View Full Version : Hướng dẫn luận Mệnh học Tử Bình
Hướng dẫn luận mệnh mệnh học Tử Bình
Mệnh học Tử Bình là một môn học Thiên Địa Nhân. Nó nói quy luật vận hành và phép tắc tác dụng của Thiên đạo, Địa đạo, Nhân đạo; phân ra 3 tầng lớp là Đạo, Pháp, Thuật; lấy Cách, Cục, Tượng để định vị phú quý bần tiện thọ yểu cát hung đời người; thông qua sinh khắc chế hóa, hình xung hợp hại để tác dụng. Vận dụng ngũ hành, thập thần để mô tả cuộc đời vui buồn tan hợp, yêu giận vui buồn, danh lợi lên xuống và cát hung họa phúc, nó là một môn học dự trắc học cuộc đời thuộc về tầng lớp Thiên đạo hết sức phù hợp ở phép tắc tác dụng Thiên Địa Nhân.
Nghiên cứu mệnh học Tử Bình, không hiểu rõ đạo Thiên Địa Nhân và phép tắc tác dụng, khó tránh thường phạm sai lầm xa rời thực tế, phương pháp càng ngày càng nhiều, tỷ lệ chuẩn xác càng ngày càng thấp. Không hiểu lý, thì cho dù có học 10 năm, cũng chỉ là vô ích.
Dưới đây sẽ lý giải mệnh học Tử Bình cùng các loại khái niệm:
Thuật dự trắc bát tự Tử Bình, là căn cứ quan hệ qua lại và phép tắc tác dụng giữa 3 cái Thiên Địa Nhân, để tiến hành suy tính phú quý bần tiện và cát hung họa phúc con người.
Mệnh học Tử Bình cho rằng: Con người không phải là trung tâm của giới tự nhiên, con người duy chỉ có thuận theo tự nhiên, nắm chắc tự nhiên, mới có thể sáng tạo cuộc đời tốt đẹp cho mình. Cho nên, luận mệnh không phải là lấy nhật chủ làm trung tâm, mà là lấy chủ khí trời đất làm trung tâm, căn cứ tình huống vận hành và kết quả tác dụng chủ khí trời đất cùng quan hệ nhật chủ, để định ra tầng lớp cuộc đời và cát hung họa phúc.
Chủ đề luận mệnh khá rõ ràng:
(1) Đầu tiên tra tình huống vận hành chủ khí trời (Thập thần điều khiển nguyệt lệnh) hoặc là chủ khí đất (thập thần có sức sống nhất ở trong thiên can). Chiếu theo nguyên tắc thủ dụng Tứ Hung thần nghịch dụng tức là Tứ Hung thần phải có chế hóa, Tứ Cát thần thuận dụng tức là Tứ cát thần phải được sinh hộ. Xem nó có thể qua 3 cửa ải Hộ vệ, Thanh thuần, Chân Giả hay không. Qua được 3 cửa ải này thì gọi là Thành Cách hoặc gọi là Thành Cục, không quý thì phú. Không có thể qua 3 cửa ải này thì khó có đại phú quý. Lại có thể căn cứ tình huống không qua 3 cửa ải này là cách cục không thành hoặc là phá bại, phân chia ra chi tiết trung phú trung quý, tiểu phú tiểu quý, phổ thông bình thường, hày là hung hiểm bần tiện.
(2) Sau đó xem cảm ứng nhật chủ cùng cách cục, cũng chính là xem Thể Dụng có hòa hợp hay không.
+ Nếu như nhật chủ có khí trung hòa, tức là có thể hoàn toàn đảm nhận được cách cục, thì lấy cách cục thành bại lúc ở tình huống trạng thái tĩnh để luận phú quý bần tiện.
+ Nếu như nhật chủ thái vượng hoặc bất cập, bản thân có bệnh, như vậy thì phải xem Thể Dụng thần và dụng thần cách cục có mâu thuẫn xung đột hay không. Nếu không có mâu thuẫn, luận bình thường; có mâu thuẫn, nhật chủ sẽ tùy theo mức độ khác nhau mà loại trừ cách cục, kết quả cuối cùng nếu không phải là hạ thấp tầng lớp cách cục, thì là cách cục hoàn toàn bị phá bại. Như cách cục thân nhược Tài vượng, Tài cách tối kỵ Ấn Tỉ, mà nhật chủ nhược lại thích Ấn Tỉ sinh phù, như vậy kỵ thần cách cục trái lại trở thành Thể dụng thần, cả hai là mâu thuẫn xung đột nhau. Cuối cùng sẽ xuất hiện 3 loại kết quả như sau:
1. Tài cách thành lập, nhật chủ phú quý;
2. Tài cách tầng lớp hạ thấp, nhật chủ có giảm phú quý;
3. Tài cách phá bại, nhật chủ bần tiện.
Rốt cuộc là lấy kết quả nào? Vậy thì phải xem tổ hợp mệnh cục, xem mâu thuẫn giữa dụng thần cách cục và Thể dụng thần có thể vì tổ hợp mà tránh khỏi hay không.
