PDA

View Full Version : Phép tầm long điểm huyệt



lesoi
04-10-17, 20:11
PHÉP TẦM LONG ĐIỂM HUYỆT


http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=389&stc=1

I. Bí thuật Tầm Huyệt
Phong thủy Âm trạch tốt xấu, ảnh hưởng trực tiếp đến cát hung họa phúc con người. Làm tốt phong thủy Âm trạch, là một sự kiện trọng đại để tạo phúc cho muôn dân, nhất là việc chọn đất. Tuyển chọn sơn địa hết sức trọng yếu, tuyển chọn mộ địa thích hợp sơn gia, mới tiến hành an táng. Tục ngữ nói: "Phúc nhân đắc phúc địa", đất tốt là chỗ được tổ thượng tích đức hành thiện, cũng chính là nói sơn gia nhận được một khối đất tốt, là âm công tổ thượng của họ.

Thế nào là đất tốt? Là nói:
1, Long mạch vượng, âm dương Long quấn cuộn lấy nhau.
2, Sa Thủy tú mỹ, La Thành đắc cục.
3, Huyệt vị đắc khí, chất đất tốt đẹp.

http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=390&stc=1

lesoi
04-10-17, 20:16
Điểm huyệt trước tiên là làm rõ chỗ tìm huyệt, phàm nơi Chân Long kết huyệt, tất có minh chứng rõ ràng. Ở trước Huyệt thì có Triều sơn tốt, Minh Đường chính, thế thủy vượng, trong cả ba thì Triều sơn là trọng yếu nhất.
+ Trước sơn Huyệt gọi là Triều, lấy cùng với Án hữu tình làm chủ, Triều sơn cao, thì Huyệt dễ cao, Triều sơn thấp, thì Huyệt dễ thấp, Triều sơn gần thì sợ bị xâm áp, Huyệt phải tụ trên cao. Triều sơn thấp, sợ phòng khí tán, thì nên hạ Sa tầm Huyệt.
+ Minh Đường có phân biệt Tiểu Trung Đại, Tiểu Minh đường ở dưới Viên Vựng, nếu thấy ngay ngắn có thể cho phép xê dịch người nằm, mới là Chân Huyệt. Trung Minh đường ở giữa Long Hổ, phải lấy nơi giao nhau. Đại Minh đường ở trước Án sơn, lập huyệt phải hướng chỗ dung tụ thế thủy. Phàm có chỗ Chân Long kết huyệt, tất có nước triều nguyên hợp tụ giao hội. Như hình bên trên là bằng chứng trước Huyệt. Ở sau Huyệt, thế Nhạc sơn phải có Quỷ chống đỡ, Long Hổ có tình củng giáp, ở dưới Huyệt, thần thảm phải bằng phẳng ngay ngắn, ở xung quanh, phải ngăn thủy rõ ràng, như hình ở trên là bằng chứng Chân Long huyệt. Nếu ở đây mà thẩm sát rõ ràng, thì điểm huyệt tất không sai lầm.
+ Về phần huyệt kỵ, chỉ có ở giữa Hình Khí, bởi vì xem đất là lấy hình thế, an táng nhận sinh khí, khí có ở hình, cho nên điểm huyệt tất đầu tiên phải xét hình, thì 15 điều kỵ huyệt tự có thể hiểu được.
Sao gọi là 15 chỗ Huyệt kỵ? Nhớ kĩ các loại:
Thô xấu, nước chảy xiết, đơn hàn, cồng kềnh, lồi lõm, lộ liễu, gầy còm, phá mặt, hư hao, vỡ đầu, phân tán, nhọn đầu, âm u, mềm mại phóng đãng, ngu cứng.
Mà phải nói là, 15 chỗ kỵ đều là hình luận khí, cho nên cần chú ý, Lai Long có phân ra cao sơn và bình địa, phép xem đều khác nhau. Nói chung, bất luận cao sơn hay bình địa, nếu phạm phải một chỗ kỵ, thì là tuyệt địa, dụng sai, nhẹ thì chủ bần tiện, nặng thì nhân đinh tuyệt diệt, họa hoạn trăm điều, tất phải cẩn thận.
Người xưa đúc kết, hàm xưng Tầm Long Huyệt dễ dàng nhưng điểm Huyệt thì khó khăn. Táng Kinh cũng nói: Ba năm tầm Long 10 năm điểm huyệt, lý là chỗ này. Bởi vì tầm Long là cục chưa thành, có thể tuỳ ý tuyển chọn, điểm huyệt là cục đã thành. Một khi đã định, quan hệ đến hưng suy thành bại nhà mình, làm sao không cẩn thận chứ?

Lưu ý:
Hình Huyệt vị ở trên, bởi vì không vẽ được, cho nên không dịch ra tiếng Việt được. Nhưng có thể nói rõ hình ở trên như sau:
Chỗ từ trên đỉnh hình là bắt nguồn từ "祖宗山" Tổ Sơn, rồi đến "主山" Chủ sơn.
Bên trái hình đối diện chủ sơn là Nhập thủ; phần dưới cùng của đồ hình là Triều Sơn (朝山), tiền vào bên trong (từ dưới hình nhìn vào) là Án sơn (案山). Hai bên Án sơn là có Thủy khẩu (水口) nội ngoại.
Ở bên trong cùng có hình tròn nhỏ chính là Huyệt (穴), phía trước Huyệt là Minh Đường (明堂); chỗ gần Huyệt bên trong phía sau có hình móc câu là Long mạch (龙脉).
Các đường viền trong ngoài (là tượng trưng hai dãy núi: Núi bên phải hình là Thanh Long (青龙) nội ngoại và Bạch Hổ (白虎) nội ngoại.

Đại khái là như vậy. Còn ý nghĩa từ ngữ thì đã có chú giải thuật ngữ rồi, các bạn cứ theo đó mà tra tìm ý nghĩa. Nhưng lưu ý là: Thanh Long nhìn từ hình là bên phải, nhưng từ trong Huyệt vị nhìn ra thì ở bên trái Huyệt, còn Bạch Hổ thì cũng vậy, nhìn từ bên trong Huyệt vị nhìn ra thì ở bên phải.

lesoi
04-10-17, 20:17
Về phần Phép Điểm Huyệt, dựa theo ca quyết dưới đây:
Sơn ngẩng Huyệt hẹp điểm chỗ cao,
Bốn mặt bình hòa chỗ thấp lõm,
Sa Cục đều đều làm trung chính,
Bên rộng bên chặc huyệt nên thiên.
Thủy tà Sơn loạn ẩn chỗ lõm,
Nhạc Không hạ ngắn định xoay người,
Có đến có đi tìm kết huyệt,
Sơn cùng Thủy tận hướng lưng tìm.
Bốn đoàn cao bức huyệt dễ nén,
Tìm dọc đường núi là tối nghi,
Xung quanh thấp rộng sợ huyệt lộ.
Chân núi lưu tình giấu kĩ hang,
Trái cao ngập huyệt nên tìm phải,
Phải cao áp huyệt bên trái tìm,
Trước áp huyệt nên dời phía sau.
Sau áp huyệt nên tìm phía trước,
Hoặc gần áp mà mắt tìm xa,
Hoặc bỏ trong mà thu ở ngoài,
Huyệt cần cao mà luận xung quanh.
Hoặc xa thô mà nói ở gần,
Hoặc ngoài hẹp mà bên trong rộng,
Pháp cần thấp giấu mà yêu cầu,
Chỗ lõm tụ bốn bề là Loan,
Nên biết phép xuyên cung giá tiễn,
Nếu nhiều núi thô to tạp loạn,
Phải biết phép Di bộ Hoán Hình. (Bởi vì nói trong thô cầu tú, trong tạp cầu thanh vậy)
Cả hai Sơn Thủy cục đều hiếm có,
Cả hai Quan Lộc pháp phải biết,
Sơn không bằng Thủy lại có tình,
Lộc lúc thành tựu thì thành tựu,
Thủy cũng không bằng Sơn củng tú,
Quan ở lúc đón thì lại gần,
Nếu như tự nhiên Lai mạch đến,
Nghỉ tham triều xuyên mà chuyển lầm (lời này là nói tham triều thì thất huyệt là huyệt bệnh)
Nếu như nước vào như phản cung,
Hỉ được Sa cứu để thâm tàng.
Lớn nhiều nhỏ ít, thủ trong Thất nữ tọa Khuê mà không lộ. Nhiều ít là một đặc thù thủ Hạc lập ở bầy Kê mà tự lẻ loi. Tọa kỵ Không mà không kỵ đoản, ở đây là thường lý, sao có thể chấp nê kết cục Triều xoay mình trở lại, sơn đến thẳng cắt ngang huyệt, đa số phạm chúng kỵ, như chim biết thoát khỏi Long thì quyền cục, Thế nghịch Sa thuận, ai biết ly hương là thủ quý, thủy triều sa ôm phải biết đất này tốt là cứu bần, nhiều mạch loạn xuất ra có ngã đoạn là Chân Long, tam sơn cùng đến ngắm súc tàng là có thể tầm huyệt, sơn thủy biến thái không đồng nhất, bỗng thay đổi khác liền trong gang tấc, thấp là xấu nhưng chợt nhô cao lên là tốt, bên trái là tốt chợt chỗ này bên phải là ngược tú khí ở dưới điểm cao thì sai lầm, tình ý lệch về bên phải cắm vào bên phải thì thua thiệt, đây là lời Thần Tiên truyền chân bí quyết, rõ chỗ này thì điểm huyệt vĩnh viễn không sai.

