View Full Version : Giải thích Âm Dương sinh tử
Giải thích Âm Dương sinh tử
【 Trích Thiên Tủy 】 Phá giải đối với thiên can đã đạt tới đỉnh cao, như luận thuật các loại:
"Muốn cùng nhân gian mở câm điếc,
Cái cơ thuận nghịch phải lý giải.
Ngũ Dương Bính dương là đứng đầu,
Ngũ Âm Quý âm là chí tôn;
Ngũ Dương tòng Khí bất tòng Thế,
Ngũ Âm tòng Thế vô tình nghĩa.
Lý thừa Khí hành khởi hữu thường,
Tiến hề thoái hề nghi ức dương;
Ngũ Khí thiên toàn định cát hung,
Trước xem Đế tải cùng Thần công".
Đều là mệnh lý tinh túy trình bày giải thích về khí Thiên can.
Nhưng mà đối với học giả thông thường mà nói, chân chính có thể thức tỉnh phá giải khí thiên can âm dương thực tế không có mấy người, muốn nắm thiên can chính xác tác dụng ở suy toán bát tự lại càng không phải là chuyện dễ dàng. Bởi vì bát tự là học cái huyền diệu, rộng lớn mênh mông, trời đất bao la, không phải mọi người đều có thể học rộng rãi được. Từ xưa đều là truyền sách mà không có truyền bí quyết, truyền quyết mà không có điểm then chốt. Đặc biệt là giới mệnh lý hiện nay, vàng thau lẫn lộn, bỏ gốc lấy ngọn, khiến cho người học sau đi vào cỏi tối tăm, tìm không ra phương hướng chính xác. Càng học càng cảm thấy rất là huyền ảo, phí tiền phí thần phí giờ, đến bạc đầu cũng không nhập đạo. Tục viết: "Chân truyền một câu nói, là truyền vạn quyển sách. Quyết nghìn vàng Giang hồ, điểm phá không bao nhiều tiền". Chân chính có đủ dùng ở bí quyết kỹ pháp thực dụng đơn giản, minh sư thông thường sẽ không dễ dàng tiết lộ. Bởi vì tiết lộ ra chân quyết, chỉ sợ mất chén cơm của mình. Dùng thực tiễn để kiểm nghiệm thuật truyền thống của cổ hiền, hoàn thiện phương pháp Âm Dương Hình Khí Thiên thời cùng Địa lý. Cho nên trước đây đem chỗ viết ra nội dung bài văn này, hầu như mỗi ngày đều có ngòi bút chân kinh Thiên thời cùng Địa lợi viết ở bên trong.
Đối với khí thập can Giáp Ất, Bính Đinh, Mậu Kỷ, Canh Tân, Nhâm Quý giải độc chính xác, là điểm then chốt của kỹ pháp tác dụng thiên can bát tự. Đầu tiên thập thiên can ở trong Thái Cực Lưỡng Nghi phân ra âm dương, Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm là khí dương, Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý là khí âm. Ở trong Tứ Tượng Giáp Ất là Thiếu Dương, Bính Đinh là Thái Dương; Canh Tân là Thiếu Âm, Nhâm Quý là Thái Âm; Mậu Kỷ là khí trung tính. Ở trong ngũ hành, Giáp Ất là khí mộc, Bính Đinh là khí hỏa, Mậu Kỷ là khí thổ, Canh Tân là khí kim, Nhâm Quý là khí thủy, đây chính là cách luận thuật ngũ khí của 【 Trích Thiên Tủy 】. Trong đó căn cứ định tính âm dương, can dương và can âm ở trong Hà Đồ ngũ khí giao cấu có 1,6 Giáp Kỷ hợp; 2,7 Ất Canh hợp; 3,8 Bính Tân hợp; 4,9 Đinh Nhâm hợp; 5,10 Mậu Quý hợp. Quy luật pháp tắc là dương có năng lực cho ra, âm có công năng thu vào. Thì Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm là 'Khí sinh Thế', Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý là 'Thế thành Khí ' . Can dương là khí cường, can âm là khí nhược. Đây chính là nguyên nhân chân chính tại sao lực của âm khắc âm cùng dương khắc dương, âm sinh âm cùng dương sinh dương lớn; lực âm sinh dương cùng dương sinh âm, âm khắc dương cùng dương khắc âm nhỏ hơn.
Thuật toán mệnh Âm Dương Hình Khí, Lý bắt đầu là ở Thái Cực. Từ Lý Thái Cực quy định, Lưỡng Nghi một âm một dương cùng chung cấu thành tồn tại sinh thành một Thái Cực, mới có thể đối ứng vạn vật vạn sự cát hung cân bằng. Từ chỗ này thì biết, sự vật chân chính tồn tại cát hung là do âm dương quyết định, âm dương quyết định tự nhiên (Thể), cùng quyết định xã hội (Dụng). Mà diễn sinh ngũ hành cùng thập thần chỉ qua là một loại trạng thái âm dương đối với sự tồn tại của sự vật, chỉ có thể thuyết minh mức độ cát hung và chuyển biến hình khí, mà căn bản không phải là trình bày rõ Thái Cực tồn tại cát hung.
Từ trong Tứ Tượng có thể nhìn thấy, Giáp Ất khí mộc Thiếu Dương định vị ở phương đông Bát Quái ẩn dụ là mùa xuân trong bốn mùa, Bính Đinh khí hỏa Thái Dương định vị ở phương nam trong Bát Quái ẩn dụ là mùa hạ, Canh Tân khí kim Thiếu Âm định vị ở phía Tây trong Bát Quái ẩn dụ là mùa thu, Nhâm Quý khí thủy Thái Âm định vị ở phương Bắc trong Bát Quái ẩn dụ là mùa đông. Mậu Kỷ khí thổ là trung tính định vị ở trung cung Bát Quái, ẩn dụ lưu chuyển khí bốn mùa. Giáp Ất khí mộc sinh Bính Đinh khí hỏa, khí Thiếu Dương thành Hình ở Lão Dương (Hỏa); Canh Tân khí kim sinh Nhâm Quý khí thủy, khí Thiếu Âm thành Hình ở Lão Âm (Thủy). Mộc Hỏa là dương, Kim Thủy là âm. Từ luận thuật ở trên suy ra có thể biết, âm dương ở trong Thái Cực thì hai khí thủy hỏa (nhiệt năng), chủ nắm khống chế vạn vật sinh tử. Âm vượng bất lợi dương, dương vượng bất lợi âm, chỉ có âm dương cân bằng mới gọi là "Nhất Âm Nhất Dương vị chi Đạo" ! Thủy Hỏa chính là đại biểu âm dương, một Khí một Hình, một Dụng một Thể, một thanh một trọc, một Chân một Giả, một Hư một Thực, một Sinh một Tử, một Động một Tĩnh, duy chỉ có Động Tĩnh, chia trục âm dương, mới thành Thái Cực luận mệnh.