Tổng kết một câu nói:
Luận mệnh lấy "Dụng" làm chủ, lấy "Thể" làm phụ, trước tiên xem cách cục thành bại, thứ là tra nhật chủ vượng suy, cuối cùng căn cứ tình huống cảm ứng của Thể Dụng, được ra nhật chủ phú quý bần tiện, cát hung họa phúc.
Đại Đạo chí giản, thuật luận mệnh Tử Bình thì đơn giản như vậy. Trình tự luận mệnh so với phép vượng suy là đơn giản hơn rất nhiều.
Phép cân bằng vượng suy ngũ hành sinh khắc luận mệnh, chỉ có bình định nhật chủ vượng suy tức là thân vượng thân nhược, thì phải xem nguyệt lệnh, thông căn, thấu can, cho điểm, còn phải cần Ấn Tỉ là một nhà, Thực Thương Tài Quan là một nhà để so sánh cân bằng, sau đó mới có thể rút ra được sợ bộ vượng suy.
Không nói độ khó nắm chắc sự cân bằng, chỉ trình tự thao tác thì đã nhiều. Đương nhiên so với trước đây phái mệnh lý pha trộn hợp lại nạp âm, thần sát, cách cục, vượng suy thành một thể thì phải không ít đơn giản.
Tiếp theo là nói một vài khái niệm.
1, Thiên đạo, Địa đạo, Nhân đạo
Thiên đạo, Địa đạo, Nhân đạo, ở trong mệnh học Tử bình là chỉ quy luật vận hành và phép tắc tác dụng chủ khí của trời đất, ngũ hành địa chi, tạp khí nhân gian ở trong mệnh cục.
+ Thiên đạo: Là nói quy luật vận hành và phép tắc tác dụng chủ khí trời đất ở trong mệnh cục.
+ Địa đạo: Là nói quy luật tác dụng giữa các địa chi.
+ Nhân đạo: Là nói tạp khí nhân gian tức là tình huống tổ hợp và phương thức tác dụng của những thập thần khác, ngoại trừ chủ khí.
Chủ khí trời phối hợp tốt đẹp, kết cấu hoàn thiện, có thể làm chỗ dùng cho ta, thì gọi là thành cách. Thành cách, là người được thiên thời, khẳng định là quý nhân ở nhân gian, dẫn đầu hành nghề. Tuyệt đại đa số nhân vật lớn đều là được thiên thời, bạn đi nhìn một chút bát tự của bọn họ là biết.
Chủ khí đất phối hợp tốt đẹp, kết cấu hoàn thiện, có thể làm chỗ cho ta dùng, thì gọi là thành cục. Thành cục, là người được địa lợi, khẳng định đó là người giàu có ở nhân gian, làm chủ của cải xã hội. Bát tự phú ông ít có ai là không được địa lợi, một vài bát tự đại phú hào đồng thờì còn được thiên thời. Chỗ này là hết sức phù hợp với xã hội hiện thực là Đại phú do thiên, tiểu phú do cần.
Tổ hợp tạp khí nhân gian tốt đẹp, có thể làm chỗ cho ta dùng, gọi là được tượng cát. Tuy không thể nhận được phú quý khá lớn, ngược lại cũng có cơm no áo ấm, cuộc sống như ý.
2, Cách, Cục, Tượng
Thiên đạo, Địa đạo, Nhân đạo, ở trong bát tự là dùng Cách, Cục, Tượng để biểu thuật. Thiên đạo, Địa đạo là Cách và Cục, Nhân đạo là Tượng.
Trong bát tự, chỉ có thần điều khiển tổ hợp nguyệt lệnh hoàn thiện, làm chỗ dùng cho ta, mới có tư cách gọi là thành cách. Tổ hợp chủ khí đất hoàn thiện, làm chỗ cho ta dùng, mới có thể gọi là thành cục.
Thần điều khiển Nguyệt lệnh hoặc là một thập thần nào đó có sức sống nhất ở trong thiên can, là thủ lĩnh bát tự, là điểm trung tâm luận mệnh.
Chúng nó là xương sống của bát tự, chỉ có chúng nó mới có khả năng khởi thành lập cái khung giá lớn của cuộc đời, tức là thành cách hoặc thành cục.
+ Cách, là được chủ khí trời, là cái khung lớn. Thành cách, giống như vật cao lớn nhất trong giới tự nhiên, như núi cao sống lớn. Ở nhân gian cũng là như vậy, là rồng ở nhân gian, là xương sống của xã hội, đa số là giai cấp thượng tầng ở trong xã hội, lĩnh tụ nghề nghiệp.