lesoi
04-10-17, 20:17
Phụ lục 100 pháp tìm Huyệt Âm trạch:
1, Phàm gặp Thạch sơn nên tầm Thổ huyệt, màu sắc đất nơi này giống như hiển lộ màu đỏ vàng, thì nơi này biểu thị khí mạch xung hòa. Ở trên Thạch sơn nếu tìm không thấy thổ huyệt thì không nên cắm vào, như chỗ thấy huyệt thổ có màu sắc là vàng đỏ, thì chỗ này biểu thị trong huyệt có khí mạch xung hòa.
2, Ở trên Thổ sơn lại nên đi tìm Thạch huyệt, như màu thạch là màu trắng tím, biểu thị chất đất này là ôn nhuận. Nếu ở trên Thổ sơn tìm được Thạch huyệt, thì Thạch huyệt nhất định phải hiện rõ màu trắng tía, hơn nữa chất đất ôn nhuận mới là cát, như cứng rắn như hòn đá ngu thì lại là Chủ sơn.
3, Nếu như ở trên Thạch sơn chỉ có Thạch huyệt, thì tất phải cần Thạch huyệt mềm dễ vở khến cho cuốc xuống được thì mới cát. Chỗ nói mềm dễ vỡ cũng có nghĩa là chất đất Thạch huyệt ôn nhuận.
4, Nếu như ở trên Thổ sơn chỉ tìm ra Thổ huyệt, thì tất cần có chất đất tinh túy mạnh mẽ mới tốt. Lúc này chất đất không nên quá trơn sạch.
5, Như tìm thấy Thổ huyệt, thì yêu cầu đường vân chất đất chặt chẽ, giống như đất mà không phải là đất, đoạn văn trên ý nói tức là chỗ Thổ huyệt tinh túy mạnh mẽ.
6, Nếu như tìm thấy Thạch huyệt, thì yêu màu sắc chất đá rực rỡ, giống như đá mà không phải là đá, tức là nói giải thích chỗ đoạn văn ở trên là Thạch huyệt phải mềm dễ vỡ.

(còn tiếp)

lesoi
06-10-17, 11:22
7, Ở trên Thổ sơn tìm Thạch huyệt, tức là ý nói bên trong cứng ngoài mềm. Ở trên Thạch sơn tìm Thổ huyệt, tức là ý nói mềm mà ở gữa giòn dễ vỡ.
8, Ở trên Chi Long nếu như có rất nhiều tảng đá, chẻ ra để xem tất phải cần có đường hoa văn. Chỗ nói Chi Long tức là Thạch huyệt ở trên đất núi, lấy chất đá lộ ra hoa vân rất kỳ dị là quý.
9, Huyệt khẩu ở trong Lũng huyệt, cuốc xuống phía dưới không bị bắn tóe lửa bụi mù. Chỗ nói Lũng Huyệt, là chỉ Thổ huyệt ở trên đá núi. Chất đất nơi đó tất phải mịn màng dễ cuốc xuống, như khối đá phức tạp có tảnh đá ngu, dẫn đến cuốc xuống phía dưới bị tóe lửa bụi mù, thì chủ hung, chỗ nói Bình tiêm, tức là Táng khẩu.
10, Chất đất mộ huyệt ngu cứng, thì không thể tích tụ sinh khí, chất đất phân tán, thì Chân Dương không ở. Bùn đất trong mộ huyệt lấy xung hòa là quý, vừa không nên bị kiên cứng, lại không nên phân tán. Chỗ nói Chân Dương, cũng chính là nói Sinh khí.
11, Ở bộ vị khai huyệt đầu lưỡi Long có thể hơi thấp, nhưng không nên làm tổn thương đến Long thần. Tổn thương đến bộ vị Long thần, thì Mộ huyệt quá thấp kém trái lại là Thất huyệt.
12, Ở bộ vị răng Long có thể cho phép cắm huyệt, nhưng không nên quá gần xương cốt, cắm huyệt gần cốt thì vị trí quá cao, lại làm tổn thương Long.
13, Lúc gặp phải Âm tích giống như xương ngực nhô ra như ngọc thạch, yêu cầu phân rõ Lão nộn và Giao khâm. Gọi là Lão nộn, tức là âm dương, gọi là Giao khâm, tức là giới thủy. Thế đến Âm tích phải giống như xương ngực nhô ra, không thể âm đến âm làm.
14, Đất bình dương thì phải giống như đuôi con chim gáy, phải phân biệt cương nhu và giới hạn. Chỗ nói cương nhu, cũng chính là âm dương, chỗ nói giới hạn, cũng chính là Giao khâm. Chỗ Mộ huyệt đất bình dương phải giống như đuôi con chim gáy, không thể dương đến dương làm. Ở lúc xử lý những tình hình này, thuyết lý vừa phải rõ ràng, cũng vừa phải có nhãn lực. Nói cách khác, rõ ràng là dương nhưng nói là thành âm, rõ ràng là âm nhưng lại nói là thành dương, như vậy mặc dù đọc thuộc bài kinh văn này cũng không có cái gì là bổ ích?
15, Mặc dù biện pháp tìm kiếm cát địa rõ ràng, nhưng cũng không có năng lực loại bỏ mộ huyệt, nếu như có tác dụng sai lầm, thì cũng khó mang đến hòa bình hạnh phúc cho con người, bởi vì trong đó có một chút sai lầm, thì sẽ có sai lầm như cách vạn sơn, một thước một tấc khác nhau, thì có khác biệt nghìn dặm. Chỗ nói loại bỏ và tác dụng ở đây, đều là chỉ Huyệt pháp.
16, Lúc làm Huyệt phát sinh âm dương hút hơi, mang đến họa hoạn bi thảm từ từ khác nhau. Lúc Dương làm tất cần phải mượn khí âm hút một chút, lúc âm làm tất cần phải mượn khí dương hà hơi, đây chính là chỗ nói âm đến dương làm, dương đến âm làm. Nếu dương đến dương nhận, thì họa hoạn mang đến từ từ, lúc âm đến âm nhận, thì họa hoạn đến thê thảm rất nhanh.
17, Nếu như Mộ huyệt thấy rõ dương nhược âm cường, lúc đang làm huyệt thì phải dụng phép chính hồi. Chỗ nói Phu nhược, chính là dương nhược, thì lúc làm huyệt nên dùng phép chính cầu. Chỗ nói Phụ cường, chính là âm cường, thì lúc tác huyệt nên dùng phép chống đỡ, chỗ này là nói mặt chính và mặt bên cạnh của mộ huyệt.