Như vậy lại làm sao phân chia hai khí âm dương thập thiên can cát hung chứ? Đây chính là chỗ bình thường chúng ta nhập môn mệnh học nói về《 Biểu Thập Can sinh vượng tử tuyệt 》, chỗ Âm sinh Dương tử, Dương sinh Âm tử là luận Âm Dương sinh tử. 【 Sinh khí sinh mà thành khí tử, sinh khí tử mà thành khí sinh 】, nếu như bạn không hiểu lúc lịch trình sinh tử của khí thiên can ở 12 cung Thời lệnh cùng âm dương biến hóa thì căn bản là nói bạn sẽ không luận được mệnh. (Người mới học phải nhớ kĩ, đây là Lịch trình thứ tự bốn mùa sinh tử của khí thập can ở 12 cung, không phải là căn cứ để đoán nhật can lục thân cân bằng vượng suy! Càng không nên hiểu lầm là lấy thiên can chính là thể ngũ hành của giới tự nhiên! ! ! Giống như Giáp thì không thể xem như là cây cối vậy. )
Tại sao đồng dạng là khí Thiếu Dương Giáp Ất mộc, kỹ xảo tác dụng sinh tử ở trong mệnh cục là có phân biệt, bạn có nghĩ qua đến chuyện này hay không? Chỗ này hai khí âm dương Thập Thiên Can rốt cuộc tại sao đi phán luận lục thân nhân sự, hiện tại tất cả tài liệu mệnh học đối với chỗ luận thuật này đều là không có nói rõ ràng. Khí Giáp trường sinh ở Hợi tử ở Ngọ, khí Ất trường sinh ở Ngọ tử ở Hợi; khí Bính Mậu trường sinh ở Dần tử ở Dậu, khí Đinh Kỷ khí trường sinh ở Dậu tử ở Dần; khí Canh trường sinh ở Tị tử ở Tý, khí Tân trường sinh ở Tý tử ở Tị; khí Nhâm trường sinh ở Thân tử ở Mão, khí Quý trường sinh ở Mão tử ở Thân. Thời lệnh biến hóa tại sao quyết định được ngũ hành âm dương thập can vận chuyển cát hung chứ?
Thực ra【 Trích Thiên Tủy 】 tường thuật ở Chương Tri Mệnh có một câu nói: " Muốn cùng nhân gian mở câm điếc, cái cơ thuận nghịch phải lý giải", thì đã bao hàm cả Lịch trình âm dương sinh tử của thập thiên can. Đáng tiếc từ cổ chí kim đều không có một người trình bày giải thích chính xác, chính là giải thích tác dụng thập can ở 12 cung cũng hoàn toàn sai. Xem ra chỉ có Pháp Năng tiết lộ ra cái khăn che mặt thần bí, thì giống như trình bày ở bài văn trước "Thanh khí và Trọc khí" đều không có người nào ngộ ra thiên cơ. "Cái cơ Thuận Nghịch" thực ra là chỉ khí thập thiên can phải dựa theo dương thuận âm nghịch mà vận hành, dương thuận âm nghịch chính là Âm Dương tiêu trưởng. Thiên Dương xoay bên trái là Thuận, Địa Âm xoay bên phải là Nghịch; âm cực thì dương sinh, dương cực thì âm sinh. Trong thứ tự bốn mùa, khí âm dương là sau tiết Đông Chí Dương trưởng Âm tiêu, sau tiết Hạ Chí là Âm trưởng Dương tiêu. Chúng ta từ trong Thái Cực đồ có thể nhìn thấy quy luật Âm Dương tiêu trưởng, lúc khí dương ở vào vị trí Tử, thì vừa đúng khí âm ở vị trí Sinh; lúc khí âm ở vào vị trí Tử, thì vừa đúng khí dương ở vào vị trí Sinh, cái kia Tiêu thì cái này Trưởng, cái kia Tử thì cái này Sinh.
Tại sao can dương phải thuận hành? Can dương là khí sinh mà tiến, giống như có ánh sáng chiếu xuống;
Tại sao can âm lại phải nghịch hành? Khí can âm xung mà xuất ra, giống như Địa đức chịu tải lực ở trên.
Một dưới một trên, khí dương đi xuống khí âm đi lên, Nhật đi qua thì Nguyệt đến, Nguyệt đi qua thì Nhật đến, mặt trời xoay bên trái, mặt trăng xoay bên phải, một thuận một nghịch, đây chính là nguyên nhân tại sao thiên can có cái cơ dương thuận âm nghịch. Dùng khí can âm dương ngũ hành để trình bày quy luật giới tự nhiên, đối ứng với thuộc tính tự nhiên của vạn sự vạn vật.
Thái Cực phân ra âm dương, thì thế giới vạn vật đều có âm dương của từng loại vật. Mà ngũ hành mộc, hỏa, thổ, kim, thủy nhất định cũng đều có âm dương của riêng mình, căn cứ thuộc tính âm dương của bản thân khác nhau, lúc ánh dương chiếu xuống cùng tải âm ở trên cùng quỹ tích vận hành địa cầu của từng cái là trái nghịch nhau. Lấy quy luật âm dương tiêu trưởng để phán đoán, cùng ngũ hành trải qua lịch trình sinh tử thập nhị cung là trường sinh, dục mộc, quan đái, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng vừa đúng là một quá trình Âm tiêu Dương trưởng, Dương tiêu Âm trưởng.
Bài mở đầu trong【 Tử Bình chân thuyên 】 có đưa ra thuyết minh ví dụ về mộc:
"Giáp Ất, là âm dương mộc vậy. Giáp, là khí Ất; Ất, là chất của Giáp. Ở trời là sinh khí, mà lưu hành ở vạn vật, là Giáp vậy; ở đất là vạn vật, mà nhận sinh khí này, là Ất vậy. Lại phân chia tỉ mĩ, sinh khí phân tán, Giáp là Giáp, mà ngưng thành sinh khí, Giáp là Ất; tất cả vạn mộc đều có cành lá, Ất là Giáp, mà vạn mộc cành lá trùng điệp, thì Ất là Ất vậy. Phương là Giáp, mà đã có khí Ất; cho nên là Ất, mà chất Giáp là kiên cố, đã có Giáp Ất, mà âm dương mộc có đủ vậy".
Ngũ hành đều phân ra âm dương: Thiên can, khí ngũ hành lưu hành ở trên trời vậy; Địa chi, là thứ tự bốn mùa lưu hành vậy.
Nếu đúng thứ tự 12 cung giờ lưu hành là đại biểu thập nhị địa chi, như vậy ở trong lúc khí thập thiên can vận hành cùng thứ tự canh giờ là va chạm nhau, tùy theo chu kỳ thứ tự canh giờ biến hóa mà sản sinh ra một quá trình lưu chuyển. Thứ tự mỗi một cung giờ chỉ có thể phản ánh trạng thái khí thập can tồn tại ở cung này (nhân nguyên tàng can), mà căn bản cũng không phải là thập thiên can ở trong thứ tự cung giờ này tồn tại cát hung. Cho nên thứ tự canh giờ theo 12 cung cũng không thể phán định lục thân vượng suy cùng cát hung, chỉ qua là trạng thái lục thân nhân sự ở trong chỗ thứ tự canh giờ. Chân chính có thể quyết định lục thân cát hung là khí âm dương thiên can, Nhân nguyên là thần dụng sự, chính là chỗ 【 Trích Thiên Tủy 】viết: "Ngũ khí thiên toàn định cát hung" . Chỗ trạng thái thứ tự canh giờ chỉ có thể cho thấy lục thân nhân sự ứng cát ứng hung đều có tồn tại lục thân ở trong thời gian này, khí ngũ hành âm dương cân bằng mới là căn bản tồn tại cát hung của lục thân! ! !