+ Cục, là thế cục của bát tự, giống như hướng đi của thế núi địa hình. Bởi vì có lực mới có tư cách và khả năng khởi thành lập cái khung trung đẳng. Thành cục tuy không có cao to bằng thành cách, nhưng cũng là nhân vật có tầm quan trọng ở trong xã hội.
+ "Tượng" là tổ hợp tạp khí, lực lượng không đủ lớn, khởi thành lập cái khung ổn định, rõ ràng, hình dạng lúc có lúc không, giống như cây hoa cỏ yếu nhược ở trong tự nhiên, dân phòng nhỏ bé ở trong thành thị, dân chúng ở trong xã hội, chuyện nhỏ nhặt ở trong cuộc sống, tuy rất nhiều nhưng mà bởi vì bản thân yếu nhược mà không để ý tới, ảnh hưởng đối với xã hội, cuộc sống, cuộc sống là không lớn.
Kinh Dịch nói: "Tại Thiên thành Tượng, tại Địa thành Hình." Hình là kết quả của Tượng, Tượng là quá trình diễn biến của Hình. Hình là thực thể có thể dùng ngũ quan biết được, một khi thành hình thì rất ít biến hóa, giống như Cách và Cục, sau khi thành lập được hình thành, ở trong tuế vận Hậu thiên rất khó thay đổi.
"Tượng" là chưa thành Hình, hoặc là hình thể yếu nhược dễ thụ thương mà biến hóa, hoặc là vật ở trên hình không ổn định, là nhiều thay đổi.
"Tượng" ở trong Mệnh cục là không ổn định, chủ yếu là bởi vì lực lượng tạp khí không đủ hoặc là không phối hợp mà thành.
Bởi vậy, "Tượng" chỉ có thể luận phú quý bần tiện, cát hung họa phúc.
Sở trường của "Tượng" là chuyên luận chuyện vụn vặt trong cuộc đời, chuyện tiểu sự như va chạm lời nói qua lại, giận hờn yêu ghét biến hóa bất định. Luận mệnh tuy là lấy tầng lớp cuộc đời làm chủ, lấy cách cục làm trọng, tượng chỉ là phần cuối của mệnh, không có quan trọng. Nhưng luận mệnh là chỉ nói phú quý bần tiện, cũng không nên đơn điệu thái quá, mà đa số bát tự con người đều là không có cái khung sườn, không thành hình, bọn họ thì không có cái gì phú quý bần tiện quá nhiều để luận, thì cũng chỉ quan tâm đến chuyện vụn vặt cuộc đời như việc thất nghiệp, duyên đến duyên đi, lúc nào phát chút tiểu tài, lúc nào thấy vận đào hoa. Thật đúng là chúng ta không thể không bỏ chút tinh lực đi nghiên cứu ở trên Tượng.
Cuộc đời là vạn tượng, bát tự lại có rất nhiều phép thủ tượng, như tượng thiên can, tượng địa chi, tượng tổ hợp can chi, tượng thập thần, tượng tổ hợp cát hung thần, tượng xung, tượng hợp, tượng cung vị, tượng cát, tượng hung … Không nên cho rằng nhiều là phức tạp, những chỗ này đều là có tuân theo quy luật, đến lúc học sâu nắm chắc thì sẽ thấy rất đơn giản.
"Tượng" thực ra chính là một phạm trù về Thuật, chính là chỗ chúng ta nói tuyệt chiêu, kỹ xảo, khẩu quyết.
"Tượng" là vật sống, dễ dàng biến hóa, khởi học nhanh đến trên tay, nếu muốn nắm chắc chuẩn xác, độ khó là không ít. Thứ nhất bản thân của nó là chưa thành hình, tính khả biến rất lớn. Tiếp theo là, bởi vì cái khung yếu nhược không ổn định, rất dễ dàng bị hoàn cảnh bên ngoài tác dụng mà thay đổi, giống như con tắc kè bông đổi màu, có thể tùy theo hoàn cảnh thay đổi ma thay đổi. Ví dụ như, bạn nhìn đến tướng mạo một người nhìn lấm la lấm lét, loại "Tượng" này của nó sẽ khiến cho trong lòng của bạn có ý nghĩ người này là không tốt. Không giống người tốt thì chẳng khác nào là người xấu, chỉ có chờ lúc hắn làm kẻ trộm, lúc làm chuyện xấu, tượng người xấu này mới là thành hình. Nếu như cả đời của hắn an thân thủ phận, tuân thủ pháp luật, như vậy tượng người xấu này theo cả đời của hắn, cũng sẽ không xuất hiện thành hình, có Tượng mà không có Hình. Nếu như người nhà tin Phật, tu tâm hành thiện, hoặc là làm thủ thuật chỉnh sữa dung mạo, như vậy thì tượng người xấu sẽ thay đổi triệt để.