lesoi
06-10-17, 11:22
18, Hình trạng mộ huyệt giống như úp bàn tay hoặc ngửa bàn thay, trong đó thì có phân biệt âm dương. Lúc tác huyệt thì dụng phép minh cầu hoặc ám cầu, trong đó có phân biệt cường nhược. Hình Mộ huyệt giống như úp bàn tay, biểu thị là âm. Hình giống như ngửa bàn tay, thì là dương. Hình Âm là dụng phép Minh cầu, hiển nhiên là cường, hình dương thì dùng phép Ám cầu, dĩ nhiên là nhược. Chỗ nói úp hay ngửa bàn tay, là chỉ hình trạng mộ huyệt. Chỗ nói chính cầu hay chống đỡ, là chỉ phương pháp làm huyệt. Đều là tiếp nhận đoạn văn ở trên mà nói. Về phần chỗ nói là thư thảm hấp hư, cũng không phải là nói ý chỗ nhà Tinh tướng nói là âm long dương hướng, dương long âm hướng.
19, Lúc tương huyệt thì trước tiên phải dùng Đảo Trượng pháp định hạ vị thứ mộ huyệt, lại dùng Thụ can pháp định kỳ tọa hướng. Lúc Tương huyệt thì trước tiên phải xem khí mạch âm dương cường nhược, dùng Đảo Trượng pháp định hạ vị thứ mộ huyệt. Lại theo chỗ chỉ đảo trượng, dựng thẳng cây gậy, phân ra Tọa và Hướng.
20, Ba phần nước chảy trong tam hợp từ hai bên mộ huyệt, phản ánh ra ý nghĩa Thừa kim của Huyệt thổ, từ trong hai mãnh hai cánh bên của nước chảy, có thể quan sát đến tình hình Tướng thủy Ấn mộc. Thừa kim, Tướng thủy, Huyệt thổ, Ấn mộc là 4 loại Huyệt pháp, Quách Phác có ghi lại ở trong 《 Táng kinh 》, phải từ ba phần tam hợp và hai mãnh hai cánh bên dòng nước chảy bên cạnh huyệt mà truy tìm.
21, Khí mạch mộ huyệt thì giống như đường đi trong tro bụi, phảng phất mờ mịt khó biện. Khí mạch Mộ huyệt thật là khó tìm, tất cần phải có pháp nhãn tinh tường quan sát mới có thể phát hiện, sao có thể nói lỗ mãng tòng sự.
22, Mộ huyệt có thích nghi tả thừa, có thích nghi hữu tiếp, thiết kỵ tính sai, hiện ra tình trạng như toa xe phủ đầu. Mộ huyệt có thích nghi tả thừa, tức là dụng phép Thừa kim, có thích nghi hữu tiếp, tức là dụng phép Ấn mộc. Dụng hữu tiếp, hoặc ứng với hữu tiếp mà lại dùng tả thừa, chính là toa xe phủ đầu.
23, Lúc Mộ huyệt lộ ra hình trạng Hậu súc Tiền thân, thiết kỵ dùng cái trâm cài phụ nữ đục làm tổn thương Long huyệt. Chỗ nói Hậu súc, là chỉ Thôn táng, tức là dụng phép Huyệt thổ. Chỗ nói Tiền thân, là chỉ Thổ táng, tức là dụng phép Tướng thủy. Lúc dụng phép Tướng thủy, nằm ở bộ vị tương thừa Long mộ huyệt, cho nên gọi là Thủy co duỗi. Lú sử dụng hai loại Huyệt pháp này cũng quý ở thích hợp, không thể làm tổn thương Long thất huyệt. Chỗ nói Long huyệt luôn luôn sợ phải hai cái tổn thương này, chính là ám chỉ sợ cái trâm cài phụ nữ đục làm tổn thương.
24, Song mạch Mộ huyệt tốt nhất là luồng đoản mạch, nếu như huyệt tình bất thuận, thì phải tòng quyền biến thông. Song mạch cầu đoản, đây chính là Chính huyệt pháp, nếu như huyệt tình không thích nghi đoản mạch, thì phải tòng quyền biến thông, bất tất cố chấp nói đến luồng đoản mạch.
25, Mạch khí nếu như muốn ai sinh, tất cần phải Chẩm bạc (tựa vào gối mỏng) của mộ huyệt, nếu như huyệt tình không hợp, cũng nên thay đổi phương pháp. Ai sinh tựa vào Chẩm bạc, cũng là Chính huyệt pháp. Nhưng nếu như huyệt tình không thích nghi Chẩm bạc, thì lại cần phải thay đổi phương pháp. Đại để Tướng địa chủ yếu là chuông đồng hồ địa phương chỗ tình ý Tướng mộ huyệt, yêu cầu là tùy lúc vận dụng linh hoạt, không thể quá chấp nê mà làm.
26, Lúc tác huyệt phải quan sát trên dưới Phân Long, Tích Thủy, Tiếp khí trước sau, tình huống Nghênh đường. Bộ vị Phân long thượng bộ, Tích thủy hạ bộ Mộ huyệt, mặt trước Nghênh đường, mặt sau Tiếp khí ứng với việc giúp đỡ bảo hộ, chỗ này là bộ vị không thể đổi ở trong Biến pháp, không thể dời ở trong Tòng quyền.

lesoi
06-10-17, 11:23
27, Yêu cầu trong Huyệt pháp lấy Thiên tâm chữ Thập, cũng không phải là lúc Phu Phụ đồng hành thì không phối chữ Thập (十). Lúc Tác huyệt thì phải định Thiên tâm chữ Thập, đây là trung tâm bốn phía xung quanh. Trong Long pháp cũng có tình huống không phối chữ Thập, tức là ở lúc Phu Phụ âm dương nhị khí đồng hành. Phu Phụ đồng hành nhất lộ thu, Âm Dương bất phối hai bên chảy, thủy phân thập tự chắm cái giá, nếu cũng không phân chỉ Chẩm cầu, chỗ nói chữ Thập cùng chữ thập thiên tâm khác nhau.
28, Nhìn thấy tình huống thủy ôm tiêm viên, rất nhiều người sẽ nhận lầm là giới thổ trước huyệt, nếu như nhìn thấy tình huống khí phân hỗ hoán, mọi người thường luôn lầm là tọa dưới Giao khâm. Lời này là nói lúc gặp khí mạch nhanh chóng nhảy vọt, lưu hành mà không dừng lại, mọi người không có nhìn kĩ lúc quan sát, thì cho là tình huống Tướng thủy ôm tiêm viên, nhận lầm là giới thổ trước huyệt và tọa dưới Giao Khâm, lại không có thấy khí mạch lúc này là phân ra hai bên, trao đổi mà đi về phía trước, đây là chỗ sai lầm rất lớn.
29, Trên dưới hình huyệt giống như Thai Bàn giác, biểu thị Âm đến Dương nhận. Chỗ nói Thai Bàn giác, tức là khí âm.
30, Trước sau hình huyệt tựa như Thiết Thậm thần, nên mạch dương cắm vào âm. Chỗ nói Thiết Thậm thần, tức là mạch dương.
31, Thượng bộ hình huyệt bằng phẳng, hạ bộ đầu nhọn biểu thị Dương nhược, thượng bộ đầu nhọn, hạ bộ bằng phẳng biểu thị Âm cường. Hình trạng bằng phẳng như cái xẻng, biểu thị Dương nhược, hình trạng góc đầu nhọn, ẩn dụ Âm cường, đều lấy hình trạng thượng bộ làm chủ để phân biệt cường nhược.
32, Bởi vì có phân biệt âm dương, mới có Tiền thân Hậu súc khác nhau. Âm huyệt thích nghi Tiền thân, tức là Thổ táng. Dương huyệt thích nghi Hậu súc, tức là Thôn táng.
33, Thông qua xem xét phân tích sống lưng phân thủy Long liệp (bờm long), là phương pháp quan sát mạch khí âm dương. Quan sát tình huống Long mạch ở đồng bằng hoặc là triền núi, là quy định để chọn Huyệt. Chỗ nói Long liệp, là chỉ tình huống khác nhau của mạch đi sống lưng của phân thủy, từ chỗ này có thể nhìn thấy tình huống mạch khí âm dương. Thông qua phân biệt sự khác nhau của Long đồng bằng và Long triền núi, có thể quyết định tình huống chọn huyệt.
34, Ở nơi Cô Dương mặc dù không có phân thủy, chỉ cần huyệt chính là được tiếp mạch mà phân thủy. Chỗ nói đất Cô Dương, là chỉ ở dưới nơi có thủy hợp, nhưng ở trên không có phân thủy. Lúc này, như ở giữa có thể lấy chính huyệt, thì không thể bỏ đi, chỉ cần ở nơi khí mạch đến bồi thổ liên tiếp, cũng hai bên ranh giới hợp hướng thủy chảy đi là được.
35, Chỗ Quả Âm mặc dù không có thủy hợp, nhưng chỉ cần chân Long khí thực, thì có thể thông qua đục khoét tường thành hội khí để bổ cứu. Chỗ nói đất Quả Âm, là chỉ chỗ ở trên có phân thủy, ở dưới không có thủy hợp, nhưng chỉ cần Long khí chân xác, thì không thể vứt đi. Chỉ cần ở trên chỗ mạch khoét đục tường thành quanh thủy, thủy hợp sẽ hội tụ khí, thì có thể bổ cứu. Bởi vì tính quyết định phong thủy Địa lý rất lớn, không thể chỉ dùng lấy trước một biện pháp. Nhưng nếu như không phải là Long chân Huyệt chính, thì cũng sẽ không có chỗ dùng mạnh mẽ, chỗ này thì không thể không biết.

