PDA

View Full Version : Kham Dư Ngũ kinh



lesoi
23-09-17, 19:02
《 Kham Dư Ngũ kinh 》

Đạo Địa học, ở Hình thế là Thể, Lý khí là Dụng. Bởi vì Hình cầu Khí, là phép tắc nhập dụng địa lý; Hà Đồ, Lạc Thư cùng Tiên, Hậu thiên Bát quái là gốc Phong thủy học, phong thủy học dựa vào Lý khí.
Kham Dư Ngũ Kinh tức là bao gồm 5 quyển sách nói về Phong thủy, đó là:《 Thanh Nang Kinh 》, 《 Thanh Nang Tự 》, 《 Thanh Nang Áo ngữ 》, 《 Thiên Ngọc Kinh 》, 《 Đô Thiên Bảo Chiếu Kinh 》.

1, 《 Thanh Nang Kinh 》
Thời đầu nhà Hán Hoàng Thạch Công truyền cho Xích Tùng Tử nguyên bản là Quách Phác sáng tác.

1.1. Quyển Thượng
Thiên tôn Địa ti,
Dương lẻ Âm chẵn;
1-6 cộng tông,
2-7 đồng đạo,
3-8 vi bằng,
4-9 vi hữu,
5-10 đồng đồ.
Hạp Ích chẳn lẻ,
Ngũ triệu sinh thành,
Lưu hành chung thủy.

Bát thể hoằng bố,
Tử Mẫu phân thi.
Thiên Địa định vị,
Sơn Trạch thông khí,
Lôi Phong tương bạc,
Thủy Hỏa bất tương xạ.
Trung Ngũ lập cực,
Lâm chế tứ phương,
Bối Nhất diện Cửu,
Tam Thất cư bàng,
Nhị Bát Tứ Lục,
Tung hoành kỷ cương.
Dương lấy giúp Âm,
Âm lấy có Dương,
Dương sinh ở Âm,
Nhu sinh ở Cương,
Âm Đức hoằng tể,
Dương Đức thuận xương.
Là do dương vốn là âm,
Âm nuôi dưỡng dương,
Thiên theo Hình,
Địa kèm theo Khí.
Đây là Hóa Thủy.

1. 2. Quyển Trung
Thiên có ngũ tinh,
Địa có ngũ hành,
Thiên phân Tinh tú,
Địa liệt Sơn Xuyên.
Khí hành ở Địa,
Hình dựa vào Thiên,
Vì hình xét khí,
Để lập nhân kỷ.
Tử Vi thiên cực,
Chỗ Thái Ất ngự,
Quân lâm Tứ Chính,
Mà đặt phía Nam.
Thiên là Đông cung,
Thiếu là phía Tây,
Thái là Nam viên,
Chiếu theo tứ cực.
Tứ Thất là Kinh,
Ngũ Đức là Vĩ,
Vận xoay Khôn thịnh,
Buông sáng Càn Kỷ,
Thất Chính then chốt,
Lưu thông chung thủy.
Địa Đức thượng tải,
Thiên Quang hạ lâm,
Âm dụng dương triều,
Dương dụng âm ứng,
Âm dương tương kiến,
Phúc lộc vĩnh trinh,
Âm dương tương thừa,
Họa cữu chủng môn.
Thiên chi sở lâm,
Địa chi sở thịnh,
Hình chỉ khí súc,
Vạn vật hóa sinh,
Khí cảm mà ứng,
Quỷ phúc cùng người.
Là Thiên có Tượng,
Là Địa có Hình,
Trên dưới hợp nhau,
Mà thành nhất thể.
Đây là Hóa Cơ.

1. 3. Quyển Hạ
Vô Cực chuyển Thái Cực vậy, Lý ngụ ở Khí, Khí có ở Hình. Nhật Nguyệt Tinh tú, khí cương thăng lên, sơn xuyên thảo mộc, khí nhu ngưng xuống. Tư dương để thịnh, dụng âm để thành, Dương Đức có Tượng, Âm Đức có vị. Địa có tứ thế, khí theo bát phương, ngoại khí hành hình, nội khí chỉ sinh, đón phong thì tán, giới thủy thì ngưng.
Là do thuận theo ngũ triệu, dụng Bát Quái, bài Lục Giáp, bố Bát Môn, suy ngũ vận, định lục khí, minh địa đức, lập nhân đạo, nhân biến hóa, nguyên chung thủy. Đây gọi là Hóa Thành.

lesoi
23-09-17, 19:05
2, 《 Thanh Nang Tự 》
Tằng Văn Địch sáng tác

Dương Công dưỡng lão xem Thư Hùng,
Thiên hạ nhiều sách đúng khác nhau.
Trước xem Kim Long động bất động,
Thứ xét Huyết Mạch nhận Lai Long.

Long phân hai khối âm dương thủ,
Thủy đối tam xoa (*) tường nhận dấu.
Giang Nam Long lai Giang Bắc vọng,
Giang Tây long khứ vọng Giang Đông.
(*) Nghĩa Tam xoa: xem Táng thư của Lý Pháp Năng đại sư

Là lấy Thánh nhân bói Hà Lạc,
Sông suối lưỡng thủy giao sáng núi.
Âm Dương giao nhau xem suối chảy,
Bốc niên bốc thế trạch đô cung.

Truyền thuật này Cảnh Thuần đời Tấn,
Diễn kinh lập nghĩa xuất Huyền Không.
Chu Tước phát nguyên sinh vượng khí,
Giải thích từng cái thoát u mê.

Nhất sinh Nhị hề Nhị sinh Tam,
Tam sinh Vạn vật là Huyền quan.
Sơn quản Sơn hề Thủy quản Thủy,
Không đợi nói đây là âm dương.

Hiểu được âm dương huyền diệu lý,
Là biết suy vượng tử cùng sinh.
Không hỏi tọa sơn cùng lai thủy,
Nếu phùng Tử khí đều không lấy.

Tiên thiên La Kinh Thập nhị Chi,
Hậu thiên lại dụng Can cùng Duy.
Bát Can Tứ Duy phụ Chi vị,
Tử Mẫu Công Tôn đoán chỗ này.

Hai mươi bốn Sơn phân thuận nghịch,
Cộng thành bốn mươi thêm tám cục.
Ở trong này ngũ hành liền phân,
Tổ Tông lại theo âm dương xuất.

Dương theo bên trái chuyển vòng tròn,
Âm theo bên phải chuyển thông nhau.
Có người hiểu được lẽ âm dương,
Lo gì đại địa không gặp lại.

Dương sơn dương hướng thủy lưu dương,
Chấp định thuyết này quá hoang đường.
Âm sơn âm hướng thủy lưu âm,
Cười đau cố chấp cũng như nhau.

Nếu như khám phá lý trong đó,
Diệu dụng vốn là cùng nhất thể.
Âm Dương thấy nhau hai là khó,
Nhất Sơn nhất Thủy nói đủ sao.

Nhị thập tứ sơn song song khởi,
Hiếm có lúc thầy thông nghĩa này.
Ngũ hành phân bố hai mươi bốn,
Quyết này ít thầy nhớ chỗ này.

lesoi
23-09-17, 19:06
Sơn thượng Long thần không hạ thủy,
Long thần trong nước không thượng sơn.
Phép này lượng Sơn cùng bộ Thủy,
Trăm dặm giang sơn một buổi đi.

