View Full Version : Ám xung
- kimcuong viết -
Thuyết xem Ám Cách là một trong những cách đoán hung hay cát tổng thể trong Mệnh. Ám xung, ám hợp, ám cường đều là 1 trong những cách Ám. Đây là một loại diễn tiến chậm nhất, bởi vì "Ám" là "ngầm", là phần không nhìn thấy rõ được trong tứ trụ. Tuy nhiên, cách tính của Ám rất đơn giản. Thật sự đấy cũng chính là để xét quí cách, dụng thần hay kị thần cường vượng trong trụ, khi động thì hóa hung hay cát mạnh mẽ.
Bản thân tôi đều chọn cách này là sau cùng khi xem hết các thuyết khác, giống như để xác định lại kết quả tìm được vậy.
Tôi đã có thí dụ tứ trụ của Vua Quang Trung mà có người gọi là "Kình dương ám cách". Kình dương là ngôi đế vượng của thiên can. Nếu nó "ngầm" chứa trong tam hợp, tam hội, lại có thiên can dẫn lộ thì khả năng là phi thường cách, nhưng rất kị bị Xung, họa đến cao nhất là tử vong.
ấn............. thương............... thương
Nhâm Thân - Bính Ngọ - Ất Sửu - Bính Tuất
……...canh………đinh……..kỷ..... ..... mậu
……...nhâm…… kỉ………..tân.. ....... đinh
……...mậu……………..........quý... ...... tân
Ất không có gốc, không có Tỉ kiếp phò trợ, nhưng có Ngọ và Tuất bán tam hợp Hỏa. Dần là Giáp, chính là Kiếp của Ất, vì thế nên Dần là ám hợp cách (lưu ý nếu Dần mà lộ thì không phải quý cách này).
Nhưng tứ trụ có Thân ở trụ năm thì sự đại quí đại lộc không còn hoàn toàn nữa (vì Dần Thân xung). Đấy là đại họa báo trước.
(KC thì không gọi là "kình dương ám cách", vì can âm không có kình dương, tuy nhiên, bản chất của ám hợp thì vẫn đúng, chỉ là tên gọi.)
Hỏa là Thực Thương của Ất, được ám hợp nên tú khí rất mạnh mẽ, vua Quang Trung có võ nghệ và sức khỏe phi thường.
Ngài lên ngôi năm 1788 là năm Mậu Thân, vận Kỷ Dậu. 3 chi hợp lại thành Kim (Thân Dậu Tuất) thành "cường hỏa đắc kim". (Nhớ là HỎA là ám cách). Để ý chi Thân này tàng chứa Canh, cũng là một hung họa đáng ngại nhưng đã nằm trong tam hợp mà Dậu là chính, không phải Thân.
Nhưng đến vận Canh Tuất, Canh lộ ra là hung thần lộ diện (bản khí của Canh là Thân), lại hợp mất Ất nhật chủ, Kim thần quá mạnh, Mộc không còn khí lực nào nữa nên ngài bị mạng vong.
Năm ngài mất là Nhâm Tý thiên khắc địa xung với trụ tháng Bính Ngọ. Trụ tháng bị xung mất gốc cũng là một điều đáng ngại vô cùng.
Thêm 1 thí dụ Ám cách để các bạn suy nghiệm. Tứ trụ sau đây dễ thấy hơn thế nào gọi là "ám" mà không được lộ, bất kì ở dạng thiên can hay địa chi.
Thương...Quan.............Sát
Kỉ..........Quí.....BÍNH.....Nhâm
Tị..........Dậu....Dần......Thìn
Bính sinh tiết Bạch lộ, từ mùa Thu trở đi thì Hỏa gặp Bệnh, Tử, Tuyệt... nên hỏa khí nhược, không thể khắc nổi Kim. Vì thế để ý Tị Dậu trong trụ, thêm Sửu là thành tam hợp Kim vượng. Đấy là 1 ám cách.
Trong trụ này thân nhược nên Mộc và Hỏa là dụng.
Nếu Mộc là dụng thì có phải là rất sợ Kim? Điều này lại khẳng định tam hợp Tị Dậu Sửu không nên xuất đầu lộ diện. Vì thế đây cũng gọi SỬU là "chi ám".
Người này cũng là một phi thường nhân, chính trị gia nổi tiếng. Đến vận Ất Sửu là vận tai họa báo trước vì tam hợp Kim đã thành hình. Ất là Ấn đại diện cho sức khỏe bản thân, bị Kim tam hợp khắc chế.
Ngày tử vong là ngày 30.1.1948, tức là vẫn còn năm Đinh Hợi. Các bạn hãy để ý trong trụ có Dần ở trụ ngày mà bản khí Giáp cũng là Mộc dụng thần. Nhưng quả là Ất Giáp đều bị hại một lúc, bởi vì Hợi đến hợp Dần; Giáp bị hợp chặt.
Chúng ta cũng nhớ là đã học Dần Hợi là lục hợp (có sách nói là vừa hợp vừa phá, thường ta vẫn nói trong cái may có cái rủi là như vậy). Ở đây thì rõ là không cần hợp mà phải gọi là "bị" hợp, vì Hợi thủy là cừu thần.
Đương số bị ám sát rất gần (hung thủ đến sát tận nơi) chẳng phải cũng là một biểu hiện của sự hợp chặt đấy sao...
Ám cách đại lọai là như thế: Khi nào 1 tiêu chí trong tam hợp, tam hội là điểm yếu nhất của đương số thì rất cần phải tránh vận hạn lúc đó thấu ra. Nếu dụng hỉ thần đều không có lực ngay lúc đó thì rất nguy.
Làm rõ thêm Ám cách của vua Quang Trung, các bạn xem lại hành nào là dụng, kị thì cũng thấy là khi nào Ám thấu ra hay sự xung kị của Ám thấu ra thì động mạnh.
Tứ trụ của tổng thống Eisenhower, 14.10.1890, 17:45
Thực.... Kiêu................ Thương
Canh.....Bính.....MẬU.....Tân
Dần...... Tuất.....Thìn..... Dậu
Dễ nhận thấy Dần Tuất với Ngọ sẽ là tam hợp mạnh, vì Kiêu thần Bính thấu ra, là khí Hỏa vượng. Xét tú khí thì trụ này là lọai đặc biệt vì chỉ có Hỏa Kim là vượng thịnh. Thân vượng dụng Tài Quan, tức dụng Thủy Tài và Mộc Quan.
Kị thần chính là Ngọ vì đã dụng Thủy thì bất dụng Hỏa, đấy là điều chính yếu. Tứ trụ có ám tam hợp mà là kị thần thì phải xét khi nào VẬN tam hợp đó hình thành. Chỉ cần tam hợp kị thần hình thành và không có cứu (Thủy Tí hay Hợi) thì hung.