lesoi
06-10-17, 11:23
36, Mộ huyệt lộ rõ Âm Mạch, thì lý nên thấu nhập, cho dù gấp gáp cũng phải tránh phương Sát mà cắm. Như mộ huyệt lộ rõ Dương Long, thì chính nghĩa phải tránh mái hiên (diêm), cho dù tính chất khoan dung cũng phải cần đấu cầu hạ thấp. Chỗ này là nói phép Minh táng Tiền thân hoặc Hậu súc phải lấy chỗ này làm căn cứ.
37, Huyệt tự sinh Quy thì Vĩ cấp, khứ vĩ thì tổn thương Long, chỗ nói Quy Vĩ là âm, mộ huyệt như vậy không nên đến gần.
38, Hình trạng Mộ huyệt giống như con Rùa bị chết mà lưng bằng phẳng, cắm vào thì tổn thương huyệt. Lưng con Rùa là Dương, mộ huyệt không nên quá bằng phẳng.
39, Oa huyệt ( ổ huyệt) vừa nên sâu cũng nên cạn, nhũ huyệt vừa nên thấp vừa nên cao, chỗ này địa sư hoàn toàn dựa vào tâm minh nhãn chuẩn. Oa huyệt thuộc dương, địa thế bằng phẳng nên chôn sâu, nhưng cũng có khi nên chôn cạn. Nhũ huyệt thuộc âm, huyệt âm ứng với tránh Sát nên chôn thấp, cũng có khi nên chôn cao, phải hiểu được thiên cơ bên trong, ở người có đầu óc thông minh mới hiểu được.
40, Âm Long tính cấp, cho nên sẽ không có Huyệt đường Phất đỉnh, Dương mạch tính khoan dung, thì sẽ có mộ cục Xuyên nhĩ. Mộ huyệt nếu như là Âm Long, quyết yếu dùng phép chống đỡ, Dương Mạch mặc dù tính khoan dung, cũng có thể dung phép chống đỡ. Chỗ nói đường cục Xuyên nhĩ, Phất đỉnh, là chỉ trời sinh Tọa Hướng, không phải là do chỗ sức người định đoạt.
41, Nếu như gặp Mộ huyệt vốn dung phép Ỷ Chàng tác huyệt, nếu như Huyệt tình thích nghi phép Cái Niêm tác huyệt, lý ứng với Thấu cấp thì Niêm phiền, hoặc Ai sinh Xuất tử, lấy phù hợp với địa thế thiên nhiên, mà không phiền sức người cưỡng cầu. Có 4 loại phương pháp Tác huyệt là Cái, Niêm, Ỷ, Chàng, bao gồm các phương vị Mộ huyệt là Thượng Trung Hạ Tả Hữu. Nhưng nhìn chung mà nói, đều là phải đem Mạch khí dừng lại. Còn lại Thấu cấp Niêm khoan, Ai sinh Xuất tử, dã đô thị tại chỉ tự thượng tác văn chương. Áp dụng những loại phương pháp này, bản thân Mộ huyệt đều phải phù hợp hình thế thiên nhiên, mà không phiền sức người cưỡng cầu.
42, Ở trên các bộ vị Nguyệt giác, Quy kiên tác huyệt, thông thường đều sẽ từ trong chỗ thiên lệch tìm ra chỗ chính Phàm tác huyệt ở trên bộ vị Nguyệt giác, Quy kiên, huyệt vị đều ở nơi thiên lệch. Nhưng ở trong chỗ thiên lệch cũng sẽ có chỗ chính. Chỗ nói “đều” trong bài văn, là chỉ không hẳn đã hết.
43, Ở lúc tác huyệt trên núi hình tựa như cây trúc cao, giống như cây Thương, phải tìm kiếm chỗ đất bằng phẳng.
44, Nếu như Minh đường kéo dài ra quá dài, thì có thể tìm cách đem Sát khí bỏ vào trong nước. Nhưng nếu như đồng thời gặp phải tình huống thuận cục, thì vẫn phải tác huyệt ở nơi chỗ chính. Nếu như Minh Đường kéo dài ra quá dài, thì sẽ có nước chảy thẳng ngay trước mặt, loại nước chảy này có thể cản trở Sát khí ở trong huyệt. Thì lúc này phải chú ý hai bên tả Thanh Long hữu Bạch Hổ càng phù hợp với huyệt tình xu cát, thì có thể tác huyệt ở sườn ngang bên cạnh, để tiện bỏ đi Sát khí ở trong nước. Nếu lúc vhư vậy thì thuận cục mà chính, không nên tác huyệt theo bề ngang, thì vẫn cần phải tác huyệt ở nơi chính, không cần xem xét Minh đường dài. Làm như vậy, thì người sẽ được nhận phúc chậm hơn.
45, Lúc hình huyệt giống như con rắn, như đào bới ở ngay đầu rắn thì Thần sẽ chết. Lúc hình Huyệt giống như con cua, nếu như tạc huyệt ở ngay vỏ con cua thì sẽ làm tổn thương Vua. Cho nên gặp phải loại tình huống trước, thông thường đều sẽ tác huyệt ở nơi mắt rắn, gặp phải loại tình huống sau, thì cắm ở chỗ 7 tấc. Nhưng nếu như ở trên chữ Vua ở đầu Thần rắn, khí tụ ở trong nước bọt con cua, thì có thể linh hoạt hành quyền, tùy cơ ng biến. Tác huyệt phải lấy tình huống Thần khí tụ chung làm căn cứ.

lesoi
06-10-17, 11:23
46, Lúc đụng phải huyệt tình đặc thù, thì học giả cần phải giỏi về truy nguyên nguồn gốc, thông qua suy xét, xử lý thiện biến, từ đó mới đoạt thần công kỷ xảo.
47, Địa Lý học coi trọng ở một chữ Lý. Nếu như không kể tình huống tọa hướng âm dương mộ huyệt, thì có thể áp dụng biện pháp thủ bản cước định đối với Cáp tiêm. Nếu như không hỏi tình huống âm tác dương tác mộ huyệt tọa một hướng nào đó, thì có thể áp dụng lấy phép Đảo trượng bản cước quan tài định đối với Cáp tiêm hợp với chỗ Giao Khâm để định huyệt.
48, Phải biết chỗ mộ huyệt nông sâu cao thấp, có thể đem đáy huyệt định cùng Qua lý (nơi bằng phẳng bên trong chỗ xoáy). Tức là lấy Nhất hợp Nhị hợp Thủy để định Mộ huyệt nông sâu.
49, Như khí hội ở Hợp Khâm Lũng Nhũ, thì chỗ được mộ huyệt sâu lắng. Còn Chi bì thủy giao ở Thọ đái, thì chỗ định mộ huyệt quá cạn. Chỗ nói Lũng Nhũ, tức là chỉ Long ở đất cao, chỗ nói Chi bì, là chỉ Long ở đồng bằng. Chỗ nói Hợp khâm, Thọ đái, phân biệt là Nhất hợp thủy và Nhị hợp thủy. Chỗ đoạn văn ở trước có nói đáy huyệt nông sâu, lấy Bình (bằng phẳng) bên trong chỗ xoáy (Qua lý) làm chuẩn, ở đây Qua lý lại có phân ra Lũng Nhũ và Chi bì. Chỗ mộ huyệt Lũng Nhũ, như Bình đến Hợp Khâm tức là tính toán tác nơi sâu lắng, còn chỗ mộ huyệt Chi Bì, cho dù là Bình đến Thọ đái, cũng tính toán định là quá cạn.
50, Định độ mộ huyệt nông sâu, thì còn phải xem xét độ sâu của Nhất hợp Nhị hợp thủy. Chỗ nói bỏ đi, tức là chỉ Nhất hợp Nhị hợp thủy, thông thường Mộ huyệt bộ vị hợp thủy không nên quá sâu, cho nên phải xem xét đến điểm này.
51, Mộ huyệt ở nơi cao hoặc nơi thấp mới có thể đón nhận sinh khí, thì phải xem vị trí Thoả Bình táng khẩu ở đâu. Mộ huyệt không có luận định ở chỗ cao hoặc chỗ thấp, đều phải đón sinh khí. Phàm chỗ Huyệt có sinh khí, thì nhất định phải là trời sinh tự nhiên sẽ có Thỏa Bình táng khẩu, cũng chính là nơi đặt quan tài.
52, Nếu như bởi vì tuổi lớn thâm niên, dẫn đến các loại thuật hình trạng ở trên khó phân biệt, thì cần phải khảo cứu tinh tường, không thể hành sự lỗ mãng. Điều này là chỗ đón nhận chỗ đoạn văn ở trên nói đến Bản cước, Cáp Tiêm, Huyệt để, Oa lý, Hợp Khâm, Thọ đái, Tiết khứ, Thỏa Bình khẩu mà luận.
53, Lại có mấy loại tình huống như Long mạch tàng phục dưới đáy nước, cát huyệt giấu ẩn ở trong tảng đá, thì rất khó nhận biết, người bình thường không thể thấy được. Tất cần Phong thủy sư phải là có đạo nhãn, mới có thể nhận biết được Long mạch ở dưới đáy nước và Cát huyệt ở trong đá.
54, Long Huyệt nếu như Thiếp tích Bình đầu, thì có nghĩa là Mạch đoản, phải đem quan tài sáp nhập cắm vào. Như tình hình Mộ huyệt chỗ Hoành Long lộ ra Thiếp Tích, Bình Đầu không thành lập, thì nói rõ chỗ này là Mạch đoản. Cho nên ở lúc hạ quan thì phải cắm vào, để tiện có thể tiếp xúc với khí mạch, cho nên nói hoành đam hoành lạc, không có Long phải hạ xuống có Long.