Tượng khác với Hình, không có tiêu chuẩn đáp án, có thể khiến cho bạn có cơ hội thiết khẩu đoán thẳng không nhiều. Đây cũng chính là một nguyên nhân chủ yếu bát tự giống nhau nhưng cuộc đời khác nhau.
Chúng ta luận mệnh, đoán phú quý bần tiện có thể như đinh đóng cột, nhưng lúc luận đoán chuyện ở phạm trù "Tượng" như tính chất công việc, nhân duyên nam nữ, sức khỏe tật bệnh các sự tình mang tính chi tiết, thiết khẩu đoán thẳng rất dễ dàng đá phải tấm thép, cũng không nên quá tự tin.
Mệnh học Tử Bình từ trên mức độ rất lớn nói thì chỉ có thể định tính, khó mà định lượng; sở trường là thủ Tượng, mà vụng ở định Hình. Đây chính là tính giới hạn của Mệnh học.
3, Cách — Thiên thời — Thành Cách là quý
Chủ khí trời phối hợp hợp lý, tổ hợp hoàn thiện, có thể làm chỗ dùng cho ta, là thành cách. Thành cách là tất quý, bởi vì thành cách là người được thiên thời.
VD 1, Mệnh Lương Khải Siêu
Quan Thiên Ấn Nhật Quan
Càn tạo: Quý Dậu, Giáp Dần, Bính Ngọ, Quý Tị (Dần Mão không)
Đại vận: Canh Tuất/ Kỷ Dậu; Lưu niên: Kỷ Tị
Tháng Dần Giáp mộc giữ lệnh, thấu ra can tháng, lấy Giáp mộc Thiên Ấn lập cách (Thiên Ấn không thấy Thực thần, thân nhật chủ lại vượng thì không luận là Kiêu thần). Ấn có Quan tinh kề gần hộ vệ, Quan tinh tọa Tài có lực, là chân dụng thần, thành Ấn cách. Chi giờ Quan tinh đồng tính tương hỗn, không phải là làm trọc cục, lấy tầng lớn cách cục hạ thấp mà luận, báo hiệu cấp quan chức, làm quan để ý gặp trở ngại.
Ấn cách dụng Quan, hỉ hành Tài vận, tối kỵ vận Thương quan. Năm 1910 khởi hành Canh Tuất là Tài vận rất cát, may mắn làm quan đến chức Tổng trưởng Tài chính nội các. Năm 1920 khởi hành Kỷ Dậu vận Thương quan, là hung vận, 1929 năm Kỷ Tị mắc bệnh qua đời.
VD 2, Mệnh Trần Thủy Biển
Tỉ Sát Nhật Tỉ
Càn tạo: Canh Dần, Bính Tuất, Canh Thìn, Canh Thìn (Thân Dậu không)
Đại vận: Tân Mão; Lưu niên: Đinh Hợi.
Bát tự này thần giữ Nguyệt lệnh là Tân kim Kiếp tài Dương Nhận mà không phải là Mậu thổ Thiên Ấn. Thần nắm lệnh Tân kim không thấu, lập can tháng Thất Sát cục, lấy chân thần Tân kim thủ lệnh làm dụng thần. Kiếp tài hợp Sát thành Dương Nhận giá Sát cách (nguyệt lệnh chân thần đắc dụng là thành cục, tầng lớp cục thượng thăng thành cách), là quý mệnh. Dương nhận giá Sát, là người kiên cường bá đạo.
Năm 2000 khởi nhập vận Tân Mão, 5 năm trước Tân kim dụng thần chủ sự, cách thành, trèo lên đỉnh cao của quyền lực; 5 năm sau Mão mộc chủ sự, Mão Tuất hợp, giải Thìn Tuất xung, dụng thần Tân kim trong Tuất bị hợp phá, là phá cách, lại có Sát chế thân, là đại hung. Mão là Tài, là vì Tài mà rước họa.
Thực Tài Nhật Sát
VD 3, Càn tạo: Đinh Hợi, Kỷ Dậu, Ất Tị, Tân Tị (Dần Mão không)
Đại vận: Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ/ Ất Tị/ Giáp Thìn
Tuổi vận: 5 15 25 35 45
Niên vận: 1952 1962 1972 1982 1992
Tạo này thần nắm giữ nguyệt lệnh là Thất Sát thấu ra ở can giờ, lập Thất Sát cách luận thành bại. Sát cần phải chế hoặc tiết, thủ Đinh hỏa Thực thần làm dụng thần, đáng tiếc bởi vì quan hệ tổ hợp Thực thần bị chỗ Tài tinh tiết, cách không thành. Chủ khí trời hung thần Thất Sát Tân kim ở chỗ trạng thái cơ bản là không có chế, Tân có dưới Tị có Bính hỏa đối với nó có một chút tác dụng cưỡng chế, hung mệnh là không sai, chỉ qua là sẽ không chết yểu mà thôi.