Phép lại có tịnh âm tịnh dương,
Trước sau tám thước không nên tạp.
Tà Chính nhận đến âm dương thủ,
Khí đón sinh vượng phương không Sát.

Lai sơn khởi đỉnh cần phải biết,
Tam tiết tứ tiết không trói buộc.
Chỉ cần Long thần được sinh vượng,
Âm Dương lại khác cùng trong huyệt.

Thiên thượng Tinh Thần như dệt lưới,
Thủy giao tam bát phải chuyển nhau.
Thủy phát thành môn cần phải hội,
Lại như trong hồ Nhạn giao Nga.

Phú quý bần tiện ở thủy thần,
Thủy là sơn gia tinh huyết mạch.
Sơn tĩnh Thủy động định ngày đêm,
Thủy chủ tài lộc Sơn nhân đinh.

Càn Khôn Cấn Tốn hiệu Ngự Nhai,
Tứ đại tôn thần bài trong đó.
Sinh khắc phải dựa ngũ hành bố,
Phải hiểu thiên cơ xứ diệu huyền.

Càn Khôn Cấn Tốn thủy trường lưu,
Cát thần nhập trước nhà hào phú.

Mời nghiệm một nhà mộ ngày xưa,
Mười mộ chôn vùi chín mộ bần.
Chỉ có một mộ là phát phúc,
Khứ thủy lai sơn vẫn hợp tình.

Tông miếu vốn là gốc âm dương,
Được tứ thất lục khó mà toàn.
Tam tài Lục Kiến tuy vi diệu,
Được tam thất ngũ vẫn là thiên.

Bởi vì một nhóm ngoại quốc nhiễu,
Liền đem ngũ hành xếp đảo nghịch.
Lấy bậy truyền sai mà không rõ,
Cho nên họa phúc liền nói sai.

lesoi
23-09-17, 19:06
3, 《 Thanh Nang Áo ngữ 》
Dương Quân Tùng sáng tác

Tưởng Đại Hồng viết:
Dương Công được chính quyết Thanh Nang, quy ước ý nghĩa làm áo ngữ, lấy Lý khí Nguyên Không, dụng tinh thể ngũ hành, mà làm phép tắc núi cao bình địa, né tránh khái quát ở trong đó, nhưng cần phải được khẩu quyết chân truyền, không làm chương tiết câu cú, cuối cùng không thể phân biệt, gọi là Áo ngữ, đúng vậy, là Áo ngữ vậy.

Khôn Nhâm Ất, Cự Môn xuất từ đầu;
Cấn Bính Tân, là vị trí Phá Quân.
Thìn Tốn Hợi, là nơi ở Vũ Khúc;
Giáp Quý Thân, Tham Lang nhất lộ hành.

Trái là dương, Tý Quý đến Hợi Nhâm;
Phải là âm, Ngọ Đinh đến Tị Bính.
Thư cùng Hùng, Giao hội hợp Huyền Không;
Hùng cùng Thư, Huyền Không suy quẻ nội.

Sơn cùng Thủy, Cần phải rõ lý này;
Thủy cùng Sơn, Họa phúc vẫn tương quan.
Rõ Huyền Không, Chỉ ở trong ngũ hành;
Biết phép này, Không cần tìm Nạp Giáp.

Điên điên đảo, Nhị thập tứ sơn có châu báu;
Thuận Nghịch hành, Nhị thập tứ sơn có hố lửa.
Nhận Kim Long, Một Kinh một Vĩ nghĩa bất tận;
Động bất động, Chờ đợi cao nhân làm diệu dụng.

Nghĩa thứ nhất, Phải biết thân Long đi và dừng.
Lời thứ hai, Lai Mạch Minh Đường không thể lệch.
Phép thứ ba, Truyền thụ Công Tào không cao thế.
Kỳ thứ tư, Minh Đường chữ thập (十) có huyền vi.

Diệu thứ năm, Trước sau Thanh Long lưỡng tương chiếu.
Mật thứ sáu, Bát quốc thành môn tỏa chính khí.
Áo thứ bảy, Hướng phải thiên tâm tầm thập đạo.
Cách thứ tám, Lưu thần uốn khúc nhận đến đi.

Thần thứ chín, Mặc cho bình địa cùng thanh vân.
Đúng thứ mười, Nếu có một khuyết không chân tình.

lesoi
23-09-17, 19:07
Rõ Đảo trượng, Quẻ tọa âm dương hà tất nhớ.
Hiểu bàn tay, Thái Cực phân minh phải có Đồ.
Biết hóa khí, Sinh khắc chế hóa phải nhớ thuộc.
Nói Ngũ tinh, Phương tròn nhọn tú phải phân minh.

Hiểu cao thấp, Tinh Phong phải biện được huyền vi.
Quỷ cùng diệu, Sinh tử đến đi chân yếu diệu.
Hướng phóng thủy, sinh vượng có không cát hưu tù.

lesoi
23-09-17, 19:08
Nhị thập tứ sơn phân ngũ hành,
Biết được vinh khô Tử cùng Sinh.
Phiên thiên đảo địa đúng khác nhau,
Bí mật trong đó ở Huyền Không.

Nhận Long lập Huyệt phải phân rõ,
Ở người tử tế biện thiên tâm.
Thiên tâm đã biện huyệt nào khó,
Nhưng nắm trong hướng xem phóng thủy.

Từ ngoài sinh vào gọi là Tiến,
Định biết tiền tài tích như sơn.
Từ trong sinh ra gọi là Thoái,
Trong nhà tiền tài đều phế tận.

Sinh nhập Khắc nhập gọi là Vượng,
Tử Tôn cao quan thật phú quý.
Mạch đập sinh vượng cần phải biết,
Long nghỉ Mạch hàn tai họa xâm.

Dẫu có Sơn khác đến cứu trợ,
Nhọc công Lộc Mã hộ Long đi.
Khuyên anh lại nắm Tinh Thần biện,
Cát hung họa phúc thấy như Thần.

Hiểu được chỗ này chân vi diệu,
Lại thấy Quách Phác tái xuất hiện.

lesoi
23-09-17, 19:08
4, 《 Thiên Ngọc Kinh 》
Dương Quân Tùng sáng tác

4. 1. Thượng
Giang Đông Nhất Quái tòng lai cát, bát thần tứ cá nhất.
Giang Tây Nhất Quái bài Long vị, bát thần tứ cá nhị.
Nam Bắc bát thần cộng Nhất Quái, đích thực ứng không sai.
Nhị thập tứ Long quản Tam Quái, chớ đợi lúc thầy nói.

Bỗng nhiên nhận biết liền thông thần, đời đời người cổ vũ.
Thiên quái Giang Đông tìm trên tay, biết giá trị thiên kim.
Địa vẽ Bát Quái ai có hội, Sơn cùng Thủy đối nhau.
Phụ Mẫu âm dương tử tế tầm, trước sau kiêm nhau định.

Trước sau kiêm nhau xem hai đường, phân định an hai bên.
Quẻ nội Bát Quái không xuất vị, đời đời người tôn quý.
Hướng thủy chảy về một đường đi, có thanh danh khắp nơi.
Long hành xuất quẻ không quan quý, không nên hao tâm lực.