(Còn tiếp)

lesoi
07-10-17, 08:21
54, Long Huyệt nếu như Thiếp tích Bình đầu, thì có nghĩa là Mạch đoản, phải đem quan tài sáp nhập cắm vào. Như tình hình Mộ huyệt chỗ Hoành Long lộ ra Thiếp Tích, Bình Đầu không thành lập, thì nói rõ chỗ này là Mạch đoản. Cho nên ở lúc hạ quan thì phải cắm vào, để tiện có thể tiếp xúc với khí mạch, cho nên nói hoành đam hoành lạc, không có Long phải hạ xuống có Long.
55, Oa huyệt, Kiềm huyệt nếu như lộ ra tình huống Khởi đỉnh, có nghĩa là do Huyệt khí dài, thì phải dùng phép Niêm quan để hạ quan. Khí mạch ở Oa huyệt, Kiềm huyệt, ở bề mặt Khởi đỉnh mà ra, bề mặt phải chưa có huyệt khí mạch dài, lúc này thì phải dụng phép Niêm khoan mà hạ quan, mà không thể dùng Đấu mạch, cho nên nói trực tống trực bôn, hữu khí phải an vô khí.
56, Lúc khí mạch đi ở trên mặt nước, hiện ra một chữ Thủy tích, dưới đây là nói rõ ràng để phân biệt. Lúc khí mạch dừng lại ở dưới nước, lộ ra là chữ hình nước xoáy, lấy chỗ này mà có thể xác minh xác để phân biệt vị trí Tiểu Minh đường. Khí mạch ở lúc vận hành, sẽ ở mặt nước hình thành một chữ hình trạng, không có chữ này thì không lộ ra mạch rõ ràng. Ở nơi khí mạch dừng lại, ở dưới nước sẽ hợp thành chữ hình nước xoáy, không có loại chữ hình này thì không thể giải thích tình huống Tiểu Minh đường.
57, Nếu như bộ vị Chu Tước ở phía trước huyệt vị trí chính Án sơn, thì có thể thông qua Cục ngưng lại để điều tiết. Chỗ nói Chu Tước, là chỉ Án sơn ở phía trước huyệt. Như vị trí thủ chính Án sơn, có thể thông qua tả hữu cục Long Hổ để thủ dụng.
58, Nếu như bộ vị Huyền Vũ ở phía sau Huyệt có núi quá dài, thì phải tìm kiếm nơi Long mạch hội tụ. Tức là lấy thủy giao dừng khí, chỗ Long mạch dừng lại là nơi huyệt mộ. Là lấy đến bên trái, Huyệt cư ở bờ bên phải, đến bên phải, mộ phần ở bên trái.
59, Sa Thủy đến từ bên trái, chọn mộ huyệt ở bên phải. Sa Thủy đến từ bên phải, mộ huyệt phải chọn ở bên trái. Chổ nói đến, là chỉ hướng Sa thủy đến mà chảy về phía ta. Như tình ý sa thủy mà đến từ bên trái hướng về ta, thì phải lập huyệt ở bên phải để nghênh đón, gọi là Huyệt cư bên phải. Bởi vì sa thủy đến từ bên trái, tất định chúng nó có củng hộ ở đây, cho nên phải đem mộ huyệt định ở bên phải. Tình huống đến từ bên phải cũng giống vậy.
60, Nếu như sa thủy đến từ chính diện, thì đem chọn ở trung tâm phía dưới mộ huyệt. Tình hình nếu như tình ý sa thủy vừa không theo phía bên trái, cũng không theo phía bên phải, mà lộ ra Án sơn đoan củng, thế Long xa xôi, thì gọi là đáo chính trường lai, có thể đem chọn ở trung tâm đúng phía dưới mộ huyệt.
61, Như khí mạch nghịch chuyển, thì phải thủ thuận trong nghịch, như khí mạch chảy ra thuận, thì phải thủ nghịch trong thuận. Chỗ nói thuận nghịch, là chỉ biệt danh của hai chữ Âm Dương. Lấy tam dương mạch mà khởi từ đất là Nghịch, lấy tam âm mạch từ trời giáng xuống là Thuận. Lấy Dương mạch là Nghịch, Âm mạch là Thuận, chỗ thuận nghịch này thì nói cùng chỗ nói thuận nghịch khác là có khác nhau.
62, Ở trong thuận cầu nghịch, thì gọi là Nhiêu Long. Ở trong nghịch thủ thuận, thì gọi là Giảm Hổ. Tức là chỗ nói ở phần trước, Sa Thủy đến từ bên phải, thì chọn huyệt ở bên trái, thì gọi là Thủ Nghịch. Như sa thủy đến từ bên trái, thì chọn huyệt ở bên phải, thì gọi là Thủ Thuận.
63, Như sa thủy đến từ bên trái hướng về phía bên phải, thì lập huyệt ở bên phải lấy Lan Long. Như sa thủy đến từ bên phải hướng về bên trái, thì phải mượn trợ ở bên trái để lập huyệt đến Quan Hổ. Chỗ nói Quan và Lan ở trong bài văn, đều là nói ở bên dưới. Chỗ nói sa đến từ bên trái hạ xuống bên phải, tức là ý bài văn nói huyệt cư ở bên phải. Chỗ nói từ bên phải đến bên trái, tức là ý nói đặt mộ phần ở bên trái.
64, Nếu như môn hộ mộ huyệt ngấm chảy, thì sẽ xuất hiện tình huống khí tán. Tức là nói phương pháp Quan Lan chỗ đoạn văn ở trên là không phù hợp, thì sẽ tạo thành thủy khẩu bao la, khiến cho chân khí thoe đó mà phân tán.
65, Nếu như tường viên mộ huyệt lõm thấp, thì sẽ bị nhận phong hàn. Viên cục Mộ huyệt không đủ chu toàn, tả Thanh Long hữu Bạch Hổ xuất hiện đoạn khuyết, thì ý nghĩa là mộ huyệt sẽ bị gặp phong hàn.
66, Nếu như phải di dời tu bổ viên cục phong thủy khuyết hãm, có thể thông qua biện pháp tổn cao mà ích thấp, tiệt trường mà bổ đoản để tiến hành. Chỉ cần Long chân Huyệt chính, thì có thể thông qua sức người để di dời tu bổ cái chưa đủ cho nó hoàn thiện.
67, Nếu như mộ huyệt chỉ tham triều thủy, thì phải đề phòng có họa hoạn đâm sườn khoét ruột. Mộ huyệt triều thủy vốn là cát địa, nhưng thủy quý uốn khúc hữu tình, như không có sa lan thủy, mà thủy chảy thẳng xiết tung toé, thì chủ hung, sẽ có tai hoạ đâm sườn khoét ruột.
68, Mộ huyệt có núi thấp gần kề là Án sơn chủ cát, như Án sơn quá cao, dẫn đến áp bức chướng mắt, thì chủ hung. Mộ huyệt có án kề gần, là cát huyệt. Nhưng nếu như Án sơn quá cao thì quá áp bức, dẫn đến chướng mắt, thì lại là hung hại.
69, Sử dụng phép Cái để tác huyệt, nên biết thủ cao, nhưng lại kỵ lộ phong, cho nên phía dưới phải tìm bộ vị Thiền Dực (con ve sầu) rõ ràng. Dụng phép Niêm tác Long, không sợ hạ thấp, nhưng sợ thất mạch, thì phải kiểm nghiệm sợi tu hà (râu con Tôm) giới hợp tình hình. Bởi vì huyệt cao kỵ lộ phong, cho nên yêu cầu bộ vị Thiền Dực rõ ràng. Bởi vì Long thấp đề phòng thất mạch, cho nên phải kiểm nghiệm Tu Hà ( râu tôm) giới hợp.
70, Hình huyệt tựa như bàn tay cầm cái xẻng, có thể phân ra huynh đệ tôn ti. Hình trạng Mộ huyệt tựa như bàn tay cầm cái xẻng, phân ra một trước một sau, như thứ tự tôn ti huynh đệ, chỗ này là hình dung đối với tả Thanh Long hữu Bạch Hổ.
71, Phải biết Mộ huyệt chân giả, cần phải xem có phân hợp thủy hay không. Chỗ nói Lâm đầu, tức là ở trên mộ huyệt có phân thủy, chỗ nói Cát cước, là chỉ ở dưới mộ huyệt có hợp thủy, chỗ nói Bào thai, là chỉ mộ huyệt. Chỉ có mộ huyệt ở giữa chỗ phân thủy hợp thủy mới là Chân huyệt, nếu không thì là Giả huyệt.
72, Mộ huyệt nếu như có trạng thái Ngạnh Lũng Đại Phu, chính là chỗ khối đất không có sinh khí đất không kết, chỗ nói Ngạnh Lũng Đại Phu, là chỉ đất không kết không có sinh khí.