Khôn tạo: Sinh năm 1968.
Mậu
Giáp
Ất
Nhâm
Thân
Tý
Mão
Ngọ
Mậu, Nhâm, Canh
Nhâm, Quý
Giáp, Ất
Bính, Kỷ, Đinh
Đại vận: 1 Quý Hợi, 11 Nhâm Tuất, 21 Tân Dậu, 31 Canh Thân, 41 Kỷ Mùi.
+ Phân tích trạng thái tồn tại Lục thân ở cung Tý theo thứ tự canh giờ:
Khí bản thân Nhật can ở cung Tý là bệnh địa, khí can Mậu phụ tinh ở cung Tý là đất Thai, Mẫu tinh khí can Quý ở cung Tý là đất Lâm quan, huynh đệ khí can Giáp ở cung Tý là đất mộc dục, chị em gái cùng nhật can ở cung Tý là đất bệnh, Phu tinh khí can Canh ở cung Tý là đất tử, con trai khí can Bính ở cung Tý là đất Thai, con gái khí can Đinh ở cung Tý là đất tuyệt ... . Những lục thân này ở trên chỉ có thể biểu thị rõ ở trong chỗ trạng thái Tiên thiên nguyên mệnh cục tồn tại theo thứ tự canh giờ ở cung Tý, cũng không thể phản ánh cát hung tự nhiên cùng công danh phú quý của từng lục thân cụ thể, đồng thời cung Tý cũng không thể quyết định Cách và Cục của lục thân cao hay thấp! Từ tường thuật ở trên suy ra biết, từng khí âm dương ngũ hành thiên can ở trạng thái chỗ thứ tự canh giờ theo cung Tý đích thực có tồn tại và phân biệt Âm tiêu Dương trưởng, Dương tiêu Âm trưởng.
Nếu như nói nhật nguyên Ất theo 12 cung can âm nghịch hành, thì sẽ trải qua lịch trình là Hợi tử, Tuất mộ, Dậu tuyệt, Thân thai, Mùi dưỡng, trạng thái tồn tại sau khi sinh ra khí lâm ở Tử địa. Tất cả những cái này từ chỗ nhật can trải qua trạng thái theo thứ tự canh giờ đều là vô hình, nhìn không thấy, sờ không được, nhưng lại cho thấy thời khắc này đều có tồn tại trạng thái cát hung.
+ Phân tích tồn tại cát hung Lục thân ở thiên can nắm lệnh hành quyền (Không phải là phân tích vượng suy):
Mệnh này sinh ở sau tiết Đại Tuyết 4 ngày, gặp khí thiên can Nhâm Chính Ấn nắm quyền điều lệnh. Thiếu Dương được Lão Âm sinh là cát, Ất mộc được Nhâm thủy sinh, nhưng bất cập Quý thủy cùng âm nhuận trạch, trời sinh ra là phúc cạn. Tại sao vậy chứ? Khí Ất mộc ở chỗ hàn đống đất bệnh, trời sinh là thích Bính dương làm ấm thân giải trừ hàn đống, Mậu thổ chế Nhâm thủy; kỵ Canh kim sinh Nhâm thủy. Theo chủ khí trời mà nói, chỗ Nhâm ở đất đế vượng, có tượng thủy đa mộc phù. Ẩn tàng họa hoạn ở thể hình, đối với khí nhật can rất là bất lợi. Tý hình Mão dẫn đến tổ hợp can giờ Nhâm sinh nhật can Ất thành lập, chủ khí Nhâm khắc Bính, tổ hợp trụ giờ Nhâm Ngọ cũng đồng thời thành lập. Âm vượng tổn thương dương, căn bản chính là bản thân nhật can Ất đã tồn tại cát hung.
Nữ mệnh lấy khí Mậu thổ Chính Tài làm cha, đồng dạng lấy khí âm dương luận cát hung. Mậu dương ở cung Tý là đất Thai, ở chủ khí là đất hàn đống Thiên Tài, thích Bính chiếu sinh, Giáp đào tạo, không thích thủy vượng khắc hỏa sinh mộc, Mậu tọa Thân, trong Thân có nhân nguyên tàng can là Mậu Nhâm Canh, Nhâm thủy có Mậu chế một chút, Mậu gặp Giáp mộc đào tạo, được Canh để phát huy, thì cha cát, tất thọ.
Nữ mệnh lấy khí Quý thủy Thiên Ấn làm mẹ, tàng ở trong địa chi cung Tý, chỗ Thân theo thứ tự canh giờ ở đất Lâm quan Vượng địa, lại phùng đồng tông dương thủy Kiếp tài nắm quyền, hỉ kim sinh mộc tiết là thọ, đồng dạng là cần có Bính hỏa để giải trừ hàn đống, Mậu thổ gặp Quý thủy hợp Mậu thấy hỏa, hóa thành chân tượng. Kỵ Nhâm thủy phiếm lạm là hung, tàng can Canh sinh Quý, Quý sinh Giáp Ất, thủy có thể sinh tú khí là cát tất là phải thọ.
Nữ mệnh lấy Kiếp là anh trai, Tỉ là chị em gái. Tháng Giáp là anh trai, chi ngày Mão bên trong có Giáp Ất Kiếp Tỉ là anh chị. Giáp sinh cung Tý là đất mộc dục, Ất Tỉ thấy Tý là đất bệnh, đều gặp Nhâm thủy Kiêu thần cùng Chính Ấn nắm lệnh giữ quyền, Giáp hỉ Mậu Đinh Canh, Ất hỉ Bính Quý, Giáp Kiếp kề gần có Mậu Đinh, Ất Tỉ kề gần có Quý Bính, anh chị đều cát tất phải thọ.
Canh kim là Chính quan của mệnh này là chồng, tàng ở trong chi năm Thân kim, chỗ Thân theo thứ tự canh giờ cung Tý là tử địa. Gặp Nhâm thủy chủ khí Thực thần nắm quyền, thấy Đinh có Quý, thấy Giáp là Tài, hỉ mộc sinh hỏa đào tạo, Mậu khắc Nhâm tiết sinh thân, bản thể cùng công năng được phát huy là cát tất thọ.
Nữ mệnh lấy Thương quan là con trai, Thực là con gái, Nhâm Ấn lâm đế vượng hợp khắc Đinh Thực, thì sinh con gái là bất lợi, chỉ có lợi sinh con trai. Bính lâm cung Tý là đất Thai, gặp Nhâm Sát chủ khí quản sự, hỉ Giáp mộc tiết thủy thành tựu Bính, Mậu thổ sinh Canh dưỡng Tài. Chế thủy cứu chủ, Tử tinh được mộc sinh, Kỷ thổ khắc thủy hộ ngày là cát tất thọ.
Phân tích ở trên chính là chỗ trạng thái cát hung của lục thân ở âm dương ngũ hành, suy đoán cụ thể bản thể cùng công dụng tồn tại ở nguyên mệnh cục.
Bài này trọng điểm là phá giải về bản thể khí Tiên thiên ngũ hành âm dương của thập thiên can, tồn tại ở quá trình lưu chuyển Tứ Tượng. Phản ánh Lịch trình sinh tử của thập thiên can theo thứ tự ở 12 cung canh giờ và tồn tại trạng thái cát hung của lục thân ở trong ngũ hành.