Vừa vào vận Canh Ngọ, lưu niên Kỉ Dậu, Eisenhower qua đời vì cơn suy tim đột ngột vào ngày 28.3.1969. Ngọ là kị thần đã lộ diện, và Canh là Thực, không phải là hộ thần cứu giải.
Khác với Tòng Nhi giả cách của vua Quang Trung, Thực Thương là dụng thần, rất sợ bị xung là khi Thân hay Canh lộ ra đắc lực (Chi ám là Dần bị Thân xung).
Còn Eisenhower có chi ám là Ngọ, nhưng là kị thần nên ngược lại, khi xuất hiện rất cần có Tí xung.
Có thêm một cái nhìn về Ám cách rõ là tiến thêm 1 bước đấy. Chính tôi cũng cảm thấy rất kỳ lạ vì nhiều tứ trụ ứng với ám cách rất rõ ràng. Tuy rằng tôi cũng chưa viết ra được định chế chính xác nhất để trở thành quy luật, nhưng các bạn cứ tự nghiệm lý, sẽ có cơ hội dùng được sau này.
Sự việc quan trọng nhất là ứng kỳ về tai nạn, có khi đưa đến tử vong. Ám cách kể như một "kẻ thù" nguy hiểm cho sinh mạng.
Vấn đề đầu tiên là phải hiểu dụng, kị thần thật rõ. Vì Ám là dụng thì rất quí, Ám là hành kị, cừu thần thì nên tránh.
Thật ra hiểu đấy là ngũ hành bất thuận lợi cho mình, nhưng thí dụ như nói ngũ hành Hỏa là kị thì vẫn còn chung chung quá, nếu biết là địa chi nào ám thì tránh ngay địa chi đó, và tránh luôn địa chi xung nó là tốt nhất.
Chẳng hạn như nhận định HỎA là cừu thần, trong trụ có Dần và Ngọ thì TUẤT là chi ám, vì có Tuất thì tam hợp Hỏa thành hình. Nếu có thiên can dẫn xuất trong trụ thì nặng hơn là không có.
Ám cách là một ngoại cách, không ảnh hưởng gì đến Hóa Khí cách hay Tòng cách, Chuyên cách... gì cả. Tức là đầu tiên vẫn nhận định thân vượng nhược, dụng thần, hỉ thần, cừu thần, kị thần, rồi mới đến các cách phụ thêm như Ám cách này.
Phải nói rằng đây là một nghiệm lý chưa hề có ai đầu tư nghiên cứu, các bạn cũng nên tự trải nghiệm với thật nhiều tứ trụ để nắm bắt lấy vấn đề.
Tứ trụ 1 người xém tử vong khi mới 3 tuổi:
Tài................Thương...................... ..............Tài
Bính Dần...........Ất Mùi.........Nhâm Ngọ............Đinh Mùi
giáp bính mậu.....kỷ đinh ất........đinh kỷ.............kỷ đinh ất
Thực T.tài Sát...Quan Tài thương ..Tài Quan ......Quan Tài thương
Nhâm sinh tháng Mùi, tứ trụ khuyết Kim, hóa khí Mộc thành công, Thủy rút mất cả, Kim cũng không có, kể như tứ trụ khuyết luôn 2 hành. Tài tinh Hỏa thấu can, cường vượng, đều tàng trong các địa chi. Chủ khí của người này vì thế là Hỏa.
Bản chất thân là nhược, hóa khí Mộc, sinh Hỏa tiết khí quá nhiều, hỉ thần phải là Thủy để phò trợ Mộc và khắc Hỏa.
Thổ và Kim là kị thần. Trong trụ có Dần Ngọ, vậy TUẤT thổ đến là hình thành tam hợp Hỏa. THÌN xung TUẤT trong trường hợp này thì kể như một là xung động chi ám (Tuất), hai là Quí thủy trong Thìn bị hóa mất, cả Ất trong Thìn cũng mất.
Năm đương số 3 tuổi là năm MẬU THÌN, thổ ứng kì xuất hiện, đã gặp tai nạn rất nặng. (Tôi cho rằng không những Thìn, Tuất mà những năm Mậu, tháng Mậu... đều phải cẩn thận té, ngã nặng...)
Các bạn nên suy nghĩ rất rộng về ngũ hành, không còn nên hạn hẹp vào 1 thiên can hay 1 địa chi nhất định, như thế mới có thể giải bày được rất nhiều vấn đề xảy ra. Vì quan hệ xã hội, gia đình, môi trường...đối với chúng ta cũng rất lớn, đâu chỉ là cứ Thiên tài là Cha, Chánh ấn là mẹ...v.v...
Môn Tử Vi vì sao mà có thể tìm ra được nhiều quan hệ đại diện qua hơn 100 "sao", trong khi Tử Bình thì hạn chế ở 10 thiên can và 12 địa chi, 5 quan hệ ngũ hành, 10 thập thần, quá ít
Nên suy nghĩ thêm về việc này...
Nói về hung họa nhiều quá rồi, phải có ám hợp tạo nên hỉ sự nữa chứ nhỉ...
Thí dụ Ám hợp mà địa chi ám mang lại hỉ sự cho đương số:
Kiêu...Thực...........Thương
Ất.....Kỉ.....ĐINH.....Mậu
Sửu...Mão.. Tị....... Thân
Đinh sinh tháng Mão tọa Bệnh, nhưng có lệnh tháng Ất thấu khí, trụ ngày Tị với bản khí là Bính Kiếp phò trợ. Thân không đến nỗi quá nhược, có thể chọn Tài tinh, Quan tinh làm dụng thần.
Trụ có Tị Sửu, DẬU là chi ám, tạo nên Kim tài tinh hữu dụng. Đến Vận Kỉ Sửu, cuối vận là năm 2009 Kỉ Sửu, tháng Dậu, ngày Mão đã làm đám cưới.
Ở đây có điều đáng nói rằng người này cưới chạy tang, vì mẹ bị bịnh rất nặng, sợ không qua nổi nên phải cưới gấp!
Dù gì đi nữa, nhìn vào sự xuất hiện của Tị Dậu Sửu và nhất là sự có mặt của MÃO (xung Dậu), chúng ta có thể kết luận sự việc gia đình kể trên rất là ứng với thiên thời địa lợi:
1- Tính theo giờ sinh thì người này đến tháng 10.1999 vào hạn Đinh Sửu.