lesoi
07-10-17, 08:21
73, Như Long kiên nhuyễn, Long cảnh nhược, thì định huyệt vừa khéo giống như con chuột, giống như chuyển da đợi kỳ hình mượn mạch. Như Long mạch kiên nhuyễn cảnh nhược, có nghĩa là hoạt động có sinh khí, vừa khéo kết huyệt, dẫn đến ẩn giấu bờ sườn, giống như một dạng con chuột, giống như chuyển da mà đợi kỳ hình mượn mạch.
74, Như mạch tình mộ huyệt bất thuận, trước mặt thì không nên tham lam có Triều sơn, phải đề phòng sơn cước đảo giày tháo chạy. Mạch tình toạ dưới Mộ huyệt không đúng, thì không nên tham làm được Triều sơn trước mặt, bởi vì bản thân đã mất huyệt, thì Triều sơn tuy đúng, ở phong cước thuận thủy cũng sẽ thoát chạy, chỉ có không chạy thoát, mới là Chân triều, cho nên nói: Đỉnh tuy tiêm viên khả ái, cước tất chạy thoát mà nhìn lại nó, chính là nói chỗ này.
75, Long mạch đến nghiêng, thì thủ cắm chính huyệt, như Long mạch đến chính, thì thủ huyệt cắm bên sườn. Như Long Mạch đến nghiêng, thì mộ huyệt phải cắm chính mà lấy được lưỡng thủy giao kim làm chỗ dựa. Như Long mạch đến chính, thì mộ huyệt phải cắm nghiêng sườn để nghênh lấy Minh Đường, tình hình loại này là Long chính Huyệt nghiêng, xưng là Phiên thành Hoành khoáng.
76, Mộ huyệt lạc ở Ao Oa ( chỗ lõm), tất cần phải chỗ lõm Bình chính (ngay ngắn, vuông vắn). Chỗ nói Ao (lõm) tức là Oa. Mộ huyệt lạc ở nơi ao oa, thì tất yêu cầu phải chỗ ao bình chính, nếu như không bình chính, thì sẽ giới thủy, không phải là Chân huyệt.
77, Mộ huyệt chỉ cần có Nhũ trường phía trước mặt, nhưng đằng sau lưng đơn độc cũng không ngại. Nếu Mộ huyệt nhũ trường, thì phía đằng sau cũng không ngại. Như mặt sau lưng đơn độc mà nhũ không trường, thì cần phải có Quỷ thác, nếu không thì sẽ thành hình trạng mái ngói ngửa mặt, là hung.
78, Long mạch ngộ Quỷ, nếu như có thể Hoàn khí lại là Thần kỳ. Long mạch ngộ quỷ sẽ đoạt khí mộ huyệt, nhưng nếu như Quỷ này có thể ở phía sau ngăn cản được gió thổi đến, ở phía dưới nước chảy bế tắc, thì lại thành dụng thần mộ huyệt, lại là hết sức đặc biệt.
79, Mộ huyệt gặp Kiếp nhưng có tình, thì phản hung thành cát. Mộ huyệt gặp nhưng vốn là sẽ chia đi Long khí, nhưng Kiếp này nếu như có tình bảo vệ Chủ sơn, lại là điềm cát. Long ngộ Quỷ Kiếp, vốn là điềm hung, cho nên không phải là chỗ hỉ con người, nhưng nếu như có thể có tình hoàn khí, tự kết Viên cục, thì môn hộ cũng kỳ diệu, sẽ phản hung thành cát mà khả dụng.
80, Tác huyệt thì phải Hậu tuần mạch khí, không làm cho khí mạch giống như sợi tơ rời kim đứt đoạn, lại cần phải tiếp khí tiền đường, không làm cho Huyệt tình và Đường tình giống như vợ chồng bất hoà thì trờ thành nghịch. Nguyên tắc căn bản khi Tác huyệt, là phải Nội tiếp sinh khí trong Huyệt, Ngoại tiếp sinh khí Minh Đường. Muốn Nội tiếp sinh khí trong huyệt, thì phải nhận Mạch đến từ phía sau, mà không thể cùng lai mạch nghịch đấu hoặc thoát ly, thì giống như sợi tơ xỏ kim không thể thoát ly. Muốn Ngoại tiếp khí mạch Minh đường, thì phải làm cho Huyệt tình cùng Đường tình tương ứng, giống như một dạng vợ chồng theo nhau, không thể như vợ chồng bất hoà, thì là chủ hung.
81, Chuyển từ Long mạch tình huống đến biến thành đi có thể nhìn thấy hình trạng Loan khúc của nó, lấy đến tình âm dương, có thể nhìn thấy Huyệt tình cao thấp. Long mạch Mộ huyệt là làm sao uốn khúc đến Huyệt, phải cẩn thận tìm kiếm chỗ đi của nó chuyển biến thì biết, thông qua giải thích đến tình âm dương, thì Huyệt tình cao thấp cũng có thể định ra.
82, Mộ huyệt lộ ra hình trạng người đang ngũ ở trong nước, thì phải chú ý không để cho Khâm cư nơi ẩm thấp. Chổ nói ngồi trong nước, là chỉ ở trong Oa huyệt có bọt nhũ nước nhô lên. Như không có bọt nhũ nước nhô lên, thì gọi là ngũ trong nước. Loại này nên phân biệt, thích hợp dùng Oa pháp ở Kim tinh khai thủy. Như mộ huyệt sau khi mở ra không có bọt nhũ nước nhô lên, coi như là La Huyền tác huyệt, gọi là Tàng Đầu tác khí, không như vậy, thì có thể là ẩm thấp.
83, Huyệt cao phải là Vi Oa, giống như ở giữa bức tường có treo sẵn đèn tường, nhưng chớ làm cho tấm đẹm nghiêng đổ dầu ra. Phàm là huyệt cao tất phải có Vi Oa, lấy ở trong dương phải có Thiếu Âm, nếu không thì là Thuần Dương mà sẽ ẩm thấp. Nếu như là trong âm thì phải có Thiếu Dương, Thuần Âm thì sẽ nghiêng đổ dầu. Đạo lý của Địa lý học là thường luôn nhấn mạnh nhắc đến trong âm phải có dương, trong dương có âm mà thôi, sẽ không có nói khác.
84, Mạch hành mà giới thủy không chảy, là chân cơ của Mạch pháp. Chỗ nói nước chảy, là ẩn dụ Mạch đi, chỗ nói nước không chảy, là chỉ hai ranh giới nước không chảy qua trước mặt Hợp Khâm. Loại này Mạch đi không dừng, là thấy được chân cơ của Mạch đi.

