View Full Version : Chứng kiến thiên cơ âm dương mệnh lý cùng phong thủy
Chứng kiến thiên cơ âm dương mệnh lý cùng phong thủy
Để cho bản thân các đệ tử tự thể nghiệm chứng kiến thiên cơ âm dương bát tự cùng phong thủy là cùng tổ tông thông nhau.
Buổi sáng tôi vừa ăn điểm tâm xong, đệ tử Chu Sơn ở Chiết Giang chạy xe thẳng đến nhà tôi. Hắn bởi vì nguyên nhân đặc thù không thể nghỉ lại nhà tôi, hàng ngày học tập đều đến rất sớm, vì truy cầu chân kinh mệnh lý phong thủy mà vất vả chạy đi chạy về. Bởi vì tuổi của hắn cùng tôi là ngang nhau, lại ở nơi thành thị phát đạt, cho nên tiếp xúc các môn phái khá nhiều, chỗ bái thầy dạy phong thủy cũng rất nhiều. Trải qua tìm hiểu tiếp xúc các môn phái phong thủy, phải qua một thời gian dài, bổ túc cái sở đoản, cho khách hàng xem phong thủy là chuyện bình thường, hắn vốn là thầy phong thủy chuyên nghiệp!
Thời gian tiếp xúc học tập mệnh lý cũng rất dài, nhưng hắn chưa từng thấy qua lấy chi tháng khí tàng can nắm quyền luận vượng suy, chỗ trước đây thấy đều là lấy bản thân chi tháng luận vượng suy. Càng không thấy qua Thiên tài, Địa tài, Nhân tài, năng lượng Tam tài luận mệnh; đặc biệt là phép luận xếp Cách định Cục khác so với trước đây, cùng Nhân nguyên đoán sự vô cùng kỳ diệu và can chi nhất thể luận Hình Khí. Khiến cho hắn hiểu ra chân chính cái gì là chỗ trong bài văn luận < Nguyệt lệnh, Thời lệnh > viết: Nhân nguyên là thần dụng sự, trong chương 《 Thông Thần luận 》ở trong sách 【 Trích Thiên Tủy 】! Ở trong lúc suy xét hình cùng hình trong quan hệ tác dụng địa chi "Hợp, xung, hình, hại, phá, tuyệt", căn bản nhận thức ra tác dụng tổ hợp căn bản không phải là lục thân cát hung, chỗ trước đây suy đoán càng không phải là kết quả lục thân cát hung. Xưưa kia Thánh hiền đã có tổng kết Chân kinh 【 Vinh Khô đắc thất, có hết ở trong sinh khắc; Phú Quý vinh hoa, không vượt ra ngoài trung hòa 】. Giữa hình và hình trong địa chi hợp, xung, hình, hại, phá, tuyệt, vốn là không luận công danh phú quý, thọ yểu cát hung; xét cho cùng thực chất vẫn là quan hệ tác dụng sinh khắc giữa “Khí và Khí” tàng ở bên trong Nhân nguyên. Chỉ có khí âm dương thập thiên can tác dụng qua lại với nhau, mới là chân chính của【Đại pháp sinh khắc 】! Hình vốn là chân hình có thể nhìn thấy được, khí thì là chỗ thần khí dựa bám vào ở trên hình. Mà không phải như trên vài tài liệu viết kim thủy là hình, mộc hỏa là khí. Làm cho hắn có cảm giác sâu sắc tư duy Thái Cực đoán mệnh kỳ diệu, ở trong chỗ thực tiễn “Đồng khí tương cầu, Thiên Nhân hợp nhất” hiển lộ ra âm dương Đế tải thần công!
Vừa mới bắt đầu vào học, có khách hàng điện thoại đến, yêu cầu ngay lập tức đi xem giúp cho nhà bọn họ phong thủy Dương trạch và Âm trạch Tổ phần. Lúc này đối với đệ tử học tập mệnh lý phong thủy mà nói, thực tại là khó mà có được cơ hội như vậy, cũng là dịp may mắn để thấy tận mắt nhìn sư phụ làm sao đem Dương học cùng Âm học kết hợp để suy đoán cát hung của phúc chủ, nghiệm chứng chỗ lý luận học tập phải chăng là có thể đem hiện thực để trắc nghiệm lại cái lý luận đã học.