2- Vậy thì tháng 10.2009 vào hạn Bính Tí
3- Đám cưới vào tháng 9.2009 tức là còn hạn Đinh Sửu, chưa qua Bính Tí
4- Cưới gấp vì mẹ đau, ứng vào Mão là Kiêu thần bị Dậu xung
5- Cưới gấp còn thể hiện ở việc sắp sang vận hạn mới, quyết định rất là khẩn trương
Lưu ý rằng chúng ta đang chỉ bàn về "ứng hạn" tức là sự việc xảy ra, mà "ám" làm cho vận hạn, duyên may, họa tai..v.v... xảy ra giống như là một "linh tính", một thứ "vô thức" thúc dục chúng ta vậy. Các bạn cũng thấy Ám xung Ám hợp đan chéo nhau, có thể gọi đây là "bất ly kì cách".
Còn xấu tốt thực sự ra sao, thì lại phải trở về xét kỹ CÁCH CỤC thành bại, xem cả đại vận, cung mệnh, có 1 cái nhìn chung nhất về 1 cuộc đời. Đấy lại là chuyện khác.
Vừa xem lại tứ trụ Nhạc Phi, sinh 24.3.1103, giờ Tị, chết ở vận bị ám xung Tị Hợi.
ấn
kiếp
nc
Tài
cung mệnh
quí
ất
giáp
kỉ
Tân
mùi
mão
tí
tị
Dậu
ất
Vận: Giáp Dần, Quí Sửu, Nhâm Tí, Tân Hợi
- Mùi Mão bán hợp Mộc, có Ất lộ, nếu có Hợi xuất hiện thành tam hợp Mộc vượng
- Tị hỏa ở trụ giờ ám xung Hợi là tiêu chí hung
- Dương nhận cách cần Quan Sát chế, được Mệnh Tân Dậu là quí cách; Tài Ấn không hại nhau, chỉ sợ nhất Thực Thương nhiễu cục, mà đấy chính là Tị ở trụ giờ.
- Nhưng Dậu cũng là Không Vong (tính từ trụ năm) nên giảm thọ
- Vận Tân Hợi, Hợi xuất ra hợp Mão Mùi, nhưng ứng hạn hung vì bị ám xung; Tị vừa xung Hợi, vừa hợp Dậu, quả là tình huống hợp mà khứ bỏ tận gốc! *
* Nhạc Phi bị Tần Cối hại chết. Người Kim vốn hận Nhạc Phi đến tận xương tuỷ, đã cấu kết với Tần Cối, bắt triều đình nhà Tống phải giết hại Nhạc Phi để làm điều kiện hoà nghị.
Kinh gởi Chị Kim Cương và các Anh Chị Em,
Khoa có tứ trụ của đứa con trai : Sinh ngày 28/9/1994 Giờ Mão
Giáp Tuất........ Quí Dậu....... Đinh Tỵ (NC)........... Quí Mão
Tứ trụ này tam hợp Tỵ Dậu Sửu thiếu Sửu nên Sửu là chi ám. Mặt khác tứ trụ hao hao giống tứ trụ nhật chủ Đinh Tỵ ở trên nên thân không đến nỗi nhược , do đó có thể dụng tài kim, nên đến vận Đinh Sửu sẽ là vận hỉ thần.
Khoa xin ý kiến của Chị Kim Cương và các ACE về cách luận trên của Khoa.
Thân chào Khoa!
Theo lesoi hiểu tứ trụ trên: nếu là dụng Tài kim thì Sát có dịp tung hoành hại thân vì Tài sẽ khắc Ấn sinh Sát. Đại vận Đinh Sửu ( 2028) cấu thành Tị-Dậu-Sửu ( kim cục) phá mệnh cục, vì sửu thuộc Thủy vận là cơ hội để 2 Quí khắc chế nhật chủ.
Vì thế tứ trụ sẽ có kỵ thần là Thổ-Kim; hỉ-dụng là Mộc-Hỏa.
Vài lời góp ý, lesoi xin ý kiến Chị KC và các bạn.
Trước hết, nói về Ám thì Sửu là chi ám, nhưng bát tự trên không có Mùi, không gọi là ám xung, vì Mùi xung Sửu.
Luận theo Tài cách, ta chú ý Cách của Tài có nhiều điểm quí như Tài tàng ẩn, nhật chủ có căn, cả hai Tài và Ấn không làm trở ngại nhau. Tài cách sợ sinh Sát bởi vì nếu thân nhược thì Sát chế ngự thân quá đáng. Cho nên mới nói có Tài không nên có thêm Quan Sát vượng.
Bát tự trên đúng như khoa nhận định, thân không quá nhược nên có thể đảm Tài. Sát tinh không có căn nhưng quá nhiều; 2 Quí chực sẵn phá Đinh, nhưng lại được dung hòa bởi Giáp lộ có thể tiết Quí. Tài cách này kể như bị phá nhưng có cứu giải. Vận hạn có Thổ Kim là tốt. Vận Đinh Sửu hình thành Tị Dậu Sửu khả năng phát tài là đúng. Tuy thế, khoa nên chú ý những năm có Thân vì lại thêm Thân Dậu Tuất tam hội Kim hình thành là quá vượng; mà cực vượng thì phản lại thành suy đồi nhanh chóng. Nói chung bát tự này không lo không có Tài, chỉ cần giảm đi 1 Quí là đủ phúc lộc rồi, chẳng hạn như Mậu hợp khứ Quí.
lesoi: Bạn luận như thế là cũng khá đúng, nhưng cần chú ý thêm các cường căn của thiên can và thân thực sự vượng hay nhược. Như Sát lộ có thể khắc thân là do Tài sinh Sát, nhưng Sát không có căn thì cũng giảm đi lực khắc chế của nó. Đến vận hạn thì chú ý Sát lại được sinh hay không, hoặc bị hợp bán, địa chi bất thuận lợi thì có thể vượt qua Sát.
Tài cách rất khó đạt hoàn toàn thuận lợi, vì Tài còn chế ngự Ấn, nên nếu Tài mà cực vượng thì cũng chẳng quí, bởi vì Ấn tinh sẽ bị phạm. Vì thế mà ta thường nghe nói "Tài Ấn không nên tương ngại" nghĩa là như thế, tức là chúng không nên cùng hiển lộ, lại cận nhau thì sinh ra lực khắc hút nhau. Như Đinh lấy Tân làm thiên tài, Tân gặp Ất là khắc ngay.
Trong Tài cách, nói về "Ấn hóa Sát khắc thân" có hiệu lực mạnh nhất là chú ý đến trụ giờ. Trong trường hợp này thì nhật chủ nhược là khổ nhất, vì Ấn bản chất là phò thân mà lại tiết tú Sát tinh để khắc chứ không còn phò trợ mình.