Chỉ đem Thiên Y Phúc Đức trang, chưa giải thấy vinh quang.
Đảo bài phụ mẫu ấm Long vị, Sơn hướng cùng thủy lưu.
Thập nhị âm dương xếp một đường, luôn là được trong quẻ.
Cửa Thiên cửa Địa định Thư Hùng, nơi này gặp phú quý.

Phiên Thiên đảo Địa đúng khác nhau, bí mật ở Huyền Không.
Tam dương thủy hướng hết ngọn nguồn, phú quý vĩnh viễn không ngừng.
Tam dương Lục tú Nhị thần nhận, lập tức vào triều đường.
Thủy đáo Ngự Nhai quan dễ đến, thần đồng xuất Trạng nguyên.

Ấn thụ nếu như cư Thủy khẩu, Ngự Nhai cận thai phụ.
Đùng đùng trống trận như thác đổ, diễm diễm hồng bái quý.

Trên theo Tam Tài cùng Lục Kiến, bài định toán âm dương.
Dưới theo Ngọc Liễn hãn môn lưu, Long đi phải quay đầu.

Lục Kiến phân rõ hiệu Lục Long, tính danh đạt thông thiên.
Chính Sơn chính Hướng rơi trên Chi, cô yểu bị trượng hình.
Cộng lộ lưỡng thần là phu phụ, nhận thủ chân thần lộ.
Tiên nhân bí mật định âm dương, chính là Chân Long cương (đồi, gò).

Hai chữ Âm Dương xem linh chính, tọa hướng phải biết bệnh.
Nếu gặp Chính thần trang chính vị, bát thủy nhập linh đường.
Linh đường chính hướng cần biết tốt, nhận lấy não lai sơn.
Thủy thượng bài Long điểm vị trang, tích gạo hơn vạn kho.

Chính thần bách bộ thủy thành Long, thủy đoản liền gặp hung.
Linh thần không hỏi dài hay ngắn, cát hung đoán khác nhau.
Phụ Mẫu xếp xong đến Tử Tức, phải đi nhận sinh khắc.
Thủy thượng bài Long chiếu vị phân, huynh đệ thêm con cháu.

Nhị thập tứ sơn phân lưỡng lộ, nhận biết chủ ngũ hành.
Long trung giao chiến trong thủy trang, chính là Chính Long tổn.
Trước mặt nếu không hung giao phá, chớ đoán là hung họa.
Hung tinh xem ở công đầu nào, cẩn thận tìm tung tích.

Trước định lai sơn sau định hướng, liên châu không trở ngại.
Phải biết tìm kĩ vết ngũ hành, phú quý kết Kim Long.
Ngũ hành nếu như bay gặp hướng, trăm năm con cháu vượng.
Âm Dương phối hợp cũng đồng luận, phú quý tìm chỗ này.

Đông Tây Phụ Mẫu tam bàn quái, toán là giá nghìn vàng.
Hai mươi bốn lộ xuất cao quan, áo lụa nhập Trường An.
Phụ Mẫu không phải là không tốt, không quan chỉ phú hào.
Phụ Mẫu bày ra xem tả hữu, hướng đầu chia tốt xấu.

Song Sơn song Hướng thủy linh thần, phú quý vĩnh viễn giàu.
Nếu gặp chính thần phải bại tuyệt, ngũ hành bị tách chia.

Cách hướng một thần lúc trọng tử, nghìn lần cẩn thận suy.
Nếu hành công vị xem thuận nghịch, tiếp cận phương đặc dị.
Công vị nếu đến thấy Nghịch Long, nam nữ mất tung tích.
Lại xem Phụ Mẫu hạ tam cát, đệ nhất tam bàn quái.

lesoi
23-09-17, 19:11
4. 2. Trung
Hai mươi bốn sơn khởi bát cung, Tham Cự Vũ phụ Hùng.
Xung quanh đều là đào vong huyệt, đời sau tuyệt nhân hậu.
Chỉ có Ai Tinh là tối quý, lộ bí mật thiên cơ.
Thiên cơ nếu như an ở trong, gia đình sẽ phú quý.

Thiên cơ nếu như an ở ngoài, gia đình ngày lụn bại.
Ngũ tinh hợp với danh Cửu Tinh, thiên hạ mặc hoành hành.
Can Duy Càn Cấn Tốn Khôn Nhâm, dương thuận tinh thần lớn.
Chi thần Khảm Chấn Ly Đoài Quý, âm quái thủ nghịch hành.

Phân định âm dương quy hai lộ, thuận nghịch xếp mà suy.
Biết sinh biết tử cũng biết bần, giữ lấy dạy cháu con.
Thiên Địa phụ mẫu tam bàn quái, lúc thầy chưa hề nói.
Huyền Không đại quái thuyết thần tiên, vốn là kinh quyết này.

Không nói tổ tông nhưng truyền loạn, mở miệng chớ nói càng.
Nếu vẫn không tin kinh văn này, chỉ che mộ cổ nhân.
Lại chia đông tây làm hai quái, hợp lại truyền thiên hạ.
Học lấy tiền nhân qua nhất tông, nhất thiết loạn đàm Không.

Ngũ hành hạ sơn hỏi nguồn cội, nhập thủ biết chân tung.
Phân định Tử tôn mười hai vị, tai họa gặp liền nhau.
Thiên tai vạn họa hiếm người biết, khắc là luận tổ tông.
Trong chỗ ngũ hành xuất một vị, ẩn bí cẩn thận nhớ;

Giả như Lai long cốt không chân, nghìn người lầm chỗ này.
Một cái xếp được trăm nghìn cái, tinh thần chớ nắm sai;
Long phải hợp hướng hướng hợp thủy, thủy hợp tam cát vị.
Hợp Lộc hợp Mã hợp Quan tinh, bản quái sinh vượng tầm;

Hợp hung hợp cát hợp cát tường, phép nào có tránh hung.
Chỉ xem Thái Tuế là thần nào, lập địa thấy rõ ràng;

Thành bại đoán định Công vị nào, trong năm là tam hợp.
Bài tinh tử tế xem ngũ hành, xem từ Quái sinh nào;

Lai sơn Bát Quái không biết vết, Bát Quái Cửu tinh Không.
Thuận nghịch xếp ra đều khác biệt, Thiên Quái ở trong đó.
Giáp Canh Bính Nhâm đều thuộc dương, suy thuận ngũ hành tường;
Ất Tân Đinh Quý đều thuộc âm, suy nghịch luận ngũ hành.

Âm Dương thuận nghịch đường khác biệt, nên hướng cầu trong này;
Cửu tinh song khởi Thư Hùng khác, chỗ chân diệu huyền quan.

Đông tây lưỡng quái chân thần khác, phải biết bản hướng thủy;
Bản hướng bản thủy tứ thần kỳ, đời đời mặc áo tía.
Thủy lưu xuất quái có gì đủ, cả đời làm quan viên;
Nhất chiết nhất đại là quan lộc, Nhị chiết nhị đại phú;

Tam chiết phụ mẫu cùng chảy dài, cẩm y cưỡi ngựa đi.
Mã thượng trảm đầu thủy xuất quái, cả đời là bãi quan.