Trên đường đi hai chúng tôi cùng nhau thảo luận chỗ thấy Âm Dương trạch cát hung, Long nhập thủ quá hạp, Tổ phụ Tử tôn Sơn loan, Long thoát tá khai bình, đến cuối cùng làm sao tìm được Long tự nhiên, tất có án tự nhiên cùng huyệt tự nhiên. Nửa đường xuống xe bình xét kĩ về phép xem cát hung một nhà mộ Âm trạch, lấy hình xét khí, lấy khí luận hình; làm sao khí theo thổ đi, hình dừng khí tụ mà âm dưỡng dương. Phải chăng là hài cốt đón nhận Long khí, làm sao hóa sinh vạn vật có che chở cho con cháu đời sau.
Hai chúng tôi không muốn lưu lại trên đường quá lâu, đơn giản trò chuyện pháp xem Hình loan Sa thủy, ngay lập tức đã đến trước nhà phúc chủ. Cả nhà phúc chủ đang đợi, mời chúng tôi ngồi dùng trà. Uống xong, gọi đệ tử lấy ra La Bàn cách xem tọa sơn triều hướng Dương trạch để xác định điểm Thái Cực lớn hay nhỏ. Trung tâm lập cực là sơn Thìn hướng Tuất, cửa chính nhà thiên về bên trái mở ra ngay vị trí Dậu, xung quanh Dương trạch có tường thành và lan can liền nhau, mặt trước bằng phẳng rộng rãi có hơn khoảng 10m, bên ngoài tường là xa lộ và láng giềng, đường đi vào từ chỗ dốc cao hướng đông mà đi xuống, ôm quanh bên ngoài bờ tường hướng về phía thấp tây nam mà đi. Cổng thành nhà Phúc chủ mở ra ở trong trục tuyến có vị trí phía trước là hướng tây bắc, cửa thành triều hướng Ngọ sơn Tý, thuận lợi cho lượng xe cộ ra vào. Kề bên lộ Tây bắc phía dưới có nhà phụ nhỏ, ngoài 100 m có chỗ khắc đá và lò vôi. Chính phương tây gần 300 m có núi cao, ở giữa mở rộng mạch dừng ở trên trục tuyến về phía trước. Cự lu nhà ước khoảng 150m. Phía trước giữa nhà và núi chỗ thấp là ruộng trũng, hai bên làng gần nhà xinh đẹp, cùng ngăn cách bở nhà kề bên có làng xóm có bụi trúc và cây nhãn cao vút xanh tốt, phương này là phía nam. Sau nhà có tường thành, mới trồng cây nhỏ bên trong tường, cáng xa nhà mấy mét. Ngoài tường có đường lộ ở giữa núi, toàn bộ cây cối phía sau nhà phúc chủ không có làng xóm phía sau hưng thịnh, nhìn xa có khí khô héo tiêu điều, phía sau này là phương kiêm cả đông nam. Chủ nhà đông bắc là nhà phụ liền nhau, chuồng gia súc. Ngoài tường là đi vào đường lộ. Căn cứ chỗ nhìn ở trên có thể suy trắc ra phúc chủ năm gần đây là không cát, trong quãng thời gian trước có người nhà bệnh nặng hoặc là tổn hại nhân đinh. Tây Bắc Càn là cha, lò nung vôi là Sát, hỏa khắc kim là tổn thương cha già. Chính hướng không xa có mạch núi nhỏ từ hướng tây đi xuống dừng ở trục phía trước là Bạch Hổ càn đường, chủ bệnh thương con trẻ không cát. Nam phương có sinh khí cây cối phát triển mạnh ở hướng đông bắc, nhà này vượng nữ nhân hoặc trạch chủ nữ nhi. Đông bắc là Cấn ở Hậu thiên, Chấn là Tiên thiên, có một cây Tùng ở bên cạnh nhà phụ, đại lợi cho sự nghiệp phòng Tử tinh. Toàn bộ khí ngoại hình vượng cho nữ đinh, mà không vượng nam đinh.