Vận Bính Ngọ, Bính thấu ra hợp Sát; vận Ất Tị, khắc Tài cứu Thực; Thất Sát có chế cuộc sống khá lên, dựa vào cần cù lao động mà dẫn dến hàng tiểu phú. Vận Giáp Thìn, Giáp mộc hợp động Kỷ thổ tiết Thực sinh Sát, Sát vượng chế thân, năm Mậu Dần chạm điện rơi xuống nước mà chết.
4, Cục — Địa lợi — Thành Cục là phú
Chủ khí Địa phối hợp hợp lý, tổ hợp hoàn thiện, có thể làm chỗ cho ta dùng gọi là thành Cục. Thành Cục là phú.
Tỉ Thực Nhật Tỉ
VD 4, Càn tạo: Quý Tị, Ất Sửu, Quý Dậu, Quý Sửu (Tuất Hợi không)
Chủ khí trời không thấu, không xem xét dùng lập cách. Thủ Ất mộc Thực thần lập cục, Thực thần làm điểm lập cục (Tỉ kiên là bản thân không thể làm điểm lập cục). Thực thần là cát thần, phải thuận dụng, phải hộ vệ, thủ Tỉ kiên hoặc Tài tinh làm dụng thần thành cục, Tỉ kiên có lực là chân thần, cục thành, phú mệnh là không sai. Nhật chủ là ức vạn phú ông, hiện vẫn còn đang ở vận phát tài.
Bát tự này Tài tinh rất yếu nhược, cũng không có Tài khố, Thực thần vô căn không tính là vượng, nếu như dùng các loại phép luận mệnh trước đây là không thể đoán người này là đại phú, chỉ có dùng phép Tử Bình chân tông tra chủ khí trời đất, mới có thể nhìn thấy ngọn nguồn.
Luận mệnh, đa số người có tập quán dụng hỉ kỵ 3 vị thập thần Tài, Quan, Ấn để định vị phú quý của nhật chủ. Ba vị thập thần Tài Quan Ấn là chủ tượng phú quý, tượng ở trong luận mệnh khởi được tác dụng trọng yếu chính xác, nhưng lúc tượng ở cách cục, cách cục là tượng lớn nhất mà là sự vật định hình. Cho nên, cần nhớ kĩ: Luận mệnh thì Cách Cục là ở trước, Tượng là ở sau.
Nhớ kĩ: Thập Thần là Tượng, là biểu tượng, có thập thần dạng nào, nhất định sẽ biểu tượng tương ứng xuất hiện, nhưng tượng không nhất định chỉ có dùng thập thần để thể hiện.
VD 5, Michel Jackson
Tỉ Thực Nhật Tỉ
Càn tạo: Mậu Tuất, Canh Thân, Mậu Dần, Mậu Ngọ (Thân Dậu không)
Thần năm giữ Nguyệt lệnh là Canh kim Thực thần lại thấu can, là Thực thần cách, Thực thần là thần Cách, thủ Tỉ kiên làm dụng thần thành cách. Tỉ kiên có lực, cách thành, phải là mệnh đại quý. Nhìn kĩ địa chi, Dần Ngọ Tuất hợp hỏa cục làm thương hại chân thần nguyệt lệnh, chân thần thụ thương, tầng lớp cách cục giáng thấp, bởi do cách giáng thành cục, chỉ có thể trở thành loại hình nhân vật lãnh tụ một loại hành nghề nào đó mà thôi.
5, Vạn tượng cuộc đời
Nói chủ khí trời đất ảnh hưởng không ít đối với vận mệnh con người, hiện tại để xem mấy ví dụ tượng tạp khí ra sao?
Thương Ấn Nhật Tỉ
VD 6, Khôn tạo: Giáp Tý, Canh Ngọ, Quý Tị, Quý Hợi (Ngọ Mùi không)
Đại vận: Kỷ Tị/ Mậu Thìn/ Đinh Mão
Tuổi vận: 8 18 28
Niên vận: 1992 2002 2012
Bát tự này nhìn sơ qua là không tệ, thân vượng Tài vượng, là có tiền; Thương quan phối hợp, mang quý khí rất có tài hoa. Nhìn kĩ thấy tình huống vận hành chủ khí trời đất, thì nó không phải là loại kết quả như vậy. Thiên Tài nắm lệnh không thấu ra, không có cách xem cục, Thương quan ở trong thiên can hoạt động mạnh nhất định làm cục thần, Thương quan hỉ tiết hoặc chế, thủ Ấn hoặc Tài làm dụng thần. Tài là thần giữ lệnh là vật sống, là có thể hành tẩu ở giữa can chi trời đất, đáng tiếc thiên can có Tỉ kiên thủ giữ, thì Tài không cách nào xuất ra tiết thương quan thành cục. Ấn tinh thấu can gần kề Thương quan, đây là tổ hợp khá tốt, đáng tiếc là Canh kim tự bại lại là căn trung khí ở trong Tị bị Hợi thủy xung mất, Canh Ấn nhược mà vô lực, chỉ qua là một cục sắt bỏ hoang. Tài và Ấn cả 2 dụng thần đều vì thụ thương mà mất dụng, cục bại, khả năng không giàu có.