Thí dụ như Giáp nhật chủ lấy Nhâm làm thiên ấn. Sinh ngày Giáp Dần, giờ Nhâm Thân: Nhâm sinh Giáp, nhưng Nhâm tọa trên Thân là Sát, tất nhiên chính thức gọi là "hóa" (=tiết) Sát (Canh). Kim mà có điều kiện đủ thì ức chế Giáp mộc. Sinh tháng Thìn là Tài cách lúc này rất cần lộ ra Mậu để chế ngự lại Nhâm nên tự nhiên phú quí cũng bất hoàn hảo, vì Tài tinh lại phải chế Ấn (điều kiện Tài Ấn cùng có mà không làm trở ngại nhau bị mất), cuộc sống chật vật khó khăn.
Mặt khác, Giáp lộc ở Dần lại bị Thân xung mất lộc. Trụ ngày cũng là cung thê, ảnh hưởng cả đến hôn nhân tình cảm vợ chồng. Những trường hợp này toàn nhờ đại vận có Thực thần sinh Tài mới phát phúc.
Trước hết, nói về Ám thì Sửu là chi ám, nhưng bát tự trên không có Mùi, không gọi là ám xung, vì Mùi xung Sửu.
Luận theo Tài cách, ta chú ý Cách của Tài có nhiều điểm quí như Tài tàng ẩn, nhật chủ có căn, cả hai Tài và Ấn không làm trở ngại nhau. Tài cách sợ sinh Sát bởi vì nếu thân nhược thì Sát chế ngự thân quá đáng. Cho nên mới nói có Tài không nên có thêm Quan Sát vượng.
Bát tự trên đúng như khoa nhận định, thân không quá nhược nên có thể đảm Tài. Sát tinh không có căn nhưng quá nhiều; 2 Quí chực sẵn phá Đinh, nhưng lại được dung hòa bởi Giáp lộ có thể tiết Quí. Tài cách này kể như bị phá nhưng có cứu giải. Vận hạn có Thổ Kim là tốt. Vận Đinh Sửu hình thành Tị Dậu Sửu khả năng phát tài là đúng. Tuy thế, khoa nên chú ý những năm có Thân vì lại thêm Thân Dậu Tuất tam hội Kim hình thành là quá vượng; mà cực vượng thì phản lại thành suy đồi nhanh chóng. Nói chung bát tự này không lo không có Tài, chỉ cần giảm đi 1 Quí là đủ phúc lộc rồi, chẳng hạn như Mậu hợp khứ Quí.
Chị Kim Cương kính,
Theo Khoa, trong vận Đinh Sửu ngoài những năm Thân thì còn phải chú ý những năm Can Tân kim lộ sẽ khắc Giáp Ấn là hỉ của tứ trụ.
Xin ý kiến của Chị.
Bạn Khoa mến!
Bạn có thể cho biết thêm thông tin về cháu: Vừa qua cháu thi cử phổ thông ra sao? Năm Nhâm Thìn, vận Ất Hợi, Nhật chủ Đinh Tị cháu có dự kiến đi đâu xa không vậy? Ông bà cha mẹ rất yêu thương cháu phải ko?
Lesoi muốn biết thêm thông tin, làm phiền bạn. Chúc bạn vui vẽ.
Bạn Khoa mến!
Bạn có thể cho biết thêm thông tin về cháu: Vừa qua cháu thi cử phổ thông ra sao? Năm Nhâm Thìn, vận Ất Hợi, Nhật chủ Đinh Tị cháu có dự kiến đi đâu xa không vậy? Ông bà cha mẹ rất yêu thương cháu phải ko?
Lesoi muốn biết thêm thông tin, làm phiền bạn. Chúc bạn vui vẽ.
Lesoi thân,
1. Thi cử : Cháu thi tú tài vừa rồi xếp loại giỏi, còn cháu vừa mới thi đại học xong. Cháu thi 02 trường : Bách Khoa và Y dược. Điểm thi dự đoán "mấp mé" điểm chuẩn. Khoa đang lo về khoản điểm này, không biết có qua nổi không? Cũng xin Chị Kim Cương và ACE có thấy thông tin gì cụ thể về chuyện thi cử của cháu trong năm này hay không ?
2. Cháu thi xong có xin miền Tây chơi nhưng mẹ cháu không cho.
3. Cháu rất được người lớn tuổi quí mến, không những người thân mà còn là người ngoài nữa.
khoa có nhớ rõ khoảng tháng 7 (tháng Tân Mùi) năm Kỉ Sửu 2009 cậu con trai có sự cố gì không? Nói chung tháng này chỉ là kết quả của những việc trong tháng trước đó.
khoa có nhớ rõ khoảng tháng 7 (tháng Tân Mùi) năm Kỉ Sửu 2009 cậu con trai có sự cố gì không? Nói chung tháng này chỉ là kết quả của những việc trong tháng trước đó.
Cám ơn Chị đã quan tâm đến lá số của cháu.
Thưa Chị, tháng 7/2009 là có kết quả thi tuyển sinh vào lớp 10 của cháu( thi vào cuối tháng 6/2009). Kết quả lúc đó : Cháu trúng tuyển vào lớp 10 chuyên Hóa với điểm rất cao. Chị có thể nêu cách luận của Chị được không ?
Tôi hỏi rõ tháng Tân Mùi năm Kỉ Sửu vì khoa nói về Tân Kim khi lộ ra sẽ khắc Giáp:
Theo Khoa, trong vận Đinh Sửu ngoài những năm Thân thì còn phải chú ý những năm Can Tân kim lộ sẽ khắc Giáp Ấn là hỉ của tứ trụ.
khoa quên là Tân kim khắc Ất, chứ không khắc Giáp.
Ta xác định được Thổ Kim là dụng, lấy năm Kỉ Sửu để thí dụ rõ nhất vì năm này hoàn toàn Thổ, cùng với tháng Tân Mùi là Thổ vượng sinh Kim, trong điều kiện thân vượng, Sửu Mùi xung không phải là hung. Vậy không cứ rằng Tân Kim thấu ra là khắc Giáp.
Thứ nhì, khi biết Thổ Kim là dụng thì Mộc không phải là "hỉ". khoa có thể nhầm rằng việc con học giỏi là Ấn tốt, hoặc nhờ Giáp tiết Thủy nhiều mà Ấn là hỉ thần.
Thực ra nên hiểu là Tài tinh dụng được, nghĩa là Tài tinh sẽ khắc Ấn, mà "khắc" được Ấn trong điều kiện thân vượng tức là "được" Ấn (đoạt được). Chỗ này nhiều bạn thường nhầm lẫn, chỉ vì thân vượng hay nhược không rõ mà thôi.
Vấn đề nữa là tùy trường hợp mà giải, như "tài ấn không hỗ ngại" áp dụng được trong bát tự này. Vậy tuy khắc nhưng mà khắc để lập thành, khác với khắc chế hay trừ khử hẳn luôn.