lesoi
07-10-17, 08:22
85, Nhìn thấy tình huống chỉ có thủy qua sơn, là biểu thị chỗ diệu kỳ của Huyệt tình. Chỗ nói thủy đi qua, là chỉ hai dòng nước giao qua Hợp Khâm, chỗ nói không qua sơn, là chỉ mạch là giới thủy dừng lại không đi. Phải hiểu chỗ được xứ diệu kỳ của Huyệt tình chính là chỗ này.
86, Hình miệng Sa giống như mũi thương nhọn, ở lúc nghịch thủy thì là có lực, ở lúc thuận lưu thì là vô tình.
87, Miệng Sa thuận thủy chảy qua huyệt vị thì toán là hung, như lộ ra Tiêm Sát tàng phong thì lại là cát. Miệng Sa thuận thủy, không thể hoàn toàn nhìn vào xem là vô tình, chúng nó hoặc là vòng thành lan nước chảy xung bắn mộ huyệt, hoặc là ôm ngang qua thân lại thành Án sơn, lại có thể tàng phong mà không lộ ra Tiêm Sát, thì không chủ hung, trái lại giống như một loại văn bút thì chủ cát. Chỗ nói qua thân, là chỉ không lấy thuận thủy là sợ.
88, Mộ huyệt chỉ có ở dưới tình huống Long chân Huyệt đích, mới có thể thảo luận vấn đề tinh kỳ là màu đất. Tướng địa lấy được Long Huyệt chân chính là sự tình rất trọng yếu, như mộ huyệt không phải là Long Huyệt chân chính, cho dù màu đất tinh kỳ cũng không có gì là ích lợi, cho nên nói màu đất là sự tình thứ yếu.
89, Nếu mộ huyệt lộ ra Đường sai Sa lỗi, vậy thì bất tất phải xem Huyệt tình. Tình hình Đường Sa như thế nào, có thể làm bằng chứng là mộ huyệt chân chính hay không, nếu như lại sai lầm, thì có thể biết là không có chân huyệt, càng thêm hà tất phải nói đến màu đất tốt xấu.
90, Thảo luận thủy lưu sinh vượng, đối với Long Huyệt mà nói chỉ luận nước chảy hai bên trái phải uốn khúc vòng quanh hữu tình.
91, Mộ huyệt nếu là Chân huyệt, tất định là thiên nhiên sinh thành, bản cước tất là tai đối với Cáp Tiêm.
92, Lúc Thế Long thuận lưu, cắm huyệt phải cùng thủy ngang nhau, Đường Cục cũng phải quan tỏa (khoá cửa), lấy chân khí Long mạch kiên cố. Như lúc Thế Long nghịch hướng thì mộ huyệt phải làm phần cao, cùng hợp với tả Thanh Long hữu Bạch Hổ mở ra, để dung nạp có tình. Lúc Thế Long kết thuận, cắm huyệt không thể quá cao, cùng thủy ngang nhau là được. Nhưng nếu Đường Cục trước mặt mộ huyệt vẫn quan tỏa chu mật, khiến cho chân khí trở lại mà không phân tán, lúc này thì tối kỵ mở ra. Trái lại, như Thế Long kết nghịch, Sa Thủy triều đến, thì phải nên khởi dựng mộ cao, cũng làm cho Thanh Long Bạch Hổ mở ra, để thu nạp có tình, lúc này lại sợ phía trước chật hẹp.
93, Sa Thủy Mộ huyệt cùng với con người là đồng hữu, không như chỉ vì ta chỉ có một. Phàm là một mình có đủ hưởng dụng Sa Thủy, mà không cùng người khác cùng chung mộ huyệt, mới là Chân huyệt.
94, Sau lưng Mộ huyệt cuộn không, hình giống như mái ngói ngửa mặt, thì nguyên nhân thất bại đền từ trên trời.
95, Trước mặt mộ huyệt lộ ra trái nghịch, hình thái bay xéo qua, thì sinh khí cũng sẽ bay phân tán. Như bên trong mộ huyệt có chân khí, thì tự nhiên sẽ có sa thủy bão hộ. Như sa thủy vừa phản lại tà, thì có nghĩa là sinh khí bay phân tán.
96, Ở dưới tình huống Tinh thần không có hóa khí, có thể tác huyệt hay không, hoàn toàn dựa vào có Tinh thần dung kết. Như chỗ đoạn văn ở trên nói, mộ huyệt nếu như lộ ra trạng thái Ngạnh Lũng đại phu, là biểu hiện không có hóa khí. Nếu như lúc này có Tinh thần dung kết, thì có thể tiến hành cắt xén, tìm đến nơi tác huyệt. Nhưng nếu thiếu khuyết Tinh thần, thì không có bằng chứng tác huyệt.
97, Tác dụng mộ huyệt phải có thần công, thì phải có thủ đoạn cắt xén, mới có thể biến hung thành cát, điểm thiết thành kim. Điểm huyệt nếu như có thủ đoạn cắt xén, mới có thể có tác dụng đắc pháp, liền có thể biến hung thành cát, điểm thiết thành kim, chỗ này không phải là thần công sao? Chỗ nói thủ đoạn, là chỉ chỗ nói loại Thu sơn, Xuất sát, Khí tử, Ai sinh, Tiếp khí, Nghênh đường, biết dừng tụ, nhận tính tình ở đoạn văn nói trên. Tính huyệt có rất nhiều, nhưng thường là luôn chỉ có tính hình, mà không có tính chủ. Cát Long cũng là khắp nơi đều có, nhưng cho dù có đất tốt, cũng không có người tốt. Cho nên, mộ địa tốt thường luôn tồn tại con người thế gian, nhưng nếu địa sư tốt lại rất khó gặp đến tri kỷ. Có thể hay không đem kỹ thuật của mình bán cho người khác, đầu tiên là phải xem người đó có hay không có đức hạnh, nếu không, e rằng sợ phải có khả năng là người tài giỏi lại không được trọng dụng.
98, Trong đại tìm tiểu, trong tiểu tìm đại, ở trong sơn mạch to lớn tinh hoa kết huyệt của nó thì ở trong nhỏ bé, trái lại, toàn bộ Long mạch là nhỏ bé thì phải tìm đến nơi kết huyệt lớn nhất!
99, Thập đại lấy tiểu làm tôn, ở xung quanh bốn phía đất phong thủy đều là đỉnh núi lớn thì phải tìm kiếm tinh thể nhỏ nhất, ở trong chỗ tinh thể nhỏ nhất là chỗ tinh hoa nhất! Nó giống như một ngón tay của con người mặc dù ngòn tay rất nhỏ, nhưng mà nhẹ nhàng gõ đến thì đau đến chết người!
100, Thập tiểu là lấy đại quý, dưới tiền đề tinh sao xung quanh đều là rất nhỏ bé, chúng ta tất cần phải tìm kiếm đến chủ tinh sao lớn hơn một chút so với những tinh sao này, đại tinh sao này chính là chủ kết, nó giống như con ong chúa ở bên trong đàn ong mật nó có thể khống chế toàn bộ ong mật, đại tinh đầu này cũng chính là chủ soái của những tinh thể nhỏ này, tìm đến chủ soái kết tinh chính là cơ cấu quyền uy tối cao nhất!

lesoi
07-10-17, 08:22
II. Chân quyết Điểm Huyệt tầm Long

Sơn mạch, ở trong Địa lý gọi chung là Long, sơn mạch đi từ cao đến thấp, hình thành thế đi, như Rồng bay Phượng múa, Long bàn Hổ cứ. Sơn mạch có thủy hộ nhau, từ khe núi xếp thành sông biển. Có sơn có thủy, thì sơn thanh thủy tú, sinh động, Long nhờ thủy mà dừng lại, Long dừng thì Khí tụ, có linh khí, nếu ở nơi này, ngày sau tất nhiên khởi sinh phong thủy. Cần phải tìm kiếm nơi này thì chính là Tầm Long, còn gọi là bảo địa phong thủy, nhưng phải có bí quyết.
Tầm Long, bước thứ nhất, đầu tiên là xem Thái Tổ sơn, phải chăng là Liêm Trinh làm tổ, độc bá một phương. Sau đó lại xem Thiếu Tổ sơn, Phụ Mẫu sơn, xem Long xuất thân và bác hoán, hành tẩu, phải chăng là mở màn trùng điệp, Xuyên điền Quá hạp, lại xem Nhập thủ, lưỡng sa giao hội có tình hay không, Long có âm dương giao phối, hóa khí kết huyệt hay không, đây chính là một quá trình Tầm Long.

1, Thái Tổ sơn: Tức là Tổ tông sơn Long, tức là đất khởi nguồn. Tổ sơn đứng sừng sững ở trong bầy quần lĩnh vạn sơn, cao lớn hung vĩ, chọc thẳng vào trong mây trên bầu trời, mây mù mây tía ôm lấy mưa, tú lệ hung tráng, có Long lâu, Phượng các, Thiên trì, Thiên thê, hộ vệ. Vật cát tường ở trong đám mây mù chợt ẩn chợt hiện, đạt đến chân núi trông về nơi xa như bước vào cảnh thần tiên, khiến cho con người vui tươi thanh thản.
Tác dụng tìm Thái Tổ sơn:
(1), Có phải là Liêm Trinh làm tổ. Cao lớn.
(2), Xem Thái Tổ sơn quý tiện, có thể biết hiệu ứng khí thế cùng phúc lộc của Long.

2, Thiếu Tổ sơn: Đi theo Thái Tổ sơn, thuận theo sơn mạch mà đi, nhấp nhô lên xuống, uốn khúc quanh co, hoặc nhỏ hoặc lớn, hình giống như rắn bò đi, có lúc, đột nhiên biến nhỏ, lại biến lớn, có lúc đột nhiên gồ lên như một hình cầu mà còn có hai bên sơn mạch hộ tống, hành trình hình trạng dần dần từ hẹp biến rộng, từ rộng biến hẹp, bỗng đột nhiên nhô cao lưu luyến núi đại sơn, chính là chỗ gọi Thiếu Tổ sơn.

3, Phụ Mẫu sơn: Đi theo Thái Tổ sơn cưỡi gió mà đi xuống, không ngừng trải qua liên tục nhấp nhô lên xuống, bỗng chốc hạ xuống, đi đến chỗ gần kết làm chỗ lại tạo nên đỉnh núi, như con Hạc đứng ở trong dãy núi cao vút, đây là Thiếu Tổ, từ đây một mạch mà đi lại trải qua không ít lên xuống, tả hữu bàn Long, kết huyệt thẳng đến đỉnh Huyền Vũ ở sau một đoạn Tinh phong là Phụ Mẫu sơn, chỗ rơi mạch ở dưới Phụ Mẫu sơn có bọt nước chính là Thai Tức, sau khi trói khí lại khởi Tinh diện, thì đỉnh kết huyệt gọi là Dựng (có thai), nơi kết huyệt gọi là Dục (sinh đẻ). Bên trên là nói Tổ tông sơn, Thiếu Tổ sơn, Phụ Mẫu sơn, Thai Tức, Dựng, Dục của sơn mạch. quan hệ một mạch truyền là thành Huyệt. Xưa nói: "Thai dục Dựng dục, biến hóa vô cùng", "Vạn lý sơn đều khởi từ Tổ tông, mà tất phải trải qua Phụ Mẫu, mới có thể Thai tức Dựng dục, sau đó mới thành hình, để nhận hình thủ huyệt, biết rõ chỗ cha sinh, chỗ mẹ dưỡng.

lesoi
07-10-17, 08:26
4, Xuất thân Long: Cũng cùng con người giống nhau, có phân ra phú quý bần tiện, hung ác thiện lương, gian tà hại nước hại dân, chính trực thiện lương, thiên hạ được phúc. Đặc trưng Long thiện lương phú quý là tiền hô hậu ủng, sinh động hoạt bát, nỗi lên linh khí, vui tươi thanh thản. Đặc trưng Long hung ác là đá to lởm chởm, cây cối rất hiếm, tả băng hữu khuyết, thân đầy bén nhọn, hung khí áp người, hàn khí áp người, sát khí đằng đằng, xung quanh vô tình. Đặc trưng Long bần tiện là: Cứng nhọn, lười nhác, rời rạc. Vô tinh vô trướng.