Cách và Cục không sợ không thành, chỉ sợ từ thành đến bại. Giống như con người trong hiện thực, chưa từng có qua phú quý, còn có thể sống an tâm bình thường qua ngày; trước phú quý sau phá hỏng, cho nên sau này nhật chủ thì khó qua. Chính chỗ nói từ tằn tiện dễ bị xa hoa, từ xa xỉ mà vào tiết kiệm là khó. Cục từ có đến không, thì ý nghĩa cuộc đời sẽ đi theo hướng từ cao xuống thấp.
Thương quan yêu cầu 2 dụng thần đều có trong mệnh cục, hơn nữa thần giữ Nguyệt lệnh cùng can tháng, cấp bậc không thấp, biểu tượng rất tốt, nhưng thực tế nhật chủ cái gì cũng không được; đồng thời, Tài Ấn đồng trụ, chế hóa lưỡng lập, tượng cùng mất.
Chỗ này hết sức phù hợp tình huống thực tế của nhật chủ. Mệnh chủ sinh ra ở vùng nông thôn, tốt nghiệp đại học, cha mẹ mua bán có tiền, nhưng tiền của cha mẹ đều cho anh trai, hắn thì vô duyên không có. Công việc bề ngoài nhìn rất tìm kiếm dễ dàng, mặc cho nàng chọn, chỉ qua là không có một công việc trong 2 năm, thường xuyên ở trạng thái thất nghiệp.
Còn có rất nhiều tượng có thể đọc, Thương quan ở năm không có chế, tổ tông bần cùng, hôn nhân khó thành. Địa chi tứ xung, cả đời khó ổn định, nhất là xung 2 dụng thần nguyệt lệnh Tài tinh và can tháng Canh kim, cả đời là vì cuộc sống mà bôn ba.
Sau 28 tuổi đến vận Đinh Mão, nguyệt lệnh Tài tinh thấu ra khắc mất Canh kim Ấn tinh, nhật chủ sẽ mới yên tâm làm kinh thương, tài khí có khởi sắc lớn. Chỉ qua là cách cục đã phá, tầng lớp sớm định, dù đại vận có tốt cũng chỉ có thể đạt đến mức độ trung bình, nếu muốn nhiều phú thì không thể có.
VD 7:
Thực Ấn Nhật Thương
Càn tạo: Nhâm Tuất, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Quý Mùi (Dần Mão không)
Đại vận: Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quý Sửu
Tuổi vận: 5 15 25 35
Niên vận: 1989 1999 2009 2019
Nguyệt lệnh Tân kim không thấu, không thể lập cách, tìm thập thần trong thiên can hoạt động mạnh nhất để lập cục. Thương quan là hoạt động mạnh nhất, lập Thương quan cục. Thương quan hỉ Ấn hoặc Tài, Ấn thấu ở can tháng, cục tự thành, chỉ tiếc là thần nắm lệnh Kiếp tài tiết Ấn sinh Thương, Thương quan không có chế lại được sinh, cục bại.
Điểm bệnh không thể thành cục còn có 2 chỗ, Thực thần hỗn cục cùng địa chi phá và hại, vấn đề của cục quá nhiều, không có khả năng tu sửa, thì cũng không có khả năng phú, bất kể đến vận tốt như thế nào, đều không phù khởi. Đây chính là nguyên nhân tại sao có vài người có thể gặp vận mà khởi, còn có vài người thì một đường vận tốt cũng chỉ được no ấm.
Tượng bát tự này cũng rất nhiều. Tổ hợp Thương quan phối Ấn, không thành cục thì không thể phú, nhưng tổ hợp Quý Mùi lại tăng thêm Kỷ thổ ở can tháng thì có tượng Thương quan phối Ấn khá rõ ràng. Chú ý tượng và cách cục khác xa nhau hơn mấy tầng, cách cục là lấy vật đã thành hình, là thành phẩm, là vật phẩm tốt có thành tựu; Tượng là vật chưa thành hình, tổ hợp tốt cũng chỉ là cát tượng, mà không phải là vật đã thành phẩm, ở đây thì trên tầng lớp là khác xa. Cho nên, cách cục Thương quan phối Ấn là người phú quý, tượng Thương quan phối Ấn là chỉ người có kỹ thuật hoặc tài hoa nhất định.
