế thì cha cát. Trên thực tế ông ta không hiểu được chỗ trọng yếu của cung vị. Chúng ta giảng qua lúc Thê tinh đắc Thê vị, thì là kỵ thần cũng không thể chế, chế là chết. Cha cũng như vậy, Phụ tinh đắc vị Nhâm bị chế, thì cha chết. Đương nhiên nếu giảng từ trên mệnh lý, ông ấy khắc cha là đế nghiệp có lợi cho ông ấy. Nếu ngược lại, nếu như cha ông ấy không chết, thì không có thể thành tựu đế nghiệp.
Trước đã nói qua ở trong mệnh có Tài cực nhược lại có nguyên thần thì dễ làm khất cái. Tạo này tuy Tài tinh có nguyên thần mà còn bị chế, nhưng Tài tinh này chế mất hết, nguyên thần là không còn sinh Tài, cho nên lý do làm khất cái là không phải chỗ này. Hác tiên sinh lại có một bí quyết giảng cũng là khất cái: "Xung Thực là thiếu sữa thiếu ăn, không có những tinh khác cứu trợ thì dễ thành khất cái." Những tinh khác, là Ấn tinh vậy. Chúng ta xem Ấn tinh của tạo này cũng bị xung phá. Thuyết minh ông ấy không có bất cứ chỗ dựa nào, thì chỉ có làm hành khất. Tại sao nói ở vận Giáp Tý năm Giáp Thân bắt đầu làm khất cái? Lưu lại cho mọi người nghiên cứu.
Sửu thổ ở trong cung Thê có Thê tinh, bị xung khử, lẽ ra là vợ chết, nhưng vợ chính họ Mã cũng không chết sớm, là sao vậy? Hác tiên sinh còn có một bí quyết: "Thê nhập mộ hỉ xung, xung mộ được vợ hiền, không xung mộ thì vợ có họa." Từ trong mộ khố chúng ta liền biết là có phép xem đặc thù.
Phàm đối với tạo này sự kiện đại vận lưu niên ứng kỳ không có giải thích, mời các bạn tự nghiên cứu.