Trực sơn trực thủy đi không lật, sân đình làm tiểu quan.

lesoi
23-09-17, 19:12
4. 3. Hạ
Càn sơn Càn hướng thủy hướng Càn, Càn phong xuất trạng nguyên;
Mão sơn Mão hướng Mão nguyên thủy, chợt phú sánh Thạch Sùng.
Ngọ sơn Ngọ hướng Ngọ đến Đường, đại tướng phòng biên cương;
Khôn sơn Khôn hướng thủy lưu Khôn, phú quý là vĩnh viễn.

Biện được âm dương lưỡng lộ hành, ngũ hành phải phân minh;
Cá chạch nhảy qua vượt Long môn, Bột Hải liền xoay mình.
Phải theo tứ thần là đệ nhất, quan chức không ngưng nghỉ.
Huyệt thượng Bát Quái phải biết tình, huyệt nội quái trang thanh.

Yêu cầu phú quý Tam bàn Quái, xuất Quái nhà bần cùng.
Dần Thân Tị Hợi thủy lai trường, ngũ hành hướng ẩn tàng.
Thìn Tuất Sửu Mùi khỏ Kim Long, động thì luôn không nghèo.
Nếu vẫn mượn Khố giàu sau nghèo, bởi Khố vui trường xuân.

Đại đô Tinh Thần khởi phương nào, ngũ hành Trường sinh Vượng.
Đại bái đối nhau khởi cao cương, chức vị ở Học Đường.

Hãn môn cung quốc hoa biểu khởi, sơn thủy cũng như vậy.
Thủy tú phong kỳ xuất đại quan, tứ vị xem giống nhau.
Khảm Ly thủy hỏa trung thiên quá, Long Trì di Đế Tọa;
Bảo cái phong các triều Tứ Duy, Bảo điện đăng Long lâu.

Cương Kiếp Điếu Sát hưu phạm trứ, Tứ Mộ đa tiêu thước;
Kim chi Ngọc diệp Tứ Mạnh trang, kim sương ngọc ấn tàng.
Đế Thích nhất thần định Huyền phủ, Tử Vi đồng Bát Vũ;
Đảo bài Phụ Mẫu dưỡng Long thần, phú quý vạn niên xuân.

Hiểu được Phụ Mẫu Tam bàn Quái, chính là lộ chân thần;
Bắc Đẩu Thất Tinh khứ Đả Kiếp, Ly cung phải tương hợp.
Tý Ngọ Mão Dậu Tứ Long cương, tổ tông nhân tài vượng;
Thủy trường trăm dặm phò quân vương, thủy đoản liền bị thương.

Hiểu được Âm Dương lưỡng lộ hành, phú quý đạt kinh thành;
Không hiểu Âm Dương lưỡng lộ hành, hố lửa sâu muôn trượng.
Trước kiêm Long thần trước kiêm hướng, liên châu chớ phóng nhau;
Sau kiêm Long thần sau kiêm hướng, bài định toán âm dương.

Hiểu rõ Linh thần và Chính thần, sắp tới vào mây xanh;
Không hiểu Linh thần và Chính thần, đời đời tuyệt trừ căn.
Đảo bài Phụ Mẫu là Chân Long, Tử tức đạt thông thiên;
Xếp thuận Phụ Mẫu đảo Tử tức, đời đời nhân tài bại.

Nhất Long trong cung thủy lại đi, Tử tức chịu vất vả;
Tứ Tam Nhị Nhất Long đi nghịch, tứ tử đều vinh quý;
Long đi xa vị chủ ly hương, tứ vị phát kinh thương.
Lúc thầy không biết Ai Tinh học, chỉ làm thiên tâm mù;

Phía Đông tài cốc dẫn về Tây, Bắc đến Nam phương suy.
Lão Long cả ngày nằm trong núi, mới biết không dễ gặp;
Chỉ qua nhà mình mắt không thấy, nắm loạn tìm Sơn cương.
Thế nhân không biết thiên cơ bí, tiết phá có ích gì;

Ngày nay truyền được địa trung tiên, Huyền Không diệu khó nói.
Phiên Thiên đảo Địa càng huyền bí, Đại Quái không dễ truyền;

Lại có Thu Sơn xuất Sát quyết, cũng kiêm làm bằng thuyết.
Đại địa gặp nhau có mấy người, mỗi người là tri kỷ;
Nếu còn cầu khẩn không gieo đức, câm miệng lưỡi ẩn sâu.

(Còn tiếp)

hieunv74
23-09-17, 20:12
.................................................. ..........
(sửa sai)

lesoi
24-09-17, 14:12
是以圣人卜河洛 (1)
卜年卜世宅都宫. (2)
Chữ này có các nghĩa sau:
1. chiêm bốc; bói toán; bói; điềm; quẻ; dấu hiệu; lời đoán trước
2. liệu trước; dự liệu; phỏng đoán; ước đoán
3. chọn; chọn lọc (nơi chốn)
Vậy theo bạn là ý gì cho phù hợp?

dinhman
24-09-17, 15:05
Bói là đúng nghĩa nhất đấy. Đúng đến tuyệt đối .

hieunv74
24-09-17, 18:09
.................................................. ..................
(sửa sai)

hieunv74
24-09-17, 18:13
.................................................. ......................................
(sửa sai)

hieunv74
25-09-17, 17:06
.................................................. ......................................
(sửa sai)

hieunv74
25-09-17, 17:14
.................................................. ......................................
(sửa sai)

hieunv74
25-09-17, 17:17
.................................................. ......................................
(sửa sai)

lesoi
25-09-17, 20:20
Úi trời! tôi thấy bạn Hieunv74 luận đúng là "Tẩu hỏa nhập Ma" rồi. Hjhj
Thôi để tôi lý giải thêm cho các bạn hiểu một chút về Thanh Nang áo ngữ vậy. Thực tình là tôi không muốn giải thích ra rườm rà mà mất thời gian công việc. Nhưng tôi buộc phải nói thôi.

Khôn Nhâm Ất, Cự Môn tòng đầu xuất.
Cấn Bính Tân, Vị vị là Phá Quân.
Tốn Thìn Hợi, đều là chỗ Vũ Khúc.
Giáp Quý Thân, Tham Lang nhất lộ hành.

Đề yếu《 Khâm Định Tứ Khố toàn thư 》viết: "Như câu nói Khôn Nhâm Ất, Cự Môn Tòng đầu xuất, từ trước đã có nhà Hãn chú thích có ví dụ cụ thể tường thuật." Có thể đã biết không có người giải thích, xác thực là hết sức khó khăn. Chỗ này thực ra là bí quyết thế tinh bài bàn Huyền Không kiêm hướng. Toàn văn là: Tý Quý Giáp Thân Tham Lang nhất, Khôn Nhâm Ất Mão Mùi Cự nhị, Tốn Càn đều là Vũ Khúc lục, Cấn Bính Tân Dậu Sửu Phá thất, Dần Ngọ Canh Đinh tầm cửu tử.