Năm nay Nhâm Thìn, từ tháng Mậu Thân trở đi sẽ có kết quả thuận lợi cho đương số.
Tôi hỏi rõ tháng Tân Mùi năm Kỉ Sửu vì khoa nói về Tân Kim khi lộ ra sẽ khắc Giáp:
khoa quên là Tân kim khắc Ất, chứ không khắc Giáp.
Ta xác định được Thổ Kim là dụng, lấy năm Kỉ Sửu để thí dụ rõ nhất vì năm này hoàn toàn Thổ, cùng với tháng Tân Mùi là Thổ vượng sinh Kim, trong điều kiện thân vượng, Sửu Mùi xung không phải là hung. Vậy không cứ rằng Tân Kim thấu ra là khắc Giáp.
Thứ nhì, khi biết Thổ Kim là dụng thì Mộc không phải là "hỉ". khoa có thể nhầm rằng việc con học giỏi là Ấn tốt, hoặc nhờ Giáp tiết Thủy nhiều mà Ấn là hỉ thần.
Thực ra nên hiểu là Tài tinh dụng được, nghĩa là Tài tinh sẽ khắc Ấn, mà "khắc" được Ấn trong điều kiện thân vượng tức là "được" Ấn (đoạt được). Chỗ này nhiều bạn thường nhầm lẫn, chỉ vì thân vượng hay nhược không rõ mà thôi.
Vấn đề nữa là tùy trường hợp mà giải, như "tài ấn không hỗ ngại" áp dụng được trong bát tự này. Vậy tuy khắc nhưng mà khắc để lập thành, khác với khắc chế hay trừ khử hẳn luôn.
Năm nay Nhâm Thìn, từ tháng Mậu Thân trở đi sẽ có kết quả thuận lợi cho đương số.
Thưa Chị, để thảo luận cho rốt ráo vấn đề, Chị cho phép Khoa thắc mắc : Khoa hiểu là nguyên cục của bát tự này thì áp dụng được "tài ấn không hỗ ngại". Nhưng khi vận lộ tài thì luận là tài khắc ấn được không ?
Vt thấy đây là tài cách, sở dĩ đương số học giỏi là vì trong vận quan ấn. Tài sinh quan, quan sinh ấn! Tài đoạt được ấn chẳng qua là nhờ vòng tương sinh vì lộ quan đại vận khá mạnh! Với Tài cách như thế sẽ tương hỗ với đại vận tạo nên sự thành công của đượng số! VT nghĩ đuơng số này được sự dạy dỡ từ bố mẹ rất nhiều để có được thành tựu đó vì nguyên cục ấn nằm ở trụ năm! Tuy thai nhưng đến ĐV thì phi trường sinh đã mạnh rồi!
Nhưng khi vận lộ tài thì luận là tài khắc ấn được không ?
Chào bạn Khoa, mấu chốt vấn đề là tìm sự hữu dụng Cách cục của đương số. Chị KC đã xác định rõ Dụng-Kị rồi, còn Tài lộ có Ấn thì dĩ nhiên là có khắc chế nhưng quan trọng là bạn đã biết Tài là Hỉ hay là Kị. Ở nguyên cục thì Tài là Dụng, Ấn là Kị, vậy thì là tốt rồi.
Anh em mình cứ lấy ngũ hành mà suy luận là ra hết ( từ quan hệ Lục Thân cho đến ảnh hưởng hoặc quan hệ công việc ...). Chị KC luận đã quá rõ, chúc mừng bạn có cháu trai thật là tốt, mong cháu sẽ vững vàng hơn trong cuộc sống.
để thảo luận cho rốt ráo vấn đề, Chị cho phép Khoa thắc mắc : Khoa hiểu là nguyên cục của bát tự này thì áp dụng được "tài ấn không hỗ ngại". Nhưng khi vận lộ tài thì luận là tài khắc ấn được không ?
Nói về chữ "khắc", các bạn vẫn thường lo ngại sự hung sát của nó nên mới có thắc mắc này. Tôi thường không trả lời ngay theo ý tôi vì như thế các bạn không nắm rõ được nguyên lý, và ở những thí dụ khác lại nảy ra thắc mắc giống như vậy.
Để gọi là "rốt ráo", ta cần phải nắm rõ nguyên lý như vừa nói, vậy tốt nhất thì cho phép tôi hỏi lại, khoa đã nhận ra những năm nào vừa có Tài và Ấn lộ ra và có điều gì xảy ra? Ở đây chúng ta đang nói đến Tài là Kim và Ấn là Mộc, vậy cháu đang trải qua 2 vận Giáp, Ất là Ấn, cùng các năm có Kim như Canh Thìn, Tân Tị là Tài, hãy xét các thiên can này "chế ngự" nhau như thế nào trong liên quan với địa chi (Tuất, Hợi, Thìn, Tị...)
Chính là khi thông qua những xét đoán trên, khoa sẽ hiểu Tài Ấn không hỗ ngại khi gặp nhau ở vận có "bị làm sao không"...
Vt thấy đây là tài cách, sở dĩ đương số học giỏi là vì trong vận quan ấn. Tài sinh quan, quan sinh ấn! Tài đoạt được ấn chẳng qua là nhờ vòng tương sinh vì lộ quan đại vận khá mạnh! Với Tài cách như thế sẽ tương hỗ với đại vận tạo nên sự thành công của đượng số! VT nghĩ đuơng số này được sự dạy dỡ từ bố mẹ rất nhiều để có được thành tựu đó vì nguyên cục ấn nằm ở trụ năm! Tuy thai nhưng đến ĐV thì phi trường sinh đã mạnh rồi!
Nói chung thì không nhất thiết là Tài sinh Quan, Quan sinh Ấn luôn luôn tốt. Tôi chỉ nhắc như thế, vì thân vượng nhược sẽ xử trí khác nhau.
Có một điểm đồng ý là, khi thập thần ở đúng vị trí của trụ đại biểu thì lực khá rõ, như Ấn ở trụ năm, Thực Thương ở trụ giờ (đối với nữ) hoặc Quan Sát, Tài ở trụ tháng. Lực rõ về hung hay cát thì tùy, nhưng nhất định là "nhìn thấy" được hành động của thập thần đó. Vì quan niệm cũng khá rõ: trụ năm là thời gian chúng ta còn nhỏ, cần phò trợ là chính, nên Ấn tọa trụ năm là Ấn có lực rõ ràng. Sang đến trụ tháng trụ ngày là thời gian trung niên, bắt đầu tiến đến những khía cạnh tự lập của mình, nên Quan Sát và Tài tinh đóng đúng trụ là thể hiện rõ ý chí của mình.