Trình bày giải thích căn cứ thủy hỏa đối với âm dương là quyết định lục thân cát hung như thế nào, đoán lục thân cát hung tất phải lấy cân bằng âm dương ở nguyên mệnh cục, tiêu trưởng để phán định, mà không phải là lưu niên đại vận định cát hung, đại vận lưu niên chỉ có phản ánh thời gian phương hướng ứng nghiệm cát hung của lục thân, hoàn cảnh biến hóa trong ngoài.
Từ phân tích Âm Dương sinh tử ở trên, các bạn có còn xác định nhật chủ theo vòng trường sinh để đoán nhật chủ thân vượng nhược nữa hay không? Nếu không, thì các bạn chờ tôi không lâu sẽ nói lên nguyên lý thân vượng thân nhược là như thế nào?
Cũng nhắc nhở các bạn có duyên ở diễn đàn này, khi có được tài liệu chớ mô phỏng theo ý mình, copy rồi lại làm bóp méo nó, gây hoang mang cho người sau học tập. Tôi đã nhiều lần thấy trường hợp này, các bạn copy xong rồi đưa qua các diễn đàn khác bình luận một cách tự tiện theo ý mình. Cho nên, tôi không muốn biên dịch nữa là vậy. :102:
Tới đoạn dịch ở trên, tóm lại, bài trên nói rõ về
khí ngũ hành âm dương cân bằng mới là căn bản tồn tại cát hung của lục thân! ! ! như Tích Thiên Tủy viết "Ngũ khí thiên toàn định cát hung".
Theo tôi là bài viết báo cho biết đừng xét lục thân qua bảng 12 cung svtt, như Giáp là nhật chủ sinh tháng Dần, Giáp tọa lâm quan, Ất tọa đế vượng; nếu cho rằng Kiếp là Ất thì anh chị em mình được đế vượng. Hoặc Mậu là Thiên Tài của Giáp, là cha, tọa trường sinh, lại cho rằng Cha không có sức khỏe (vì trường sinh được xem là non nớt, giống như bại địa). Thế là sai.
Tôi cho rằng điều trên không hẳn sai; phần lục thân thì cũng mơ hồ như nhiều lý thuyết khác nhau chúng ta đã biết. Vậy chỉ cần nhiều nghiên cứu để xác định vượng/suy của lục thân.
Còn nếu nói về nhật chủ và thập thần thì tôi thấy cung SVTT âm dương thuận nghịch lại rất hợp lý. Ta nói đến như Mậu là thiên tài tọa trường sinh tháng Dần, cơ bản là "suy", nhưng dĩ nhiên, còn xét nhiều khía cạnh khác trong tứ trụ để luận Thiên Tài này thực sự suy là không dụng được, hay suy mà lại hợp địa thế, lại phá Ấn chẳng hạn, v.v...
Luận tứ trụ thì cuối cùng, các bạn đã rõ, không có thuyết nào chỉ dùng nó đơn thuần mà bao quát cả mệnh, vận được. Vì thế bao giờ cũng nên xét toàn bộ với rất nhiều lý giải khác nhau.
Bài viết này là do tôi dịch từ tài liệu của Lý Pháp Năng đệ tử của Khưu Bình Sách tiên sinh (tác giả của biểu đồ Vượng Suy theo đồ hình con lắc). Ông này viết về Hình Khí Âm Dương để luận tứ trụ, theo tôi thâm thúy cũng không bằng Vương Khánh tiên sinh được. T/g Lý Pháp Năng luận bát tự theo hướng riêng của mình, ông ấy là T/g viết tập sách "Đỉnh cao luận mệnh của Trích Thiên Tủy", mà nói giải thích về Trích Thiên Tủy hiện nay, trong giới giang hồ không có ai giải thích rõ bằng Bành Khanh Dân manh sư (do học trò Thái Tích Quỳnh ghi âm viết lại), và cũng chính T/g Bành Khanh Dân manh sư nói ở trong tập sách "Mệnh lý tinh hoa" cũng là người đầu tiên giải thích về áp dụng "Mệnh cung" trong bát tự. Chính chỗ này đã làm tôi đau đầu khi đi truy nguyên nguồn gốc luận mệnh theo "Mệnh cung" bao năm qua. Cũng nhờ tra theo những bài viết về "Mệnh cung" của ông mà tôi mới truy ra được tập sách cổ đại nói về "Thất Chính, Tứ Dư". Sách này nguyên thủy là từ Quả Lão tinh tông (do Tiên ông Trương Quả Lão trong Bát tiên mà người đời truyền lại).
Thực chất việc luận "Âm Dương sinh tử" của tiền nhân để lại, nếu khai thác đúng thì thật kỳ diệu. Cho nên, trong môn học "Kỳ Môn Độn Giáp" mới có bài phú:
" Âm Dương thuận nghịch diệu nan cùng,
Nhị Chí hoàn hương nhất Cửu cung;
Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung".
Trong lúc luận mệnh, dùng bí quyết này phối hợp với Âm Dương ngũ hành cùng quan hệ ngũ hành sinh khắc sẽ cho ra nhiều kết quả bất ngờ mà không phải ai cũng biết.
Đặc biệt là luận lục thân. Người học mệnh bị vướng phải trầm trọng thâm căn cố đế, khắc sâu trong tâm là lấy Thập Thần để xác định lục thân mà không biết là trong đó có phân biệt âm dương ngũ hành. Chỉ biết lấy Tài tinh làm cha, làm vợ mà không phân ra âm dương cho nên mới hiểu sai khi luận lục thân.
Như nam mệnh, can ngày là Giáp lấy Kỷ Chính Tài làm vợ, đây là chính phối; lấy Mậu Thiên tài làm cha là chính xác. Nhưng nếu nhật can là Ất thì sao? lấy Kỷ Thiên Tài làm cha à? và lấy Mậu Chính tài làm vợ à? Đây là sai nguyên lý âm dương ngũ hành rồi.
Lại có người lấy vị trí 12 cung vị ngũ hành để luận "Vượng Suy" mà không biết là 12 cung vị ngũ hành theo trình tự bốn mùa mà thành, cho nên mới có "...Sinh, vượng, tử, tuyệt...". Đây là điều hết sức sai lầm khi phán đoán bát tự.