Nhật chủ có tượng Thương quan phối Ấn, là có chút kỹ thuật, chỉ qua là thần giữ lệnh lúc Kiếp tài đến thông quan, làm cho Thương quan thường xuyên ở trạng thái không có chế, sẽ không yên tâm làm kỹ thuật.
Còn có một bệnh ở can năm Thực thần làm hỗn cục. Thực thần hỗn Thương quan càng không thể yên tâm làm kỹ thuật kiếm tiền. Xem ra nhật chủ muốn yên tĩnh đi kiếm tiền quả thật là khó.
Phương diện nào là làm quấy nhiễu công việc của nó chứ? Điểm bệnh chủ yếu là ở Nguyệt lệnh Tân kim Kiếp tài và can năm Thực thần. Thực thần là đứa trẻ, Thương quan cũng vậy, Thực thần là đứa trẻ ham chơi không có tâm kế, Thương quan là đứa trẻ thông minh nghịch ngợm thích làm chuyện xấu. Kiếp tài là tên lỗ mảng. Thực thần gia thêm Kiếp tài, mà đều là kỵ thần, đó chính là tượng ham chơi không thể kiềm chế làm ảnh hưởng công việc.
Bát tự con người cùng trong cuộc sống hiện thực là hoàn toàn giống nhau, mệnh chủ chính là người như vậy, khá thông minh có kỹ thuật, nhưng thành tính ham chơi, có thể ở trong phòng trò chơi mấy ngày liền không cần công việc không quan tâm gia đình, ai nói cũng không nghe, chỉ có mẹ hắn là có thể chế giữ được hắn. Mỗi năm đều có một đoạn thời gian đi chơi mất tích, mỗi năm cũng sẽ vì chỗ này mà thất nghiệp vài tháng.
Mệnh học Tử Bình chân chính, nói rất đạo lý, vừa đơn giản vừa thực dụng, càng khó là phương hướng của chúng ta phải hiểu rõ từ Thuật nhập Đạo.
Tác giả: Vương Khánh . Http://blog. sina. com. cn/u/1962606534
-------------------------------------------
Ví dụ 3 này bỏ cách dụng cục thì hợp lý hơn. Hỏa thổ thành cục khắc kim, xung hợi.
Thực Tài Nhật SátVD 3, Càn tạo: Đinh Hợi, Kỷ Dậu, Ất Tị, Tân Tị (Dần Mão không)
Đại vận: Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ/ Ất Tị/ Giáp Thìn
Tuổi vận: 5 15 25 35 45
Niên vận: 1952 1962 1972 1982 1992
Sát tinh là hung thần bậc nhất trong mệnh cục. Cổ nhân có câu: Có Sát trước luận Sát, đây là nguyên lý dùng cách cục. Sát đắc nguyệt lệnh lực rất mạnh, lại thấu can cho nên phải luận Sát cách. Hơn nữa Đinh hỏa sinh Kỷ thổ lại sinh Tân kim, coi như là Sát không có chế, Sát được thế công thân mạnh hơn. Tôi nghĩ là Vương tiên sinh luận rất chuẩn.
Các bạn cũng cần lưu ý khi luận cách cục pháp:
+ Chủ khí trời (Thiên), tức là Nguyệt lệnh, nhưng phải thấu can thì mới lập Cách;
+ Cục là chủ khí đất (Địa), khi không có thành Cách, tức là nguyệt lệnh (chi tháng) không thấu Can thì mới tìm cục.
Bởi vì mệnh cục hay nguyên cục đều có phân chia: Tôn Ti, Trên dưới, Quân Thần ... Khí trời là Thiên là Tôn là Quân là ở trên, còn khí Địa là Ti là dưới là Thần. Cho nên khi lập cách cục nếu chi tháng thấu can thì phải ưu tiên lập cách trước, khi không thấu can thì mới tìm cục.
Như ở VD 3, Sát thấu can ở can giờ, lập Sát cách. Sát cách theo nguyên tắc Tứ Hung thần phải nghịch dụng, tức là phải có Ấn tinh hóa Sát, Thực thần chế Sát thì mới thành cách cục. Còn luận Cách thành bại thì lại có phương pháp riêng. Sau này tới phần hướng dẫn dụng Cách Cục pháp tôi sẽ nói rõ hơn.
Hiện nay đại đa số, các sách vở có trên mạng cũng như các phường in sách đều đa số là hỗn tạp bác nháo, không đúng tinh thần lấy chủ khí trời đất làm chủ. Vì thế, các bạn cứ đọc những bài viết của tôi ở trên trang web này, từ từ đả thông tư tưởng so với trước đây như thế nào đã, sau một thời gian các bạn cứ nghiệm lý lại các phương pháp trước đây thường dùng, phân biệt được đúng sai rồi tôi mới đưa tài lệu lên tiếp tục. Nếu không, đưa lên quá nhiều các bạn sẽ rối không biết đường nào là đúng hay là sai. Cứ tạm thời các bạn cứ luận theo phương pháp cũ vậy.