"Tả là Dương, Tý Quý đến Hợi Nhâm"
"Hữu là Âm, Ngọ Đinh đến Tị Bính"
Chỗ này là đem 《 La Kinh 》 đặt ngay trước mặt, lấy tuyến Tý Ngọ làm trung tâm. Phương hướng (La Kinh) thuận theo thứ tự, Tả là dương, tức là từ Tý Quý đến Hợi Nhâm. Hữu là âm, Ngọ Đinh đến Tị Bính.
Chỗ này là xác minh phân chia tả hữu, cũng là nói xoay chuyển theo hình tròn. Mấu chốt là định điểm chắc chắn, định điểm không chắc chắn, bằng không thì khắp nơi đều bên trái, khắp nơi đều là bên phải. Đoạn sau có ghi chép trắc định viết: "Minh đảo trượng, Quái tọa âm dương hà tất nhớ." "Trượng", tức là cây gậy, gậy gỗ, thầy phong thủy mượn để dùng khi đi đường, dụng làm công cụ đo từng mắt trượng, đặt nó nằm ngắm chuẩn phía trước là Hướng, phía sau lưng là Tọa. Tọa hướng nhất định, trái phải tự nhiên cũng rõ, chớ tưởng tượng mà lầm.
《 Thanh Nang tự 》 viết: "Dương theo bên trái chuyển xoay tròn, âm theo bên phải chuyển thông nhau". Chỗ này là phân trái phân phải, tức là người lập xem trung tâm la bàn. Khôn Nhâm Ất ai (lần lượt) được Khôn là Cự Môn thuộc âm, Cấn Bính Tân ai được Đoài là Phá Quân thuộc âm, cả hai đều hướng xoay theo bên phải, phải là âm vậy. Tốn Thìn Hợi ai được Càn là Vũ Khúc thuộc dương, Giáp Quý Thân ai được Chấn là Tham Lang thuộc dương, cả hai đều là hướng xoay bên trái, trái là dương vậy. Rõ ràng tinh thông vô cùng.

Bốn ví dụ chỗ Dương Công ai tinh, đã đủ hoàn chỉnh, suy một ra ba, còn lại từng quái, là có thể theo sơn Long hướng thủy vị trí khác nhau mà ai ra. Sao có thiếu được? Đây là Hoạt pháp, mà không phải là Tử pháp vậy.

lesoi
25-09-17, 20:23
Thư và Hùng, giao hội hợp Huyền Không.
Hùng và Thư, Huyền Không quái nội suy.
Sơn và Thủy, phải hiểu rõ lý này.
Thủy và sơn, họa phúc vẫn liên quan.

Tại sao gọi là Thư Hùng? Danh từ Thư Hùng rõ ràng là loại chim thuộc tính bố mẹ, thuộc tính nam nữ là loại chim bay. Trong Phong thủy học quy định có "Trước Chu Tước". Có thể biết thủy động là dương là Hùng, sơn tĩnh là âm là Thư. Tức là chỉ thủy chảy hướng phương Chu Tước, cùng hướng đi sơn thủy, là giao hội nhau hay không? Là Sa bay Thủy chạy hay không, là vô tình làm trái hay không? "Sơn Thủy bất giao địa bất thành" .

Tưởng Đại Hồng ở trong《 Bình Sa Ngọc Xích biện ngụy 》 nói: "Đạo địa lý, nếu xác thực thấy chỗ Thư Hùng, thì nghìn quyển Thanh Nang đều có thể giao phó cho Tổ Long vậy (nói chuyện xưa Tần Thủy Hoàng đốt sách). Nói âm dương iao cấu, tự nhiên mà vậy, không khỏi miễn cưỡng, cũng phải sống động, không câu nệ một phương, sao có thể cứng nhắc phương vị, bài toán là tử sát chăng? ..." . Cũng chính là mọi phương đều có thể là Chu Tước vậy! Rõ ràng tinh thông vô cùng: "Giao hội hợp Huyền Không", cái gì là "Huyền Không" ?
"Huyền Không" tức là "Tọa" và "Hướng". Tọa mãn triều không, phương tọa danh là "Huyền Vũ", phương hướng danh là "Chu Tước". Phương Tọa danh là "Khảm" danh là Huyền Vũ, phương hướng danh là "Ly" danh là Chu Tước. Tọa Thực hướng Không, cho nên danh là "Huyền Không". Thuật phong thủy là lựa chọn phương án tối ưu, ở chỗ sau khi quan sát toàn diện mà định tọa hướng mà thôi. Lựa chọn phương án tối ưu Tọa Hướng, tức là kỹ thuật của thầy phong thủy, cho nên danh viết "Huyền Không" . Thẩm Thị Huyền Không bố cục, cũng chính là tọa và hướng phi bố vào trong thuận nghịch từ trong vận bàn, để trở thành chủ lưu phong thủy hiện đại.

"Thư và Hùng, giao hội hợp Huyền Không", Thư Hùng lúc giao hội ở phương Chu Tước, cho nên câu "Thủy đến trước mặt là Chân Long"."Hùng và Thư, Huyền Không quái nội suy", "Long hướng thủy" ai thành Ai Tinh Đại Quái, còn có tên là Huyền Không Đại quái, sơn thủy đã ở trong Đại quái. Cho nên viết là "Huyền Không quái nội suy" .

lesoi
25-09-17, 20:26
Minh Huyền Không, Chỉ ở trong ngũ hành.
Biết phép này, Không cần tìm Nạp Giáp.

Mục đích thuật Phong thủy, là ở chỗ tuyển chọn phương án tối ưu nhất để đưa ra một Tọa Hướng mà thôi. Cho nên trọng yếu có "Nghìn dặm giang sơn ở một hướng".
《 Thiên Ngọc kinh 》 viết: "Khảm Ly thủy hỏa trung thiên quá, Long Trì di Đế tọa". Có thể thấy "Khảm Ly Thủy Hỏa" là "Trung thiên",
《 Thanh Nang kinh 》 viết: "Bối nhất diện cửu, tam thất cư bàng", có thể thấy hai phương Chấn Đoài đều thuộc về hai bên cạnh, duy chỉ có Tý Ngọ thuộc ở giữa, đúng chỗ "Chỉ ở trong ngũ hành", không coi trọng ngũ hành khác. Chứng minh đúng là "Huyền Không" là "Tọa Hướng".
《 Thanh Nang tự 》 viết: "Cảnh Thuần thời Tấn truyền thuật này, diễn kinh lập ý xuất Huyền Không, Chu Tước phát nguyên sinh vượng khí, từng việc giảng thuyết mở tối tăm." Có thể thấy vừa đề xuất ra "Huyền Không", thì tiếp theo là "Chu Tước phát nguyên sinh vượng khí", khởi thuyết coi trọng ở trên "Hướng". Thì cũng có thể chứng minh tiền nhân là lấy tuyển trạch "Tọa Hướng" danh gọi là "Huyền Không", cùng thuyết hậu thế là khác nhau.
Có thể thấy "Huyền Không" coi trọng ở Quái tượng, không dùng "Nạp Giáp". Cũng có thể thấy phép "Nạp Giáp" càng có sớm hơn thuyết Huyền Không.

lesoi
25-09-17, 20:32
Chữ bốc “卜” trong câu này ám chỉ "Tiên" Khởi sự, hay trước khi lập trạch hay lập thành phố là phải xem thế đất, sông, núi; chứ không phải đem cái mu rùa ra mà bói coi hướng nào tốt rồi làm nhà.