Tuy thế, đấy chỉ là 1 cách nhìn nhanh về thập thần, ở từng bát tự cụ thể cần nhận định dụng sự hay là kị của các thập thần đó. Ngoài ra, đại vận mới là phần quyết định sau cùng, vì bát tự nguyên cục quá tốt mà đại vận không đúng đường cần có thì cũng "xôi hỏng bỏng không".
Trong đại vận lại nhìn đến lưu niên rõ hơn. Trong 1 năm thì xét tháng, tháng xét ngày. Tuy là quá chi tiết, nhưng là để hiểu không phải dựa hoàn toàn vào bát tự tốt là ta xoa tay thỏa mãn. Cách Cục của tứ trụ vì thế là 1 phương pháp xem như là "điểm sàn" của một cuộc thi, còn "điểm chuẩn" là nằm ở vận hạn!
Nhiều mệnh lý gia hiện đại chỉ luận cát hung thực tế, mà bỏ qua phần luận Cách là chỉ vì muốn biết nhanh "sự việc gì xảy ra"; phần mệnh Phú, Quí, Bần hay Tiện là không cần thiết. Có lẽ cũng do quan niệm xã hội mà ra, chúng ta thử suy nghĩ xem...
em chào chị KC và mọi người!
vừa đọc các bài viết về ám xung của chị KC và mọi người, em có ví dụ này mong nhận thêm ý kiến của các anh chị!!!
Nam mệnh:
Bính Dần.... Nhâm Thìn.... Kỉ Sửu... Quý Dậu
vận: 6-15 Quý tỵ
đương số có ông nội và mẹ mất trong vận này... cụ thể ông nội mất vào năm Ất hợi và mẹ mất năm Kỷ Mão.
có thể thấy cái nhìn đầu tiên khi vô vận này là Bính Hỏa bị 3 Thủy khắc chế mạnh, tỵ Hỏa gặp hợp hóa kim nên mẹ gặp hạn và đúng hạn này là gặp hạn liên quan đến nước và mất vào tháng 11 âm nên Thủy vượng... nhưng em chưa hiểu là sao lại ứng kì vào năm Kỷ Mão, và ông nội mất năm Ất hợi phải chăng là ám xung Tỵ Dậu Sửu gây nên....
mong được anh chị giải thích đôi lời!!!
Trường hợp của lang_tu thân nhược, tài tinh thủy là kị thần. Vận Quí Tị, tam hợp Kim hình thành sinh thủy, khắc mộc. Tị-Dậu-Sửu có khắc là có động. Năm Hợi xung Tị, năm Mão xung Dậu. Năm Mùi đã sang vận khác nên bản thân có thể vì thế mà thoát hạn. Để ý tam hợp Tị-Dậu-Sửu và tam hội Dần-Mão-Thìn là Kim khắc Mộc, trong tam hội Mộc này các đại diện lục thân đều có thể có vấn đề.
Đây không phải là ám xung từ nguyên cục, chỉ là 1 trong những cách nhìn về Hợp, Xung, Khắc mà thôi. Tôi có nói vài lần: Khi có hình thành vừa Hợp, lại vừa Xung thì thường xảy ra vấn đề lớn, cả tốt lẫn xấu, tùy theo tứ trụ. Các bạn nên chú ý những đại vận hình thành tam hội, tam hợp như vậy, lưu niên nào xung phá hội hợp này thì năm đó có thay đổi bản thân hoặc gia đình.
Hay là như ngay trong tứ trụ vừa hợp lại vừa xung chi đại vận, ứng vào trụ nào, thập thần nào thì quan hệ của mình đối với lục thân tương ứng có vấn đề. Thí dụ như vận Quí Tị lập Tị-Ngọ-Mùi, nhưng trụ tháng là Hợi, vậy địa chi Tị của đại vận vừa hợp vừa xung với tứ trụ. Đến lưu niên nào có đại biểu của cha, mẹ, vợ, con... là có ứng hạn.
cảm ơn chị KC!!!
vấn đề chị đưa ra em sẽ chiêm nghiệm thêm ạ.
và về ám xung em thấy mọi người đưa ra các ví dụ về ám xung đều là những vận hạn xấu, vậy nếu ám xung là hành của dụng thần thì sao???
nvh8545 xin chào cô kimcuong và các bạn
Trong lớp tứ trụ đầu tiên của cô kimcuongmở ở bên HKLS tôi đã đưa lên tứ trụ của người cháu trai là người ngoan ngoãn,nhưng lại cơ khổ, ngày 19.5.2009 dương lịch (năm Kỷ sửu, tháng Kỷ tị, ngày Giáptý) bị bắt tù 28 tháng.
Sinh ngày 25.5.1982, 9h15 sáng (dươnglịch). Tứ trụ là:
Nhâm----Ất------Mậu-------Đinh--------cung mệnh Đinh Mùi
Tuất------tị-------Thân-------Tị
Mộ-------LQ-----Bệnh-------LQ
Đại vận: Bính Ngọ - Đinh Mùi – Mậu Thân –Kỷ Dậu – Canh tuất
Cô kimcuong nhận định Thân vượng, dụng thầnThủy và cô còn nói “Theo tôi thấy thì khó khăn ở 2 đại vận đầu đã qua. Các đạivận sau đều dần tiến triển theo chiều hướng tốt”.
Đến ngày 19.5. 2011 dương lịch, giờ Thìn ratù (năm Tân mão, tháng Quý tị, ngày Giáp tuất)
Ngày 26.11.2011 dương lịch cưới vợ
Ngày 14.8.2012 dương lịch, 17h30 vợ sinhcon trai.
Tôi có suy nghĩ là tứ trụ có tháng Ất làbản khí của Mão. Năm Tân mão có Tân là bản khí của Dậu, Thái tuế Mão ám xungDậu để tạo ám hội cục Thân Dậu Tuất hỷ thần mà ra tù, lấy vợ. Xin nhận xét củacô kimcuong và các bạn.
Và cũng xin sự luận giải của cô, của cácbạn về sự suy nghĩ của tôi về tứ trụ con trai của đương số có cách Giả Tòng Tài:
Ngày 14.8.2012, 17h30
Nhâm-----Mậu-----Đinh-----Kỷ----------------cung mệnh Nhâm Tý
Thìn------Thân-----Mùi------Dậu
Suy------- M.dục----Q.đới----T.sinh
Đại vận: Kỷ Dậu – Canh Tuất – Tân hợi –Nhâm Tý – Quý Sửu – Giáp Dần
Thân Thìn vớiTý (cung mệnh) thể hiện Thủy vượng
- Can ngày Đinhsinh mùa Thu ở lệnh tháng gặp Bại địa (Mộc Dục).