Sau khi xem Dương trạch, lập tức đi đến trước phòng bên trái đối diện bên sườn núi là phần đường Âm trạch của Tổ phụ. Xem một chút phần mộ tổ phụ gần làng bên cạnh cắt ngang dãy núi mà an táng, trắc được sơn Mùi hướng Sửu, phía sau không có núi tựa, trên hướng Sửu đúng là lò nung vôi cao vút. Bên cạnh mộ hướng Mão có một cây Tùng đại thụ to cao, còn một bên mộ phía hướng Dậu có có nhiều bụi cây sồi xanh, địa thế bên trái phía tây thì cao, còn bên phía đông thì thấp, tượng mộ có huyệt nằm nghiêng. Minh đường cùng triều án hết sức là không đúng như tên gọi, phía trước bên trái có không gian hẹp, phía trước bên phải có không gian rất lớn. Phía trước núi lõm có kim hình lông mày án sơn Mùi, trái lại hướng triều kim hình tròn sơn loan cùng bên trái kề ngay sơn mạch giáp nhau, khiến cho người cảm thán thầy phong thủy bản địa làm chuyện hại người. Mộ này nhân đinh đa số là phát nữ, ít phát nam, thời gian lâu có họa tuyệt nhân đinh, xem làm cho người không lạnh mà run. Phúc chủ trả lời là từ sau khi an táng tổ phụ, cha chú cùng người trong nhà vận khí đều không tốt, tài không tốt, gia nhân nam tính đa số là đau bệnh, chỉ phát nữ đinh. Sau đó tôi nói cho phúc chủ biết làm sao để bố hình tụ khí, dần dần cải hung mà thành cát, cũng làm cho mắt nhìn của đệ tử được mở rộng. Thấu hiểu sự tinh túy của Thiên theo Hình, Địa phụ Khí; Khí hình ở Địa, Hình lệ ở Thiên; ngoại khí hoành hành, nội khí chỉ sinh; lấy âm chứa dương, lấy dương phụ âm; lấy vật hữu hình xem khí vô hình, lấy khí định cát hung; âm dương tương kiến, phúc lộc vĩnh trinh!
Dưới đây là dạy cho đệ tử từ trong bát tự thấu hiểu thiên cơ thông thần mệnh lý và phong thủy là âm dương tương thông, là trình bày bí mật làm sao phát sinh”Thiên cảm Nhân ứng”.
Phúc chủ Càn tạo sinh ngày 19 tháng 01 năm 1983, nhằm ngày 6 tháng 12 âm năm Nhâm Tuất. Sau tiết Tiểu hàn 13 ngày Kỷ thổ nắm lệnh giữ quyền, để quản lục thân suy vượng.
Quan
Sát
Nhật nguyên
Tài
Nhâm
Quý
Đinh
Canh
Tuất
Sửu
Mùi
Tuất
Tân Đinh Mậu
Quý Tân Kỷ
Đinh Ất Kỷ
Tân Đinh Mậu
T.Tài,Tỉ,Thương
Sát,T.Tài,Thực
Tỉ,Kiêu,Thực
T.Tài,Tỉ,Thương
Đại vận: 5 Giáp Dần/15 Ất Mão/25 Bính Thìn/35 Đinh Tị/45 Mậu Ngọ/55 Kỷ Mùi.
Đầu tiên là nói rõ tại sao Tổ phần là sơn Mùi hướng Sửu, Tổ phụ (ông nội) Lục Thân tinh là Ất mộc Thiên Ấn, tàng ở trong Mùi khố, lấy Ất làm Thái Cực mà luận tổ phụ, khí Ất sinh ở Kỷ lệnh là thất thời tuyệt khí, cục không có thông căn Mão, chỉ được Quý hóa Tân Sát tăng thế là cát, Cục cát. Ất thấy Mậu là Chính Tài thê tử, trong chi giờ Tuất có Mậu tất là vợ của Ất tổ phụ (bà nội), nguyên nhân là do có 2 thể Mùi Tuất phá nhau. Trong Tuất có tổ hợp Tân Đinh, ngoài có tổ hợp Đinh Canh, phản ánh tổ mẫu có họa khắc tử. Bởi vì Tân kim là con của tổ mẫu Mậu thổ, trong cục có hai chỗ kề nhau tương khắc, còn có Mùi Tuất hình xung mộ Sửu cung con cái của tổ mẫu. Lục thân tinh nhược mà bị khắc, vượng mà phùng sinh, mà còn đồng thời có mộ ở trong nguyên cục, lục thân tất có họa bi ai chết yểu. (Trả lời, hiện chỉ còn lại một mình ông chú ruột, những người khác đều yểu vong.). Luận tổ phụ tổ mẫu thọ mệnh tất trước tiên là phải định Cục của bọn họ, tổ mẫu Mậu sinh Kỷ lệnh là vượng, có Canh tiết bảo hộ, tất phải cao thọ. Ất mộc tuy có Đinh Thực hộ vệ là trường thọ, nhưng so sánh tuổi thọ là không thể qua Mậu thổ. Mộ Tổ phụ ở cung hạn trụ ngày, mà mộ tổ mẫu ở cung hạn trụ giờ, một trước một sau, hết sức lộ rõ thiên cơ là ai chết trước. Đại vận Ất Mão, tổ phụ từ trong Mùi khố xuất ra, năm Sát vượng tất là tổn thể. Cẩn thận tra đoạn 10 năm lưu niên này, chỉ có năm Canh Thìn và Ất Dậu là đại hung. Nghiên cứu tỉ mĩ một chút, trong Thìn có Quý thủy sinh Ất mộc, ngoài hung mà trong cát, tất có thể hóa hiểm thành bình yên. Năm Ất Dậu, bản trụ gặp tử tuyệt, Dậu xung Mão, thể Ất bị Sát khắc chế, trúng phong mà bệnh chết.