Ở đây tôi nói nghĩa của chữ "Bặc" là gì? Chứ không phải là giải nghĩa công dụng của chữ "Bặc"! Tôi sẽ lần lượt giải thích Thanh Nang áo ngữ cho bạn hiểu.
Ngay như việc ứng dụng La Kinh tôi đưa đồ hình lên để lý giải 2 câu thơ:
"Tả là Dương, Tý Quý đến Hợi Nhâm"
"Hữu là Âm, Ngọ Đinh đến Tị Bính"
Nhưng bạn cũng không thấy được.
Thì bạn lại dịch là Tuất Hợi Càn, đủ thấy sách bạn đang cầm là tam sao thất bổn rồi.
Câu của bạn dịch là nói vị trí trong bát quái, đúng nghĩa là: "Càn tam liên tây bắc Tuất Hợi" mới đúng.

hieunv74
25-09-17, 21:44
.................................................. .....
(sửa sai)

lesoi
26-09-17, 12:45
Vậy thì bạn chớ nên xen vào topic nữa, để topic được liên tục.

(Tiếp theo)

5, 《 Đô Thiên Bảo Chiếu Kinh 》
Dương Quân Tùng sáng tác

5. 1. Thượng
Dương Công diệu ứng không nhiều lời, thực tế chỉ gia truyền;
Cả đời họa phúc do thiên định, hiền đạt có an mệnh.
Bần tiện an phần phú quý hưng, toàn dựa chân Long huyệt;
Long ở trong Sơn không xuất sơn, Quái ở giữa đại sơn.

Nếu như Sa khúc Tinh Thần chính, thu được định dương thần;
Quả quyết vừa táng liền hưng long, phụ phát tử truyền vinh.
Hảo long thoát kiếp xuất bình dương, hơn trăm dặm lai trường;
Ly tổ ly tông Tinh Thần xuất, đây là cốt Chân Long.

Tiền đồ liên tiếp xuất nhi tôn, văn võ chia trong Mạch;
Thẳng thấy suối lớn phương dừa lại, các sơn đều không chạy.
Từng cái quay đầu hướng trước huyệt, thành quách phải vòng hết;
Thủy khẩu đống loạn thạch trong thủy, đất này xuất hào hùng.

Nếu được Long lai thoát xa Kiếp, phát phú không ngưng nghỉ;
Huyệt kiến Dương Thần triều Tam chiết, đất này xuất quan lại.
Không hỏi tam nam cùng ngũ tử, phú quý khởi từng nhà;
Nước ở khe suối xem giống vậy, đoán y lộc vinh hoa.

Thủy lớn sông lớn đủ khắp nơi, nghìn dặm Lai Long ở.
Thủy khẩu La tinh khóa cửa lại, giống đại tướng đóng quân;
Chắc chắn rơi đầu Nhất Tinh hình, không hỏa thổ thì kim.
Chính Mạch lạc bình năm ba dặm, thấy thủy mới có dừng;

Nhị thủy giao nhau không dụng Sa, miễn là đá như gai.
Lại xem giáp thạch cao sơn khóa, dày đặc đến bao vây;
Đây là Quân Châu đại địa hình, nói rõ cho bạn nghe.
Thiên hạ Quân Châu vốn ở Không, không hề chống đỡ sau Long đầu;

Chỉ Hướng thủy thần thủ chỗ triều, chớ nói hậu vô chủ;
Lập Huyệt động tĩnh tìm bên trong, cần xem Long chấm dứt.

Dương Công diệu quyết không nhiều lời,
Vì thấy Hoàng Công vụng tâm tính;
Toàn dựa trên tay khởi Tinh thần,
Loại tụ trang thành làm diệu quyết.

Đại sơn gọi là Phá Quân tinh,
Chỗ tụ Ngũ tinh khó chia Mạch;
Nhưng xem xuất thân nhất lộ mạch,
Cuối cùng phải phân thủy thổ kim.

Lại theo phân thủy chỗ thân mạch,
Phải đem La Kinh chiếu lộ ra;
Lần lượt đồng hành qua chân eo,
Đi trước tất định vào chỗ tốt.

Chữ Tý xuất mạch tìm chữ Tý,
Chớ dạy sai lầm Sửu cùng Nhâm;
Nếu như Dương soa cùng Âm thác,
Khuyên bạn bất tất tìm phí tâm.

Tý Quý Ngọ Đinh Thiên nguyên cung,
Mão Ất Dậu Tân nhất lộ đồng;
Nếu có sơn thủy cùng nhau đến,
Nửa huyệt Càn Khôn Cấn Tốn cung;

Lấy được Phụ tinh thành ngũ cát,
Trong Sơn có đây là Chân Long.
Thìn Tuất Sửu Mùi Địa Nguyên long,
Càn Khôn Cấn Tốn phu phụ tông;

Giáp Canh Nhâm Bính là Chính hướng,
Mạch thủ Tham Lang hộ Chính Long.
Dần Thân Tị Hợi Nhân nguyên lai,
Ất Tân Đinh Quý suy thủy lai;

Lại lấy Tham Lang thành ngũ cát,
Dần Khôn Thân Cấn ngự môn Khai;
Tị Bính nghi hướng Thiên Môn thượng,
Hợi Nhâm hướng được Tốn phong xuy.

Tham Lang vốn là phát tới chậm,
Tọa hướng trong huyệt người không biết;
Lập Trạch an Phần quá lưỡng kỷ,
Phương sinh quý tử hảo nam nhi.

Lập Trạch an Phần phải hợp Long,
Không nên nghĩ đến núi hiếu kỳ;
Chủ nhân có lễ khách tôn trọng,
Khách ở Tây hề Chủ ở Đông.

lesoi
26-09-17, 12:46
5. 2. Trung
Thiên hạ Quân Châu vốn ở Không,
Không nên chống đỡ hậu Lai long;
Thời nay không biết huyền cơ quyết,
Chỉ nói sau đầu thiếu chống Long.

Đại để Quân Châu ở Không Long,
Tiện cùng bình dương trạch mộ đồng;
Châu Huyền nhân gia trụ Không Long,
Thiên quân vạn mã tất có dung.

Phân minh thấy rõ do suy nghĩ,
Long bất Không thời không Hoạt Long;
Dạy bạn xem lấy nơi Châu Huyền,
Đều là Không Long phát tung tích.

Chớ ngại Lai xa không hậu Long,
Long nếu không thời khí bất không;
Lưỡng thủy tầm Long liền sinh Huyệt,
Huyệt được thủy hề nào sợ phong.

Chỉ xem cổ nhân khanh tướng địa,
Bình dương nhất huyệt thắng thiên phong.

Tý Ngọ Mão Dậu tứ Sơn Long,
Tọa đúng Càn Khôn Cấn Tốn cung;
Chớ theo Bát Quái âm dương thủ,
Âm Dương sai thác bại vô cùng.

Trăm hai mươi nhà mù không quyết,
Quyết này huyền cơ đại tổ tông.
Lai Long cần phải ngắm Long huyệt,
Hậu nếu không thời tất có công.

Đế tọa Đế xa cùng Đế vị,
Đế cung Đế điện hậu làm Không;
Vạn đời Hầu vương đều cấm đoán,
Ta này ẩn xuất ở Giang Đông.

Âm Dương nếu có được chỗ này,
Con giun nếu gặp liền hóa Long.
Tý Ngọ Mão Dậu tứ sơn long,
Chi kiêm Can xuất tối hào hùng.