Từ hai chỗ sai lầm ở trên, kéo dài mãi đến ngày nay, có người học mệnh cả đời mà không phán định được lục thân như thế nào cho đúng!
anh lesoi có thể chỉ dẫn cho em cách xác định chữ nào chỉ lục thân trong bát tự của 1 người ko anh, như bát tự ko có thiên tài thì lấy gì xem tin tức về bố ạ
thanks anh
anh lesoi có thể chỉ dẫn cho em cách xác định chữ nào chỉ lục thân trong bát tự của 1 người ko anh, như bát tự ko có thiên tài thì lấy gì xem tin tức về bố ạ
thanks anh
Lấy can âm dương (nhật chủ) mà xác định lục thân. Ngoài ra, phép xem lục thân còn được định vị qua các trụ năm tháng ngày giờ. Thông thường lấy can tháng làm cha, chi tháng làm mẹ. Nếu tứ trụ thấy có mẹ, thì dùng thiên can ngũ hợp mà suy ( cha thịnh hay suy thường kết hợp Phụ tinh tọa chi tháng theo mùa sinh và 12 cung vị ngũ hành mà suy). VD can ngày là Ất mộc, tứ trụ không có Mậu Kỷ (Tài tinh) mà có Quý thủy (mẹ). Lấy Mậu hợp Quý, Mậu là cha, xem cung tháng (gia đình) theo 12 cung Sinh Tử ... định vị. Ngoài ra, trụ năm cũng là dùng để xem lúc cha mẹ còn nhỏ ở chung với ông bà, nhưng nếu cha mẹ đã có con (tức là tứ trụ của mình) thì xét cung tháng là chủ yếu. Đây là chỗ tôi rút kinh nghiệm xem cho mình và trong gia đình để xét lục thân của mình, còn các bạn có cao kiến gì khác thì cứ nêu ra để cùng nhau bàn luận.
Riêng tôi xem lục thân, ngoài chỗ nêu ở trên, tôi còn chú trọng tuần Lục Giáp, để xem Không vong lạc cung nào? lấy trong 10 ngày thuộc tuần Lục Giáp trong đó có cả lục thân, và định vị từng can chi trong tuần để biết thêm lục thân phân bố theo 12 cung vị ngũ hành như thế nào?
Ngoài ra, cần phải biết âm dương ngũ hành là âm hay dương để xác định. Dương là nam, Âm là nữ.
Theo tuongduy hiểu qua thiên can ngũ hợp định lục thân thì dù bát tự của Ất nhật chủ không có Tài tinh trong trụ, hay cả không có Quý, vẫn dùng Quý là mẹ của Ất, bất luận nam nữ, vì Quý âm sinh Ất âm, không phải lấy Nhâm sinh Ất. Và sau đó đúng là lấy Mậu hợp Quý, Mậu làm cha, vì đây là thuyết ngũ hợp. Cha mẹ kết hợp sau đó mới sinh con.
Theo lối dùng thông thường hay nói là Mộc nhật chủ, sinh Hỏa thực thương, rồi tới Thổ là Tài tinh, chính là cơ bản dùng cặp Mậu-Quý này. Từ chỗ này suy ra đủ các lục thân, miễn là giữ đúng cách mẫu hệ và can hợp.
anh tuongduy cho hỏi, vậy can ngày giáp thì lấy chữ gì làm cha ạ, vẫn là mậu như ất ạ, thanks anh
hung804, anh có thể giải thích rõ hơn ko ạ
anh tuongduy cho hỏi, vậy can ngày giáp thì lấy chữ gì làm cha ạ, vẫn là mậu như ất ạ, thanks anh Thật ra đúng là thuyết mẫu hệ nói đến chỉ có can ÂM sinh, cùng với thuyết thiên can hợp mà thành. Lưu ý là không chỉ nói về lục thân. Giải thích rõ thêm như sau:
Quí thủy sinh Mộc (giáp ất); Mậu hợp Quí nên Mậu Kỷ là Tài
Ất mộc sinh Hỏa (bính đinh); Canh hợp Ất nên Canh Tân là Tài
Đinh hỏa sinh Thổ (mậu kỷ); Nhâm hợp Đinh nên Nhâm Quí là Tài
Kỷ thổ sinh Kim (canh tân); Giáp hợp Kỷ nên Giáp Ất là Tài
Tân kim sinh Thủy (nhâm quí); Bính hợp Tân nên Bính Đinh là Tài
"Quý thủy sinh Mộc" tức là Mộc có cả Giáp Ất, vì Mậu Quí là cặp tương hợp (hóa Thổ) nên tuongduy viết
Mộc nhật chủ, sinh Hỏa thực thương, rồi tới Thổ là Tài tinh, chính là cơ bản dùng cặp Mậu-Quý này
Các bạn cần nhớ là sau đó, khi luận Thiên, Chính mới phân ra tách bạch hơn, tức có âm dương khác nhau, tuy nhiên cũng đúng với ngũ hành. Đó là Giáp lấy Mậu là thiên tài, Kỷ là chính tài; Ất lấy Kỷ là thiên tài, Mậu là chính tài. Vẫn luôn luôn dụng như thế để luận năng lực của Thiên, Chính khác nhau mà không phải nói rõ về lục thân.
Khi xét quan hệ thiên chính như thế, người ta biểu thị luôn về lục thân: Chính tài là cha ruột, Thiên tài là "dượng", hoặc Chính ấn mới là mẹ, Thiên ấn là mẹ kế.
Nhưng trong Tích Thiên Tủy viết rõ:
Ấn đều xét là cha mẹ, không chỉ cụ thể là mẹ hay là cha, đôi khi còn đại diện cho ông bà. Nếu Sát là can, chi là Chính Ấn, Sát này lại biểu thị người cha. Sát định là cha thì cả Chính Quan cũng là cha. Ngoài ra, Thực thần hay Thiên ấn đều có thể là ông bà. Riêng Thiên ấn chỉ cho biết tất cả người lớn tuổi và họ hàng liên quan đến nhật chủ.
Hoặc như trong sách Mệnh Lý Quyết Khiếu Bảo Giám:
Nam mệnh thì Quan Sát là con cái, Thực Thương là con gái, Tỉ Kiếp là anh em, Quan Sát là em gái.
Nữ mệnh thì xét Thực Thương là con cái, riêng Ấn lại là con gái.
Ngoài ra còn xét thêm cung vị, can chi để luận lục thân. Như chúng ta đều biết trụ năm, trụ tháng đều có thể liên can đến ông bà cha mẹ. Tất cả đều linh hoạt thông qua chính bát tự và vị trí sinh vượng tử tuyệt của tất cả thập thần trong tháng sinh.
Ai ai cũng đều có cha mẹ, họ hàng, nếu không hiển lộ ra bát tự thì vẫn tính "ẩn", chứ không phải không có, đến đại vận, lưu niên đều xét thấu ra. Có khi lại tính nếu thiếu Thổ Tài tinh thì lấy hành sinh ra Thổ làm Tài, đó là Hỏa.
Lại có sách viết nữ mệnh lấy Dụng Thần là chồng, còn nam mệnh thì xét Hỉ Thần là vợ ! (Bát tự tâm yếu tiết thiên ky)
@ Nói thêm với Thucthan:
Nếu mệnh nam là can dương, với mệnh nữ là can âm thì thuyết thập thần sinh khắc là đúng. Nhưng ngược lại, nếu là âm nam và dương nữ thì khác với chỗ dùng.
Cho dù là âm hay dương, thì can sinh cho mình vẫn là âm, vì đó là mẹ của mình; nếu là can dương sinh bản thân nhật can thì đó là thiên mẫu (tức là thiếp của cha mình vậy).
VD: nữ mệnh, nhật nguyên là Giáp Dần. Vậy, thì Quý vẫn là mẹ ruột, còn Mậu thiên tài là cha mình. Vì Mậu Quý hợp chính phối.
Cho nên, chỗ này lâu nay chúng ta đọc sách không có ai giải thích, vì vậy cứ mãi mò mẫm như thầy bói xem voi. Bởi vì chúng ta quên đi nguyên lý ngũ hành, cái mà chúng ta thường gọi là mệnh lý sơ cấp. Nhưng nếu nắm vững chỗ này, thì dù có đọc trăm quyển sách vẫn biết tác giả nói đúng hay sai.