Các bạn cũng nên nhớ rằng, phép luận vượng suy không phải là sai, chẳng qua nó chỉ là một phần trong phép vượng suy trung hòa của cổ nhân để lại, nhưng bởi vì người dùng không đúng cách, cứ gán chuyện thân vượng nhược là vạn năng để luận mệnh, mà dẫn đến sai lầm cho đến bây giờ.
Sau này, tôi sẽ đưa lên tiếp tục bài phân tích cái đúng cái sai của phương pháp này như thế nào, so với các pháp khác như Cách Cục pháp, Thập Can hỉ kỵ pháp, Tài Quan pháp, Tượng pháp thì chúng có ưu khuyết gì, hầu để cho các bạn nắm rõ để chúng ta khẳng định lại bước luận mệnh như thế nào cho hoàn chỉnh.
Lẽ ra tôi không muốn đưa những chuyện như thế này lên mạng, chỉ làm cho các bạn thêm rắc rối, thêm hoang mang, nhưng vì mệnh học nước ta mà tôi sẵn sàng chấp nhận những chuyện thị phi, để cho các bạn ngẫm nghĩ lại cái đúng cái sai mà thực tế là thước đo cho chuyện này.
VD3: Đinh hợi kỉ dậu ất tị tân tị
Mậu thân/đinh mui/bính ngọ/ất tị/giáp thìn
Đúng Tân là chân thần thấu ra nhưng ta phải xem nó có phát dụng hay không. Nhìn xem tân tọa tị là hư thấu lại rơi vào khu vực hỏa địa tị tị . Kỉ Đinh cùng nhà cùng từ tị thấu ra nên mang khí táo không thể sinh kim.Đành rằng khí từ nguyệt lệnh thấu ra là vượng nhất nhưng đó ko phải là điều tuyệt đối. Chân thần ko phát dụng vì bị giả thần nhiễu loạn thì ko thành cách, ko quí. Lấy thập thần mà nói thì Sát bị chế quá đáng là mệnh nghèo. Bỏ cách lập cục là vậy.
Bàn về nhân mệnh thì nhật chủ cực nhược ở vận hỏa địa nên phải tòng hỏa thổ, nó cùng ý hướng với thế cục hỏa thổ. Nhưng vì sao ko đại phú mà chỉ là tiểu phú ở vận này, nguyên nhân thì có nhiều song cái chính ở đây chính là tiên thiên kim thủy bị khắc chế quá đáng.
(tt)
Vận Bính ngọ: bính-tân hợp "thê tòng phu hóa" tân kim biến mất ko để lại dấu tích .
Vận Ất tị: ất hư, lại bị đinh hóa đâu còn lực khắc kỉ.
Thực Tài Nhật Sát
VD 3, Càn tạo: Đinh Hợi, Kỷ Dậu, Ất Tị, Tân Tị (Dần Mão không)
Đại vận: Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ/ Ất Tị/ Giáp Thìn
Tuổi vận: 5 15 25 35 45
Niên vận: 1952 1962 1972 1982 1992
Tạo này thần nắm giữ nguyệt lệnh là Thất Sát thấu ra ở can giờ, lập Thất Sát cách luận thành bại. Sát cần phải chế hoặc tiết, thủ Đinh hỏa Thực thần làm dụng thần, đáng tiếc bởi vì quan hệ tổ hợp Thực thần bị chỗ Tài tinh tiết, cách không thành. Chủ khí trời hung thần Thất Sát Tân kim ở chỗ trạng thái cơ bản là không có chế, Tân ở dưới Tị có Bính hỏa đối với nó có một chút tác dụng cưỡng chế, hung mệnh là không sai, chỉ qua là sẽ không chết yểu mà thôi.
Vận Bính Ngọ, Bính thấu ra hợp Sát; vận Ất Tị, khắc Tài cứu Thực; Thất Sát có chế cuộc sống khá lên, dựa vào cần cù lao động mà dẫn dến hàng tiểu phú. Vận Giáp Thìn, Giáp mộc hợp động Kỷ thổ tiết Thực sinh Sát, Sát vượng chế thân, năm Mậu Dần chạm điện rơi xuống nước mà chết.
Vận Bính Ngọ, Bính có căn hợp Tân Sát không có lực khắc thân nữa là đúng. Còn vận Ất Tị, 2 Ất khắc 1 Kỷ, sao không khắc được Kỷ thổ chứ? Mộc Hỏa là một nhà (đây là lý lẽ Đồng gia, tôi sẽ nói sau), cùng nhau khắc thổ cứu Đinh hỏa, mộc hỏa là dương, Kỷ thổ bản chất hướng âm, dương khắc âm là biểu hiện sự hồi phục sinh lực.
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.