Âm sinh dương tử, Dương sinh Âm tử, Âm Dương sinh tử đều không ly khai khỏi ngũ hành sinh khắc. Sau khi Lục thân tử vong, an táng ở địa phương nào, cõi đi về có triều hướng như thế nào, thực ra đã sớm chú định ở trong mệnh. Tổ phụ Ất mộc tàng ở dưới chi ngày, Mùi là cỏi kết cục quay về của Ất mộc, mộ địa sớm đã có an bài ở trong mệnh cục, chẳng qua là chỉ đợi thời gian ứng kỳ. Mùi là chỗ nhật chủ tọa, trong phong thủy thiên can là mặt sau là ở trên, địa chi là ở dưới là phía trước, Mùi ở quẻ Khôn là chỗ vị trí phương tây nam. Từ trên nguyên mệnh cục nhìn ra, sau khi tổ phụ chết, tất là táng ở phía trước nhà gần chỗ hướng tây nam đối diện dưới sườn núi. Hơn nữa phách Tổ phụ tất ở trong Mùi mộ hết sức ngũ yên, tàng can có thể là chất đất huyệt mộ, có hỏa có thổ có mộc, không có kim không có thủy; thuyết minh đất ở trong huyệt mộ có màu đỏ nâu (Đinh Mùi), không có tảng đá (Tân), không có thấm nước (Quý), có căn (Ất). Trong bát tự có Mùi xung Sửu, Mùi là tọa sơn, Sửu là triều hướng. Sửu là kim khố, chính hướng là dãy núi trong sân có khắc đá. Giữa sân có đá nát vụn do cơ giới tự động quả thực là tượng tàng can trong Sửu (Quý Tân Kỷ tương sinh), trong sân có lò nung đá thành vôi cao ngút đính chính là Tuất trước Sửu, Tuất là lò nung luyện gia công (Đinh hỏa khắc Tân kim), Tuất hình Sửu chính là mộ huyệt chính hướng phương Sửu, có Sửu biện là nơi đá cát, còn có lò nung đá là Tuất cao vút. Tuất phá Mùi mộ huyệt, sản sinh sát khí vô hình tổn đinh phá tài. Sửu là quẻ Cấn hướng đông bắc, Cấn là núi, núi sông thông khí, đường đi cùng mạch phát của nhân đinh chủ quản phần mộ. Tiên thiên là Thể là Chấn là bản thể tự nhiên của phòng lớn, chủ quản phòng lớn nam đinh thọ yểu tật bệnh cát hung, có hình sát (Tuất) phá mộ phần (Mùi), phòng lớn thì nhân đinh bất lợi. Thể Tiên thiên Tiểu phòng ở Hậu thiên là vị trí Càn, vị trí này không có Sát, cho nên tiểu phòng không có họa chết yểu. Hậu thiên Bát Quái quẻ Chấn cư ở Mão, chuyên luận công dụng xã hội đại phòng của con cháu, vị trí này có cây tùng thành vật dùng, biểu thị vị trí này có đại phòng con cháu thành tài. Công dụng Tiểu phòng ở hướng đông bắc, chính là Hậu thiên vì trí Cấn Tuất sát, biểu thì rõ tiểu phòng đời sau không có đại phú đại quý, lại xuất ra con cháu bất hiếu. Từ chỗ này mà suy, mỗi phòng nam nữ con cháu đều ở trong Âm trạch định mệnh, vận tuế thì là thời kỳ mỗi phòng nam nữ ứng cát ứng hung.