Nhưng còn có một phép xem trong khi luận lục thân nhật can. Đó là, tuần Lục Giáp của nhật nguyên.
Phép xem này bất kể các trụ còn lại, chỉ cần xác định trụ ngày là Quân, còn các trụ khác là Thần. Vì vậy, lấy trụ ngày xem trong tuần Lục Giáp nào quản, chúng ta biết 10 ngày là một tuần Giáp, còn lại 2 trụ địa chi trước tuần Lục Giáp chính là Không vong. Chỗ này phối luận 12 cung vị ngũ hành sẽ ra kết quả rất nhiều. Bởi vì 10 ngày trong tuần, thì có cả lục thân nằm trong đó. Trong tứ trụ không có can định vị cha hoặc mẹ, thì không phải là mệnh này không có cha hoặc mẹ ( như cô KC đã giải thích). Mà xác định được chỗ 10 ngày trong tuần sẽ thấy những lục thân này. Lấy chỗ này xác định can nào toạ chi nào, ứng với vị trí 12 cung vị ngũ hành mà phán đoán, thì sẽ thấy nghiệm.
Các bạn chịu khó kê ra đủ 10 ngày trong tuần Giáp của nhật nguyên thì sẽ rõ. Cứ ứng dụng vào bản thân mình cùng họ hàng, nó còn mang tính quyết định lục thân đó sống còn được mất.
Bên cạnh đó, cần áp dụng thêm các Thần Sát thông dụng như đào hoa, dịch mã, thiên ất quý nhân, vong thần ... để xác định người này có quý nhân giúp đỡ, hoặc có thường đi ra ngoài, hoặc có bồ nhí, hai vợ ... hay không? Chỗ này cũng thường thấy trong đời thường mà chúng ta cần khảo sát đến nó, chớ khinh thường.
Sau khi xác định cha mẹ, anh em là can gì, thì các bạn tra tới đời ông tổ cũng không hề sai. Không cần phải suy nghĩ gì đến dụng thần, cánh này cục nọ cho đau đầu. Một nguyên lý cực kỳ đơn giản và rất dễ áp dụng. Tổ tiên chỉ để lại cho chúng ta nguyên lý nghìn vàng không gì đổi được. Chỉ có người đời mới đổi trắng thay đen, làm rối lòng kẻ hậu học, thật tiếc cho bao năm tìm tòi giờ mới ngộ ra được. Mong các bạn tĩnh tâm mà nghiệm.
Làm thế nào để dung hoà được lý thuyết của Vương Khánh và Lý pháp Năng? Thì sẽ có bước đột phá trong phương pháp Âm Dương Thái cực điểm :)) giờ cháu mới nhận ra chú Lesoi và chú Hùng804 là 1 người ạ hihi
@ Nói thêm với Thucthan:
Nếu mệnh nam là can dương, với mệnh nữ là can âm thì thuyết thập thần sinh khắc là đúng. Nhưng ngược lại, nếu là âm nam và dương nữ thì khác với chỗ dùng.
Cho dù là âm hay dương, thì can sinh cho mình vẫn là âm, vì đó là mẹ của mình; nếu là can dương sinh bản thân nhật can thì đó là thiên mẫu (tức là thiếp của cha mình vậy).
VD: nữ mệnh, nhật nguyên là Giáp Dần. Vậy, thì Quý vẫn là mẹ ruột, còn Mậu thiên tài là cha mình. Vì Mậu Quý hợp chính phối.
Cho nên, chỗ này lâu nay chúng ta đọc sách không có ai giải thích, vì vậy cứ mãi mò mẫm như thầy bói xem voi. Bởi vì chúng ta quên đi nguyên lý ngũ hành, cái mà chúng ta thường gọi là mệnh lý sơ cấp. Nhưng nếu nắm vững chỗ này, thì dù có đọc trăm quyển sách vẫn biết tác giả nói đúng hay sai.
Nhưng còn có một phép xem trong khi luận lục thân nhật can. Đó là, tuần Lục Giáp của nhật nguyên.
Phép xem này bất kể các trụ còn lại, chỉ cần xác định trụ ngày là Quân, còn các trụ khác là Thần. Vì vậy, lấy trụ ngày xem trong tuần Lục Giáp nào quản, chúng ta biết 10 ngày là một tuần Giáp, còn lại 2 trụ địa chi trước tuần Lục Giáp chính là Không vong. Chỗ này phối luận 12 cung vị ngũ hành sẽ ra kết quả rất nhiều. Bởi vì 10 ngày trong tuần, thì có cả lục thân nằm trong đó. Trong tứ trụ không có can định vị cha hoặc mẹ, thì không phải là mệnh này không có cha hoặc mẹ ( như cô KC đã giải thích). Mà xác định được chỗ 10 ngày trong tuần sẽ thấy những lục thân này. Lấy chỗ này xác định can nào toạ chi nào, ứng với vị trí 12 cung vị ngũ hành mà phán đoán, thì sẽ thấy nghiệm.
Các bạn chịu khó kê ra đủ 10 ngày trong tuần Giáp của nhật nguyên thì sẽ rõ. Cứ ứng dụng vào bản thân mình cùng họ hàng, nó còn mang tính quyết định lục thân đó sống còn được mất.
Bên cạnh đó, cần áp dụng thêm các Thần Sát thông dụng như đào hoa, dịch mã, thiên ất quý nhân, vong thần ... để xác định người này có quý nhân giúp đỡ, hoặc có thường đi ra ngoài, hoặc có bồ nhí, hai vợ ... hay không? Chỗ này cũng thường thấy trong đời thường mà chúng ta cần khảo sát đến nó, chớ khinh thường.
Sau khi xác định cha mẹ, anh em là can gì, thì các bạn tra tới đời ông tổ cũng không hề sai. Không cần phải suy nghĩ gì đến dụng thần, cánh này cục nọ cho đau đầu. Một nguyên lý cực kỳ đơn giản và rất dễ áp dụng. Tổ tiên chỉ để lại cho chúng ta nguyên lý nghìn vàng không gì đổi được. Chỉ có người đời mới đổi trắng thay đen, làm rối lòng kẻ hậu học, thật tiếc cho bao năm tìm tòi giờ mới ngộ ra được. Mong các bạn tĩnh tâm mà nghiệm.
anh Lesoi thân:
như lá số em, ngày sinh mậu thân thuộc tuần Giáp thìn, có ngày đinh mùi là ấn xác định là mẹ, đinh hợp nhâm, vậy nhâm là cha, nhâm tọa tý trong tuần Giáp thìn
Đinh tọa mùi là quan đới, nhâm tọa tý là đế vượng, nhưng sao bố mẹ em lại nghèo ạ.
thanks anh.
Tân kim sinh Thủy (nhâm quí); Bính hợp Tân nên Bính Đinh là Tài
Các bạn cần nhớ là sau đó, khi luận Thiên, Chính mới phân ra tách bạch hơn, tức có âm dương khác nhau, tuy nhiên cũng đúng với ngũ hành. Đó là Giáp lấy Mậu là thiên tài, Kỷ là chính tài; Ất lấy Kỷ là thiên tài, Mậu là chính tài. Vẫn luôn luôn dụng như thế để luận năng lực của Thiên, Chính khác nhau mà không phải nói rõ về lục thân.