Ất Tân Đinh Quý đơn mạch đi,
Là lúc nửa cát lại nửa hung;
Tọa hướng Càn Khôn Cấn Tốn vị,
Kiêm phụ mà thành ngũ cát Long.

Thìn Tuất Sửu Mùi tứ sơn pha (sườn núi) ,
Giáp Canh Bính Nhâm táng mộ nhiều;
Nếu theo lý này không sai sót,
Thanh quý thanh danh khắp thiên hạ.

Làm quan tự có đường đứng dậy,
Con cháu bạch ốc xuất đăng khoa;
Bát Quái không phải chân diệu quyết,
Lúc thầy lại đem trong miệng ca.

Bại tuyệt chỉ vì dùng Quái sai,
Sao thấy theo Quái xuất quan cao;
Âm sơn dương thủy đều chân cát,
Ngày sau con cháu họa trăm điều.

Thủy nếu triều đến phải được thủy,
Chớ tham xa tú thích núi non;
Biết Long nếu theo Đồ Quyết táng,
Quan chức vinh hoa lập khả quan.

Huyền cơ diệu quyết có nguyên nhân,
Hướng chỉ sơn phong cẩn thận cầu;
Khởi tạo an phần theo quyết này,
Khiến cho phát phúc xuất công hầu.

Chân Hướng chi Sơn tìm tổ mạch,
Can thần hạ huyệt sẽ không lo;
Dần Thân Tị Hợi cỡi Long tẩu,
Ất Tân Đinh Quý thủy giao lưu.

Nếu có sơn này cùng thủy này,
Bạch ốc khoa danh phát không ngưng;
Ngày xưa cháu chết cắm huyệt này,
Từ đây thanh danh biểu vạn thu.

Lai Long phải xem tọa chính huyệt,
Hậu nếu Không thời tất có công;
Châu huyền Quan nha là Cách Cục,
Tất nhiên thanh hiển lập uy hùng.

Phạm Lãi Tiêu Hà Hàn Tín tổ,
Ất Tân Đinh Quý tài đủ hưng;
Hợi Nhâm phong long hưng tổ cách,
Tị Bính vượng tướng cùng như nhau.

Dần Thân Tị Hợi loại ngũ cát,
Ất Tân Đinh Quý tứ vị thông;
Áo gấm cẩm bào sao vinh hiển,
Tam sinh ngũ đỉnh thụ vương phong.

Long hồi triều tổ huyền chữ thủy (水),
Khoa danh bảng nhãn cập thần đồng;
Hậu Không đã thấy bài quyết trước,
Huyệt phải oa kiềm mạch đáo cung.

Xem thử Châu Nha cùng đài các,
Việc ấy dựa vào hậu Lai Long;
Sa chào Thủy triều là thượng cách,
La thành ủng vệ ở giữa Huyệt.

Theo Đồ thủ Hướng không sai lệch,
Không là Vương hầu cũng Tướng công.
Thiên cơ diệu quyết vốn khác nhau,
Bát Quái chỉ có thông Nhất Quái.

Càn Khôn Cấn Tốn triền vị nào,
Ất Tân Đinh Quý lạc cung nào;
Giáp Canh Nhâm Bính đến đất nào,
Tinh Thần lưu chuyển phải gặp nhau;

Chớ đem Thiên Cương xưng diệu quyết,
Cầm sai Bát Quái làm tổ tông.
Càn Khôn Cấn Tốn xuất quan quý,
Ất Tân Đinh Quý chỗ điền trang;

Giáp Canh Nhâm Bính đứng đầu vinh,
Đời sau con cháu xuất thần đồng.
Không xét Sơn nào Thủy này tiêu,
Hợp được thiên tâm công tạo hóa.

Ngũ tinh nhất quyết không chân thuật,
Thành môn nhất quyết tốt đứng đầu;
Hiểu được Ngũ tinh Thành môn quyết,
Lập trạch an phần đại cát xương.

Đáng cười sao ngu này nhiều mộ,
Chớ đem Quái lệ định âm dương;
Không hướng thân Long xem xuất mạch,
Lại theo Sa Thủy đoán tai tường.

Quân Tùng bảo chiếu chân bí quyết,
Cha con dù thân cũng không nói;
Nếu người gặp được là tiền duyên,
Thiên hạ hoành hành Tiên lục địa.

Thế nhân chỉ thích hay quay vòng,
Không biết Thủy loạn Sơn điên đảo;
Lúc thầy chỉ biết nói Bát Quái,
Lại đem âm dương chia hai cái;

Âm sơn chỉ dụng dương thủy triều,
Âm thủy chỉ dụng dương sơn chiếu.
Tục phu không biết thiên cơ diệu,
Tự đem Sơn Long đảo nghịch sai;

Sao làm loạn làm hại thế nhân,
Phúc chưa tới họa lại tới trước.
Dương nếu không âm định bất thành,
Âm nếu không dương định bất sinh;

Dương thủy Âm sơn đem phối hợp,
Con cháu thiên phủ sớm đăng danh.
Đô thiên đại quái tổng âm dương,
Ngắm thủy xem sơn có chủ trương;

Có biết tình Sơn cùng ý Thủy,
Phối hợp mới có luận âm dương.
Đô thiên bảo chiếu không người có,
Phùng sơn đạp lộ tầm mạch Long;

Phía trước đi tới sơn năm dặm,
Gặp mặt tân chủ giao tiếp nhau;
Muốn tìm phú quý đến khoảnh khắc,
Nhớ lấy Quân Tùng diệu quyết chân.

Thiên có Tam Kỳ Địa Lục Nghi,
Thiên có Cửu tinh Địa Cửu cung;
Thập nhị địa Chi thập thiên Can,
Can thuộc dương còn Chi thuộc âm.

Lúc thầy chuyên luận cái quyết này,
Trước cổng hết lầm người thế gian;
Âm Dương động tĩnh nếu hiểu được,
Phối hợp sinh sôi tìm chỗ diệu.

lesoi
26-09-17, 12:47
5. 3. Hạ
Tầm đắc chân Long Long Hổ phi,
Thủy thành uốn lượn ôm bọc thân.
Phía trước cờ trống mã tương ứng,
Phía sau ly hương mặc cẩm bào.

Chữ Ất thủy triền ở trước huyệt,
Hạ Sa thu khóa huyệt thiên nhiên;
Chính giữa cửu khúc lai triều huyệt,
Thong dong tích tụ đấu lượng tiền.

Hai bờ hướng về nghỉ sau huyệt,
Tất nhiên Long cuộn ở trong thủy;
Nếu có âm thanh số tiền thủy,
Thú quan lên ngựa đến thềm vua.

An phần cần phải xem trung ương,
Rộng ôm Minh đường túi thủy tụ;
Xuất thủy kết thành dạng chữ Huyền (玄),
Hướng đến Loan Phượng múa cát tường;

Ngoài dương khởi nhãn người đều thấy,
Chữ Ất (乙) uốn cong mang trường ngọc;
Lại có trong dương tọa huyệt pháp,
Thần cơ xuất xứ tìm thuốc tiên.

Thủy thẳng hướng đến rất bất tường,
Một nhánh thẳng là một nhánh thương;
Hai nhánh thẳng danh là Sáp Lặc thủy,
Ba nhánh thẳng là Tam Hình thương.