Phong thủy Dương trạch thì không giải thích rõ, hiện tại chỉ luận miệng cánh cửa tường thành nạp khí, cửa là nơi vạn vật ra vào, quan hệ an nguy đến toàn nhà trạch chủ nhiều ít, không thể không biết. Phúc chủ thân nhược kỵ Thất Sát, hiện tại cửa thành chính là tọa Nam triều Bắc (sơn Ngọ hướng Tý), chuyên nạp Hợi Tý Sửu bắc phương sát khí. Đối với nhật chủ mà nói khí Quý ở trong Tý chính là khí Thất Sát tà quỷ mang đến hoành họa ngập đầu, làm cho người ta sợ hãi lạnh thấu xương. Năm này lưu niên Giáp Ngọ, Ngọ là thân Lộc chi ngày, cũng là bản thể, lại là chủ một nhà. Ngọ Tý tương xung mà gây phẫn nộ sát khí, thảo nào tháng Ngọ vợ bị đẻ non, cha mắc chứng bệnh ung thư gan mất ở tháng Tuất, nhật chủ tự mắc chứng ung thư tràng vị đang trị liệu. Dương trạch định vận, hiện hành Bính Thìn, đúng là kỳ sát khí quay trở vào nhà (Thìn), Thìn là Thương quan của nhật chủ, ở vận này chú định mắc bệnh phẫu thuật khó tránh lưu lại vết sẹo. Lưu niên Mậu Tuất có nghiệm chứng tổ mẫu qua đời an táng ở bên cạnh tổ phụ … .
Các bạn hữu hiện tại hẳn đã ngộ ra, bát tự cùng phong thủy chỗ chú định lục thân cát hung cũng không phải là trùng hợp ngẫu nhiên, phản ánh vạn vật là do khí âm dương chú định sinh và thành, mà không phải bất cứ đại hoàn cảnh năng lượng nhân lực nào làm. Âm trạch định mệnh, Dương trạch định vận, thực tế là định luật nghìn năm bất biến. Hiểu ngộ bát tự thì bao hàm chỗ có tin tức dự báo chú định phong thủy, phong thủy Âm Dương trạch chẳng qua là kéo dài tin tức từ trong bát tự mà thôi. Cho nên Pháp Năng đề xuất thao tác phong thủy Âm Dương trạch tất phải cần【 Lấy người làm gốc 】 mới là Đại đạo, vứt bỏ bát tự mà luận phong thủy, là hết sức sai lầm. Mà không phải là mọi người bình luận các loại tam hợp, tam nguyên, huyền không, thiên tinh… đều là sai lầm. Nếu muốn chân chính làm một vị minh sư, bất cứ vạn pháp nào, trước tiên phải hiểu thông mệnh lý thập thần mới là cứ chỉ sáng suốt.
Rõ Địa đức, lập Nhân đạo, Nhân biến hóa, Nguyên thủy chung, trước đây là vẫn dựa vào kinh phổ xem Đế tải cùng Thần công! ! !
ảnh kg hiểu tại sao lấy Át mộc làm tổ phụ (ông nội) mà kg là Kỹ vì Ky sinhTân Kim là Thiên tài mong anh chỉ giúp
Nhật chủ Càn tạo là Đinh hỏa, Mẹ của Đinh hỏa là khác giới là Giáp mộc, khắc Giáp mộc là Tân kim (là cha ruột là khác giới với mẹ). Mẹ (bà nội) của cha Tân kim là Mậu thồ (khác giới), khắc Mậu thổ là Ất mộc (là ông nội).
Đây chính là phép ngũ hành sinh khắc chính lý. Các bạn chớ nghe những lời vu vơ trên các sách bàn luận sai phép luận Lục thân.
cám ơn anh tôi muốn học thêm về manh phái mà kg có sách lại kg biết dịch mấy cuốn sách bên huyền không lý số của Đoàn kiến nghiệp và hắc kim duong,mong anh dich được sách cho lên mạng để anh em học hỏi, chào chúc anh nhiều sức khỏe
Đúng là bên trang Huyenkhonglyso có bài đăng về phép xem tứ trụ của Đoàn Kiến Nghiệp và Hác Kim Dương, nhưng tôi nghĩ là người dịch chưa đúng bài viết. Đoàn Kiến Nghiệp có hai quyển sách tương đối có tiếng là Mệnh lý Trân bảo và Mệnh lý côi bảo. Nhưng tôi xem qua tiếng Hoa thì thấy đọc như người mù đi sờ voi, chỉ biết dùng mà không giải thích được. Hơn nữa, tôi thấy cũng chẳng có gì là Mệnh lý chính thống, nó đa số dùng Đoán ngữ.
Nếu người dùng không biết nguồn cội lý lẽ luận mệnh thì chỉ uổng công toi.
Muốn biết đoán ngữ có chính xác hay không thì dứt khoát phải hiểu mệnh lý, đoán ngữ là tập hợp nhiều kinh nghiệm của từng dòng Manh phái, quy tụ lại chỉ theo kinh nghiệm nhất thời chứ không đúng hết tất cả. Cho nên tôi nghĩ bạn cũng không cần phải tìm tòi chi uổng phí thời gian, cứ xem nguồn gốc luận mệnh để tìm ra lý lẽ chính tông, sau đó bạn luận đoán thì mới không sai lầm.
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.