- không cóKiếp trợ, Tỉ tàng sâu và nhược ở lệnh tháng, khuyết Ấn, Kiêu tàngsâu ở dưới chi là
Thai, Dưỡng, Tuyệt, chỉ có ở Thìn được Quan Đới nhưng Thìn thiên vềhợp cục Thủy, do đó
Kiêu Ấn coi như vô lực.
- Tài tuy khôngthấu lộ nhưng vượng tới đỉnh (ĐV, LQ)ở lệnh tháng và trụ giờ, còncó Thương Thực có
căn gốc vừa tàng vừa lộ tương sinh, Tàicòn có Quan bảo hộ thì Tài là vượng nhất của tứ trụ
1 là Thân cực nhược thì vất vả đến 57tuổi
2 là Tòng Tài cách thì cuộc đời thuậnlợi. Khả năng này là lớn vì Thân ở Bại địa lại không có sinh, trợ , trong tứ trụ lại còn có xu hướng hợptiết hao Thân là Thủy, ở vận trình gặp Tuất còn tạo hội cục Tàithì tất yếu Thân sẽ nương tựa Tài mà phát triển. Hơn nữa là theotiêu chí Tòng Tài thì:
-phải sinh mùa Thu (Tài),
-không có Tỉ Kiếp lộ,
-Nhật chủ nhược, vô căn (ở đây chỉ cógốc tàng sâu dưới chi ngày, vô căn ở lệnh tháng)
-có Quan lộ và tàng nhưng thế lực yếuhơn Tài (vì Quan tọa trên đất mộ lại gặp ThươngThực mạnh)
Thân
Tứ trụ cháu trai bác nvh8545, Mậu thổ là nhật chủ, cách kiến lộc, ấn thụ thừa thải, sinh mùa hạ, cần thủy làm dụng. Trong Tích Thiên Tủy có nói về Mậu: "Kì khí chúc dương, hỉ nhuận bất hỉ táo, tọa dần phạ thân, tọa thân phạ dần. Cái trùng tắc căn động, phi đích đạo chi chính dã, cố nghi tĩnh.", nghĩa là Mậu dương thổ thích ẩm ướt hơn là khô táo, nếu mà tọa Dần thì sợ Thân xung, tọa Thân thì sợ Dần xung, vì xung tức là động, không còn giữ được chính nghĩa, cho nên rất cần tĩnh.
Trụ ngày là Mậu Thân đến đại vận Mậu Thân là phục ngâm, những việc xảy ra trong 10 năm này đều liên can đến bản thân, thực thần và tài tinh. Gặp năm Canh Dần xung động, trong Dần là Giáp khắc Mậu, tất có việc xảy ra cho mình, nhưng lại phải nhìn nhận trước đó là năm Kỉ Sửu, kiếp tài vượng, có thể do quyết định tự mình không khôn khéo nên phạm pháp lý. Năm Nhâm Thìn chính là dụng thần có lực nên có nhiều hỉ sự.
Còn việc ám xung Kim như bác kể thì theo tôi chỉ nhìn nhận rằng Tân Kim hữu dụng hơn Canh kim, vì Thân thực ra đã ngại Dần xung, còn Dậu không có mặt trong tứ trụ nên có thể phát huy mặt thuận lợi này, vì thế mà năm Tân Mão ra tù.
Tứ trụ con trai mới sinh 2012, các bạn hãy cho biết thêm ý kiến giúp bác nvh8545. Tôi thấy cách luận của bác khá đúng về thân cực nhược, rất nhiều tứ trụ gặp kiêm cách như thế này. Ở đây, ngoài cách tòng tài (giả), còn thêm 1 cách tòng khác nữa.
Mệnh Nhâm thìn có một chữ Mùi quí giá để tranh thủ thời gian xoay chuyển tình thế đoán nhận tài quan.
Vào một tuổi nào có thể được thì tập cho bé làm quen với thể dục dưỡng sinh,dần dần sang khí công,thiền,yoga,5 thức Suối Nguồn Tươi Trẻ.v..v..những phương thức luyện tập này chính là nguồn bổ sung tuyệt vời cho Thân nhược. Song song đó thông qua gia đình,trường học để "bổ" cho được một chữ Ấn đến nơi đến chốn,điều này thật sự là vô cùng quan trọng cho tiền đồ của bé. Nếu làm được 2 điều trên thì làm gì có chuyện "vất vả đến 57 tuổi" mà phải là trái lại mới đúng.
Tóm lại dụng thần nguyên cục yếu hoặc không có thì ta cố gắng tận lực tự làm ra vậy.
cám ơn cô kimcuong đã luận giúp, mời các bạn luận tiếp mệnh cháu nhỏ 2012 theo hướng gợi ý của cô kimcuong, chắc còn có điều thú vị để học tập.
cám ơn Hjmama, bạn có nhãn quan riêng cho lý thuyết Tử Bình áp dụng thực tiễn rất hay. Bạn hãy nói rõ hơn về sự quý giá của chữ Mùi để có thể "xoay chuyển tình thế đoán nhận tài quan". Tôi rất thích sự sâu sắc trong lý luận lý thuyết và thực tiễn kiểu này.
cám ơn các bạn nhiều
@nvh: chẳng phải là nhãn quan riêng đâu bạn ơi, ý này tôi lĩnh hội được từ chị Kimcuong đấy thôi.
Sự quí giá của Mùi là ở chỗ tàng chữ Đinh nên nhật can có gốc (manh phái còn gọi là bán lộc) tôi sợ vận vào bắc phương thủy địa, chữ Mùi khó trụ được trước lũ sóng thần, thà không có gốc còn dễ dàng tòng theo cơn sóng dữ mà tồn tại chấp nhận mất đi bản sắc, chứ đã có gốc rồi phải tranh thủ thời gian 2 vận đầu thủy chưa tới mà thực hiện 2 điều như trên đã nói để Thân vững,Ấn mạnh có thể chế ngự Thương quan biến chúng thành phương tiện công cụ cho mình khi thủy vận đến đương số tự tin làm chủ tài quan.
Theo ý trên thì lại xin nói rõ hơn. Trong tứ trụ, mỗi một thập can có mặt, kể cả ở cung mệnh, dù là dư khí cũng phải tính có lực hay không có lực, điều này cơ bản rồi. Nếu có mặt, tức phải công nhận tâm tính đó sẽ thể hiện ra, dù chỉ là nội tâm sâu kín nhất. Nhưng làm thế nào để biểu lộ được? Đó là ở hành vận, đây là cơ hội để chúng ta có dịp bộc lộ khả năng, tư tưởng, hành vi.
Ngoài ra, ảnh hưởng lên thân nhược, thân vượng, còn là môi trường sinh sống nữa. Điều này cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng thêm. Vì thế, có thuyết cho rằng đổi được mệnh cách là ở đại vận.