Tứ thủy bắn tới là Tứ Sát,
Bát thủy danh là Bát Sát ương.
Thẳng đến lại đi kéo Đao Sát,
Tay không khách tử thiếu niên vong.

Lúc thầy chỉ nói Hạ Sa nghịch,
Họa đến cực nhanh sao chịu nỗi;
Bờ mương trên đường giống như vậy,
Rất nên dời sữa miễn tai ương.

Hướng đến lại vẫy đầu trước thủy,
Dâm tà hung ác không biết thẹn;
Càn chảy tự là tên Dây Thừng,
Có lo thắt cổ vì công bại.

Bên trái thủy bắn trưởng nam chết,
Bên phải thủy bắn thiếu nam vong;
Thủy thẳng nếu bắn đúng trước mặt,
Trung tử ly hương chết bên đường.

Đông tây nam bắc thủy bắn yểu,
Từng nhà đột tử tuyệt căn mầm;
Nam nữ tham dâm tin đồn xấu,
Cong gù lưng yểu gia tịch mịch.

Bên trái thủy nghịch trưởng nam tuyệt,
Ngỗ nghịch ly hương đều do vậy;
Bên phải thủy nghịch tổn thiếu nam,
Gió thổi phụ nữ theo người đi.

Trước mặt thủy nghịch trung nam gánh,
Đoán định hai nhà có tổn thương;
Trái phải giữa nghịch từng nhà tuyệt,
Phải tránh phần mộ gặp kiếp này.

Nhất thủy quấn đầu tên Đứt thành,
Bên dưới dù phát không là vinh;
Con cháu về sau từng nhà tuyệt,
Thủy đáo Sa thu lại chủ hưng.

Trà tào chi thủy thực kham chịu,
Chớ lấy Ấm Long đồng loạt cầu;
Trước huyệt to áp chân cát thần,
Không thấy vinh mà lại thấy sầu.

Huyền Vũ quấn đầu có nhiều cách,
Không thể lận mà chấp nhất đoán;
Hoặc nghiêng hoặc lệch hoặc chính xuất,
Phải dựa đoạn thẳng đối đường an.

Quấn đầu thẳng đi là Phân Long,
Lấy dấu Long mạch nhà ở đâu;
Đại sơn xuất mạch phân tam khối,
Không hứa chuyên đem nhất lộ cùng.

Sau mộ trạch từng nhà treo cao,
Thái Dương không chiếu đại âm thiên.
Tất chủ nhà này nhiều cô tịch,
Nam cô Nữ quả phải chịu đau.

Tham Vũ Phụ Bật Cự Môn Long,
Phương có đăng sơn cẩn thận nhìn.
Thủy khứ Sơn triều đều có đất,
Bất ly ngũ cát ở bên trong.

Phá Lộc Liêm Văn Long hung ác,
Phần trạch thế nhân chớ tương phùng;
Nếu như ngộ làm âm dương trạch,
Dẫu có kỳ phong vẫn là hung.

Bản Sơn Lai Long lập bản hướng,
Phản ngâm Phục ngâm họa khó đương;
Thắt cổ ly hương xà hổ hại,
Làm tặc lưu đày đến pháp trường;

Hiểu rõ Tam tinh Ngũ cát hướng,
Chuyển họa thành cát đại cát xương.
Long chân huyệt đúng lầm lập hướng,
Âm Dương sai thác hối hận sinh;

Mấy vị bôn tẩu đến triều đình,
Mới đến triều đình vua nỗi giận;
Bởi thầy không hiểu Long hướng nào,
Mộ phần bên dưới cướp Quan tinh.

Tầm Long qua khí tầm ba đoạn,
Phụ Mẫu tổ tông nên phân biệt;
Mạnh sơn cần phải liền Mạnh sơn,
Trọng sơn cần phải tiếp Trọng sơn.

Can chi chẵn lẻ cẩn thận suy,
Lần lượt chiếu định mạch nào tốt;
Nếu như Dương sai cùng Âm thác,
Dù cát Tinh Thần phát không dài.

Một đoạn cát Long một đời phát,
Lại phùng tạp loạn dễ tổn thương.
Trước biết Mạch Long nhận tổ tông,
Lưng con Hạc tất thị chân tung;

Phải biết cát địa được Long dừng,
Lưỡng thủy giao nhau kẹp nhất Long.
Phu phụ đồng hành rõ lộ mạch,
Phải biết Lưu lang tìm chỗ khác.

Bình dương đại thủy thu tiểu thủy,
Không dụng cửa Sa phát phúc lâu,
Thủy khẩu đá như hình nhân vật,
Định xuất kình thiên điều đỉnh thần.

Long nếu đến thẳng không mang mạch,
Chi kiêm can xuất là phúc sơn;
Lập được cát hướng không lầm lỗi,
Thúc Lộc thúc Quan chỉ nửa ngày.

Càn Khôn Cấn Tốn qua mạch lõm,
Liên tiếp đồng hành không lẫn lộn;
Hướng đối thủy Giáp Canh Nhâm Bính,
Con cháu liệt thổ liền phân mao.

Trọng sơn qua mạch không đeo mạch,
Tam đoạn Sơn Thủy cùng đến trước;
Đoán định ba đời xuất quan quý,
Cổ nhân chuẩn nghiệm không hư ngôn.

Phát long nhiều hướng thủ Chi thần,
Nếu là Can thần lại khác nhau;
Chi nếu tải Can là phu phụ,
Can nếu mang Chi là Quỷ Long;

Tý Quý là cát Nhâm Tý hung,
Ba chữ chân giả ở trong đó.
Càn Khôn Cấn Tốn huyệt thiên nhiên,
Thủy đến trước mặt là Chân Long;

Phải biết Chân Long kết Chân Huyệt,
Long Mạch chỉ ở hai ba đoạn;
Ba đoạn không loạn là Chân Long,
Có huyệt tất nhiên là tuyệt diệu.

Nghìn vàng khó mua huyền văn này,
Phúc duyên nếu gặp không nên lộ;
Theo Đồ lập hướng không phân sai,
Vinh hoa phú quý không ngưng nghỉ;

Lúc thầy không hiểu cắm miễn cưỡng,
Dù phát không lâu cũng bại tuyệt.
Một cái Tinh Thần một đoạn Long,
Long đến dài ngắn định khô vinh;

Mạnh Trọng Quý Sơn không tạp loạn,
Số sinh Nhân Long trên số 9;
Số đoạn nhiều lúc phú quý lấu,
Một đời phong quang một đoạn Long.

(Ghi chú: Mạnh là đầu, Trọng là giữa, Quý là cuối)

(hết)
-------------------------------------------

lesoi
26-09-17, 12:51
Lời người dịch:
5 quyển kinh thư ở trên là cấu thành Kham Dư ngũ kinh, tức là 5 quyển sách nói về phong thủy thời xưa.
Ngày nay viết sách tán loạn không thứ tự, giải nghĩa không đúng bản nghĩa. Tự cho là sáng kiến cá nhân, lấy sai truyền bậy.
Vì vậy, tôi nghĩ rằng các bạn khi tham khảo để học xem phong thủy cần hiểu rõ những quyển sách này. Đây là tư liệu từ Trung tâm văn hóa Mao Trạch Đông, bài viết là từ một học giả xem phong thủy ở Bắc Kinh, thuộc giới học thuật có uy tín.