Khi xét quan hệ thiên chính như thế, người ta biểu thị luôn về lục thân: Chính tài là cha ruột, Thiên tài là "dượng", hoặc Chính ấn mới là mẹ, Thiên ấn là mẹ kế.
Hi cô Kim Cương,
Cháu xin trao đổi một chút chỗ này.
Như cháu sinh ngày Quý Sửu. Cháu đọc đâu đó, cách xác định như này.
1) Lấy hành sinh Can ngày và ngược âm dương: Để xác định Mẹ
Canh (Dương) Kim sinh Quý Thủy (Âm) => Canh là tượng Mẹ
2) Lấy hành khắc can Ngày và cùng âm dương: Để xác định Cha
Đinh (Âm) Hỏa khắc Quý Thủy (Âm) => Đinh là tượng Cha, vậy Bính là tượng Vợ.
Có cách của Bác Hùng804 ở trên thì xác định ngược lại ( Vì Tân Âm sinh Quý Âm, Bính dương hợp Tân Âm) => Tân là tượng mẹ, Bính là tượng cha
___
Mấy tiêu chí trên trong lá số cháu chỉ có Tân là lộ, Đinh thì Ẩn. Canh và Bính đều không xuất hiện. Năm Bính Thân 2016, thì lại lấy được vợ. Vậy có thể coi Bính là tượng Vợ không ạ.
Cháu xin cảm ơn ạ.
Chào Digital, như đã nói, có rất nhiều thuyết về lục thân trong bát tự của mình, quá nhiều! Tôi trình bày ở trên là quan điểm về thiên can ngũ hợp, giải thích về Tài tinh. TÀI thì có thể là cha, vừa là vợ, tùy theo nam nữ. Nên chúng ta cứ kiểm nghiệm càng nhiều càng tốt, nhưng tôi vẫn viết từ xưa đến giờ, lục thân trong bát tự của mình không bao giờ chính xác, nếu các bạn muốn biết rõ tình trạng cụ thể chi tiết của họ (bịnh tật, giàu nghèo, quý, tiện...v.v...), chỉ là đoán lúc đúng lúc thì sai. Ví dụ như nhà có 4 anh chị em, ta thử xác định 1 gia đình như thế với tiêu chí cha mẹ của họ thì biết, không khi nào trúng hết hoàn toàn.
Nam sinh ngày Quý, lấy Bính Đinh là vợ là đúng rồi, chả thắc mắc, vì Tài tinh là năng lực "ta khắc", nghĩa là ta muốn đạt được, những gì trong năm này mà đạt được đều là Tài tinh đóng góp. Đó là quan điểm chung cho Tài mà tôi thấy rằng nên hiểu như vậy thì tốt hơn, vì có người trong năm Bính không thấy động tĩnh hôn nhân gì, mà mở tiệm, trúng số, v.v...
anh Lesoi thân:
như lá số em, ngày sinh mậu thân thuộc tuần Giáp thìn, có ngày đinh mùi là ấn xác định là mẹ, đinh hợp nhâm, vậy nhâm là cha, nhâm tọa tý trong tuần Giáp thìn
Đinh tọa mùi là quan đới, nhâm tọa tý là đế vượng, nhưng sao bố mẹ em lại nghèo ạ.
thanks anh.
Sao bạn luận đơn giản quá vậy!
Bây giờ tôi lấy ra hết tuần Giáp Thìn, bao gồm: Giáp Thìn, Ất Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu. Dần Mão Không vong.
Mậu lấy Nhâm là cha, lấy Đinh là mẹ. Đinh Nhậm hợp mộc.
Đinh trường sinh ở Dậu, Lộc ở Ngọ; Nhâm trường sinh ở Thân, Lộc ở Hợi.
Bởi vì bạn nói không thấy cha trong tứ trụ cho nên tôi lấy trong tuần Giáp Thìn để luận.
+ Tuần Giáp Thìn: Nhâm tọa Tý đế vượng. Đinh lộc của mẹ ở cung Ngọ ===> Tý xung Ngọ ===> Mất lộc.
+ Tuần Giáp Thìn: Đinh tọa Mùi là khố Ấn. Nhâm lộc ở Hợi, Hợi tam hợp Mùi Mão ( Mão Không vong) ===> Đinh Nhâm hợp mộc nhập Mùi mộ ===> Lộc của cha bị nhập vào mộ khố lại phùng Không. Ấn Không là không có người canh giữ, ai vào cũng được.
Đinh là Tài của cha tọa dưới Ấn khố của mẹ.
===> Tôi hỏi bạn, lộc của cha mẹ đều mất, làm sao mà giàu đây?
Đó là tôi chưa kể mệnh của bạn:
+ Tuần Giáp Thìn: Mậu tọa Thân, Thân là đất trường sinh của Nhâm (cha bạn); Mậu trường sinh ở Dần (KV) ===> Dần Thân xung; Mậu đến Tị là lộc địa (lâm quan), Nhâm lộc ở Hợi ===> Tị xung Hợi.
+ Luận Quý nhân: Nhâm Quý tàng Tị Mão. Nhâm là cha, quý nhân ở Tị bị xung, ở Mão phùng Không vong. Không có người giúp cha bạn khi ngặt nghèo.
+ Luận Đào hoa: Thân Tý Thìn, đào hoa ở Dậu. Nhâm trường sinh ở Thân, mộc dục đào hoa ở Dậu. Cả hai tầng đào hoa ===> Bạn biết cha của bạn như thế nào không? Cha gặp mẹ là Đinh, Đinh trường sinh ở Dậu chốn đào hoa ===> quan hệ cha mẹ như thế nào?
Tóm lại, đây là phép xem một trụ ngày mà thôi. Vì vậy, bạn lấy chỗ này làm cơ sở để tra ngược lại trong tứ trụ của mình thì sẽ thấy rõ hơn nhiều. Mệnh của bạn và cha không thể nào ở chung, ở chung thì cả hai đều mất lộc.
Vài lời thô thiển luận để bạn tham khảo, thích thì dùng, không thích thì bỏ. Hôm nay tôi hứng thú nói ra chỗ này, ngày mai tôi sẽ không nói nữa. Cũng như phép xem Lục thân của mỗi con người đều có. Nếu không có cha mẹ thì không có mình sinh ra, cho dù trong tứ trụ không có Tinh của cha hoặc mẹ thì vẫn xem được.
Cho nên, nguyên lý ngũ hành là bất di bất dịch. Cho dù các thầy mệnh lý tán phét ra đầy sách cũng không qua chỗ này.
Sao bạn luận đơn giản quá vậy!
Bây giờ tôi lấy ra hết tuần Giáp Thìn, bao gồm: Giáp Thìn, Ất Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu. Dần Mão Không vong.
Mậu lấy Nhâm là cha, lấy Đinh là mẹ. Đinh Nhậm hợp mộc.
Đinh trường sinh ở Dậu, Lộc ở Ngọ; Nhâm trường sinh ở Thân, Lộc ở Hợi.
Bởi vì bạn nói không thấy cha trong tứ trụ cho nên tôi lấy trong tuần Giáp Thìn để luận.