Thế nhưng cũng không dễ luận đoán khi nào thì chuyển được Cách một cách chính xác, vì chúng ta sống trong không gian và thời gian luôn dịch chuyển, nên không bao giờ có thể xét đoán chính xác vận của 10 năm tới. Tại sao phải chấp nhận nguyên lý dịch hành này? Đó là vì chúng ta không sống 1 mình 1 hải đảo, mà sống chung quanh với nhiều số mệnh khác, tất cả đều có ảnh hưởng lên nhau, xã hội Đông Tây khác nhau, thậm chí địa phương Nam Bắc cũng khác biệt lối sinh sống và tư tưởng làm nền cho mọi hành động.
Mặt khác, đại vận nếu có can chi không hỗ trợ nhau và không phải là dụng thần, nhưng lưu niên thì có, cũng là 1 điều bổ cứu cho thân nhược. Thí dụ biết là cần Mộc Hỏa, thì lưu niên là Giáp Ngọ hay Ất Tị thì vẫn tốt hơn là Canh Dần hay Nhâm Ngọ vậy. Trong 60 năm hoa giáp, có thể thấy rõ thái tuế (lưu niên) tính từ năm sinh của mình như thế nào.
Nói là hỗ trợ thân nhược là như thế, rất là nhiều cách để xét. Tuy nhiên, cũng cần phải có 1 tầm nhìn rộng hơn để biết cố gắng của mình. Theo tôi, thì thật sự chính bản thân của trẻ phát triển rõ như thế nào trong gia đình, thường là sau tuổi lên 5, 6, mới biết được chúng thuộc hẳn về thân nhược phải tòng cách hay không. Và đôi khi Tòng Cách lại rất tốt cho trẻ.
Kinh nghiệmcủa cô kimcuong theo dõi tình trạng phát triển của trẻ 5 – 6 năm là đúng vì sẽtrải qua các can chi trong môi trường thực của cháu thể hiện.
Cũng theohướng đó thì tôi đã theo dõi để nắm bắt bằng tháng ngày, tất nhiên còn quá ngắnnhưng 60 ngày là 1 lục thập hoa giáp cũng có điều thú vị. Nhưng điều đáng nóilà tôi viết ra đây để xin được các bạn góp ý về cách suy luận của tôi liệu cóphù hợp với phương pháp Tử Bình hay không.
Xét về nămthì Nhâm Thìn thủy vượng:
-Nếu Tàikim là dụng thần thì cũng không phải xấu vì thủy là môi trường hoạt động củakim
-Nếu Thân nhượcMộc Hỏa là dụng thần thì xấu nhiều hơn tốt vì Mộc trong tứ trụ không vượng đểmà thông quan, từ đó năm nay cơ thể sẽ không khỏe, cần theo dõi tiếp
Xét vềtháng:
Tháng sinhlà Mậu Thân, đã theo dõi tiếp theo tháng Kỷ Dậu và hiện ở tháng Canh Tuất
Nếu Tài kimlà dụng thần thì các tháng này tốt (thực tế cháu khỏe, ngoan, không có gì đặcbiệt)
Nếu Thân nhược, dụng thần là Hỏa Mộc thì các tháng này không tốt
Xét về ngày có vài ngày có biểu hiện khác thường chủ yếu ở các ngày Mộc Hỏa sau:
-Ngày Giáp Dần (1 tuần tuổi), do ngay sau khi sinh bác sĩ yêu cầu khámtai nên đã đưa cháu vào viện khám, sau khám tai không có vấn đề gì, nhưng lúc ởbệnh viện mẹ cháu bị kẻ xấu móc mất điện thoại mới (14 triệu)
-ngày Bính Dần, Đinh Mão (3 tuần tuổi) đại tiện rất khó khăn gây viêm đỏhậu môn, phải dùng thuốc
Cám ơn các bạn
Ám cách này rất hay, cảm ơn cô Kim Cương.
Ngoài ra từ đây cũng thấy rõ ám cách chỉ xét với tam hợp. Nếu áp dụng thêm chiêu hoán đổi lộc Thiên can vào của manh phái và kết hợp tượng thì xem được rất nhiều thông tin.
Ám cách này chỉ xét với lưu niên. Vì lưu niên mới có xung hợp "động" với bát tự. Ví dụ bát tự có dậu ám, có sẵn tị sửu, bát tự hỷ kim thì vào năm Mão sẽ có chuyện tốt, đại vận Mão thì không phải.
Ám cách này chỉ xét với lưu niên. Vì lưu niên mới có xung hợp "động" với bát tự. Ví dụ bát tự có dậu ám, có sẵn tị sửu, bát tự hỷ kim thì vào năm Mão sẽ có chuyện tốt, đại vận Mão thì không phải.
Có đấy sherly. Tôi có người quen mua nhà năm Dậu, vận Mão; trong tứ trụ có Tị Sửu ám Dậu.
Kỉ Hợi - Nhâm Thân - Đinh Sửu - Ất Tị
thực.....quan............................t.ấn
Nguyệt lệnh Tài tinh, thân nhược, kiếm tiền cực về thân thể. Mãi tới vận Đinh Mão, mộc hỏa Ấn Tỉ hộ thân, gặp năm Ất Dậu 2005, Dậu và Tị Sửu hình thành thế Kim; xung Kim#Mộc mà quyết định mượn nợ mua nhà. May cho anh ta, trong vòng 20 năm qua, vận Đinh Mão, Bính Dần giúp sức mà trả được toàn bộ nợ, căn nhà trị giá có đến vài trăm ngàn đô la.
Chị Kim Cương cho e hỏi: Lá số này đến Đinh Mão, Bính Dần mới khá về kinh tế đúng không chị?
Có đấy sherly. Tôi có người quen mua nhà năm Dậu, vận Mão; trong tứ trụ có Tị Sửu ám Dậu.
Kỉ Hợi - Nhâm Thân - Đinh Sửu - Ất Tị
thực.....quan............................t.ấn
Nguyệt lệnh Tài tinh, thân nhược, kiếm tiền cực về thân thể. Mãi tới vận Đinh Mão, mộc hỏa Ấn Tỉ hộ thân, gặp năm Ất Dậu 2005, Dậu và Tị Sửu hình thành thế Kim; xung Kim#Mộc mà quyết định mượn nợ mua nhà. May cho anh ta, trong vòng 20 năm qua, vận Đinh Mão, Bính Dần giúp sức mà trả được toàn bộ nợ, căn nhà trị giá có đến vài trăm ngàn đô la.
Đúng đấy HDL , cậu em này được 2 vận đó thật là tốt về kinh tế, nhưng phải nói là sức khỏe kém.
Cám ơn chị, vì e thấy Hợi phá cách. Dần Mão vận hợp quan thành ấn, dụng tài phối ấn.
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.