+ Tuần Giáp Thìn: Nhâm tọa Tý đế vượng. Đinh lộc của mẹ ở cung Ngọ ===> Tý xung Ngọ ===> Mất lộc.
+ Tuần Giáp Thìn: Đinh tọa Mùi là khố Ấn. Nhâm lộc ở Hợi, Hợi tam hợp Mùi Mão ( Mão Không vong) ===> Đinh Nhâm hợp mộc nhập Mùi mộ ===> Lộc của cha bị nhập vào mộ khố lại phùng Không. Ấn Không là không có người canh giữ, ai vào cũng được.
Đinh là Tài của cha tọa dưới Ấn khố của mẹ.
===> Tôi hỏi bạn, lộc của cha mẹ đều mất, làm sao mà giàu đây?
Đó là tôi chưa kể mệnh của bạn:
+ Tuần Giáp Thìn: Mậu tọa Thân, Thân là đất trường sinh của Nhâm (cha bạn); Mậu trường sinh ở Dần (KV) ===> Dần Thân xung; Mậu đến Tị là lộc địa (lâm quan), Nhâm lộc ở Hợi ===> Tị xung Hợi.
+ Luận Quý nhân: Nhâm Quý tàng Tị Mão. Nhâm là cha, quý nhân ở Tị bị xung, ở Mão phùng Không vong. Không có người giúp cha bạn khi ngặt nghèo.
+ Luận Đào hoa: Thân Tý Thìn, đào hoa ở Dậu. Nhâm trường sinh ở Thân, mộc dục đào hoa ở Dậu. Cả hai tầng đào hoa ===> Bạn biết cha của bạn như thế nào không? Cha gặp mẹ là Đinh, Đinh trường sinh ở Dậu chốn đào hoa ===> quan hệ cha mẹ như thế nào?
Tóm lại, đây là phép xem một trụ ngày mà thôi. Vì vậy, bạn lấy chỗ này làm cơ sở để tra ngược lại trong tứ trụ của mình thì sẽ thấy rõ hơn nhiều. Mệnh của bạn và cha không thể nào ở chung, ở chung thì cả hai đều mất lộc.
Vài lời thô thiển luận để bạn tham khảo, thích thì dùng, không thích thì bỏ. Hôm nay tôi hứng thú nói ra chỗ này, ngày mai tôi sẽ không nói nữa. Cũng như phép xem Lục thân của mỗi con người đều có. Nếu không có cha mẹ thì không có mình sinh ra, cho dù trong tứ trụ không có Tinh của cha hoặc mẹ thì vẫn xem được.
Cho nên, nguyên lý ngũ hành là bất di bất dịch. Cho dù các thầy mệnh lý tán phét ra đầy sách cũng không qua chỗ này.
anh luận hay quá, trân trọng, em và cha em quả là ko hợp nhau, cũng ko ở gần nhau được, cảm ơn anh đã chỉ dạy bí quyết ạ
Nhờ thucthan kiên trì hỏi tới, Hùng804 mới xuất chiêu :) Cám ơn cả hai người.
Qua cách luận lục thân với 12 cung vị tstt mới rõ sự tuyệt diệu của âm dương sinh tử, phải không các bạn.
Mong rằng mọi người đều thừ nghiệm thuyết này và cho biết kết quả.
Luận quý nhân tức là ngôi Thiên Ất trong tứ trụ, chắc mọi người còn nhớ:
Giáp Mậu Canh* > Sửu Mùi
Ất Kỉ > Tí Thân
Bính Đinh > Hợi Dậu
Nhâm Quí > Mão Tị
Tân * > Ngọ Dần
Có sách viết Canh Tân > Ngọ Dần
Nếu Thiên Ất tọa Tử, Tuyệt hay Không Vong, công việc làm cực nhọc, khó gặp người giúp đỡ ủng hộ.
Luận Đào Hoa, tức Hàm Trì, vị trí Mộc Dục: xét tình cảm, dục vọng, hôn nhân; ngày nay người ta cho rằng Đào Hoa chỉ quan hệ xã hội giữa tất cả mọi người. Bạn có khuynh hướng được người ưa thích hay không đều do sao Đào Hoa. Bởi thế nên Đào Hoa là thần sát quan trọng nhất nhì trong tứ trụ và có cả 2 mặt tích cực và tiêu cực như mọi thần sát khác.
Dần Ngọ Tuất thấy Mão
Thân Tí Thìn thấy Dậu
Hợi Mão Mùi thấy Tí
Tị Dậu Sửu thấy Ngọ
Chào các Bác , theo e thấy Nhật can là Dương can thì việc xác định lục thân Chính Ấn là mẹ , Thiên tài là cha rất hợp tình hợp lý . Nhưng nhật can là Âm can thì lại phức tạp , giả sử Nhật can là Tân ( kim ) lấy Mậu ( thổ) chính Ấn là mẹ , Mậu hợp Quý vậy Quý ( thực thần ) là cha . Ngược lại Tân (kim) lấy Ất (mộc ) thiên Tài là cha , Ất hợp Canh vậy Canh (kiếp tài) là mẹ . Vậy đối với Nhật can là Âm can thì Chính Ấn và Kiếp tài đều có thể là mẹ , Thiên tài và Thực thần đều có thể là cha . Chỗ này e thấy khó xác định với âm can mong các bác cho đôi lời .
Chào các Bác , theo e thấy Nhật can là Dương can thì việc xác định lục thân Chính Ấn là mẹ , Thiên tài là cha rất hợp tình hợp lý . Nhưng nhật can là Âm can thì lại phức tạp , giả sử Nhật can là Tân ( kim ) lấy Mậu ( thổ) chính Ấn là mẹ , Mậu hợp Quý vậy Quý ( thực thần ) là cha . Ngược lại Tân (kim) lấy Ất (mộc ) thiên Tài là cha , Ất hợp Canh vậy Canh (kiếp tài) là mẹ . Vậy đối với Nhật can là Âm can thì Chính Ấn và Kiếp tài đều có thể là mẹ , Thiên tài và Thực thần đều có thể là cha . Chỗ này e thấy khó xác định với âm can mong các bác cho đôi lời .
Chính vì thế mới sai! Phải luận MẸ trước, hợp thiên can với mẹ là CHA!
Đó là
Kỷ thổ sinh Kim (canh tân); Giáp hợp Kỷ nên Giáp Ất là Tài
Chính vì thế mới sai! Phải luận MẸ trước, hợp thiên can với mẹ là CHA!
Luận mẹ hay cha trước đều được, các bạn chỉ cần nắm rõ Âm Dương ngũ hành, Thiên can ngũ hợp là được. Từ chỗ này, các bạn luận đến ba đời đều đúng. Bởi vì nguyên lý ngũ hành chỉ có một, hơn nhau là ở chỗ biết biến thông, học một suy ra ba mà dùng, miễn sao đừng vượt qua nguyên lý này là được. Hãy bỏ những gì đã ăn sâu vào đầu của chúng ta từ trước đến nay, đó là cứ theo Thập thần mà phán bừa thì sai một ly đi một dặm vậy.
Luận cha mẹ anh chị em được, thì ông bà nội ngoại, con rể con dâu,cháu chắc đều biết. Cứ theo nguyên tắc này mà dùng.
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.