5, Bác Hoán Long: Bác hoán chính là biến hóa, vô cùng vô tận, có tốt biến xấu, cũng có xấu biến tốt, Long biến hóa, là sơn thủy tuân theo Nhật Nguyệt tinh hoa ở trời đất mà diễn biến. Ở giữa sự Huyền diệu, cát tiết họa phúc. Cơ ứng nghiệm, "Nhất Bác nhất Hoán lớn sinh nhỏ, từ lớn bác nhỏ tối kỳ dị, Bác Hoán thoái lui kiến Chân Long, tiểu sơn như cũ Lang tinh khởi. Bác hoán như người đổi hảo trang, như ve lột xác tầm thoát y."
* Phép Bác Hoán có 3 loại như sau:
1, Thuyết ngũ hành:
(1) Dương giúp Âm dục, tức là Dương (kim mộc hỏa) bác biến (thủy thổ);
(2) Âm mượn Dương sinh, tức là Âm (thủy thổ) bác biến (kim mộc hỏa).
2, Thuyết Thể sơn:
(1) Thoái cởi Bác (lột bỏ) Hoán (đổi) thô biến nhỏ, hung tinh biến cát tinh;
(2) Lão Long bác hoán sinh cành non giảm đoạn không sợ nhiều;
(3) Từ lớn bác nhỏ tối kỳ dị, bác hoán thoái cởi thấy Chân Long.
3, Thuyết Cửu Tinh: Cổ nhân nói: "Phàm xem một Tinh dễ xem biến, nhận biết biến Tinh biết xa gần, từ xa Tham Lang đến Phá Quân, hoán tận Long lâu sinh Bảo điện, một bác một biến hình khác nhau, sao có nói hết nhìn Tổ tông, nếu anh nhận biết Biến Tinh pháp, nghìn dặm tram dặm tầm Lai Long" .
(1) Tham, Cự, Phụ, Bật là Cát tinh;
(2) Văn, Liêm, Lộc, Phá là Hung tinh.

lesoi
07-10-17, 08:27
6, Khai trướng: Lai Long khai trướng, hình giống như cái lều bạc, phân rõ hai bên, rộng có hơn 10 dặm, hoặc 5, 6 dặm, hẹp có 1, 2 dặm, là một chứng cứ trọng yếu để kiểm nghiệm kết huyệt. Lấy khai tâm xuyên trướng là quý, khai trướng mà xuất ra rất có lực, nhị tinh kim mộc khai trướng là Thượng cát, thủy tinh khai trướng là thứ, xuất từ ở giữa là Thượng, xuất từ hai bên là thứ, đá lớn bên hải là Thiên Quan, bên trái là Địa Trục, hình tựa như Rùa Rắn, các cách Xuyến châu Ấn kiếm càng hay. Còn có khai trướng xuyên tâm phải khởi từ bên cạnh, mà cuối vai giống như Cung sảo, phô ngang xa rộng, bao bọc hữu tình cũng là cát.
Các loại Khai trướng có mấy loại là: Thập tự Trướng hình, Đinh tự trướng hình, Xuất Trướng quý nhân, Nhập Trướng quý nhân.

7, Quá Hạp (cái eo): Giống như cổ họng con người, là nơi nhỏ nhất, là nơi chân khí Long tụ tiết, cho nên thầy phong thủy biện luận Quá Hạp là hết sức trọng yếu. Hạp cùng có phân ra cát hung, lưng đàn Hạc là tối quý, kỵ gió thổi, thủy kiếp, cho nên Chân Long quá hạp tất phải có Nghênh (đón) có Tống (đưa), có Giang (gánh) có Giáp (kẹp), hộ vệ chu mật, phân thủy rõ ràng, miễn tránh gió thổi thủy cướp. Như dưới đây là mấy loại tình hình xét Hạp định Huyệt:
(1), Hạp chính xuất, thì huyệt cùng chính, xuất bên trái, thì huyệt ở bên trái, xuất bên phải thì huyệt ở bên phải.
(2), Chính xuất quá nghiêng, thì huyệt cũng chính xuất mà đảo nghiêng, xuất từ bên sườn mà quá chính, thì huyệt cũng xuất từ bên sườn mà đảo chính.
(3), Xuất mạch thấu đỉnh, thì huyệt cư ở dưới chân, xuất mạch dưới chân, thì huyệt cư ở trên đỉnh.
(4), Sơn hộ, huyệt kết ở cụm núi, Thủy hộ, huyệt kết ở bên thủy.
(5), Bỏ núi nhỏ mà không có nghênh đón, khí mang muốn hạ, kết huyệt ở chỗ gần, bỏ núi lớn có nghênh đón, khí chính phát thì huyệt tất kết ở chỗ xa.
(6), Trong Hạp sa bên trái ngắn, thì trước huyệt sa bên trái tất đến trước, trong Hạp sa bên phải ngắn, thì trước huyệt sa bên phải tất đến trước. Các loại Hạp có rất nhiều, có Dương hạp, Âm hạp, Khúc hạp, Trực hạp, Trường hạp, Đoản hạp, Khoát hạp, …

lesoi
07-10-17, 09:16
8, Nhập thủ Long:
Là xem Long quý tiện, bất tất phải xem từ nơi rất xa, lại không nên xem từ nơi Thái Tổ, đó chỉ là thứ yếu, chủ yếu hơi là nhập thủ từ sau 2, 3 đoạn, bên trong 4, 5 đoạn, hoặc đến Thiếu Tổ sơn đoạn này có cự ly trọng yếu nhất, Hảo Long tất cần phải gần Huyệt, chỗ nói Lai Long xem chỗ chấm dứt, chính là đạo lý này. Nhập thủ Lai Long, có Long lai xa thì không được tốt, phải đem lúc nhập thủ gần huyệt thì bác biến thành Hảo Long, là cát địa, nhưng có niên đại lâu, khí vận hành đến chỗ phía sau giảm đoạn, khí Long không tiếp nhận là bại, lại còn có Long lai ở xa vẫn tốt, ở lúc nhập thủ gần huyệt thì biến xấu, chủ hung, không thể hạ táng. Thường thấy cách thức Long nhập thủ có 5 loại, ở ngày sau trong lúc thao tác, tất nhiên cẩn thận quan sát thẩm định, mới có thể tạo phúc cho muôn dân.
(1), Trực Long nhân thủ cách, cách này là tối cát, Long từ phía sau nhập thủ, đỉnh đối diện với lai mạch, mà kết huyệt, loại này đụng bối Long kết huyệt phát phúc rất nhanh, loại cách thức này khí thế to lớn, tất có dư khí làm đệm thần.
(2), Hoành Long nhập thủ cách, mạch đi ngang nhập thủ mà kết huyệt, hoặc đến từ bên trái, hoặc đến từ bên phải, nhưng nhất định phía sau huyệt phải có Lạc tinh, có Quỷ vĩ, mới là Chân huyệt.
(3), Phi Long nhập thủ cách, tức là ngẩng mặt hội tụ ở trên cao mà kết huyệt, xu thế cao mà ngẩng đầu, cho nên viết là "Phi Long", tất phải có bốn bề đều cao, thẳng đứng tụ ở trên, thế ngửa mặt nhận huyệt, mới là chân kết, huyệt này có lực lượng rất lớn là quý trọng phú khinh, chủ yếu là thủy đến không tụ, là Thiên Hoa cục, Sa bay Thủy chạy, nhưng hai Sa tất phải giao khớp quan tỏa.
(4), Du Long nhập thủ cách, Long khí xòe ra rơi vào đất bằng mà kết huyệt, gọi là Tiềm Long, tất cần phải bằng mà có lõm, hoặc có mở khẩu, thế thủy vờn quanh, mới là chân kết.
(5), Hồi Long nhập thủ cách, lật mình lại nhìn về tổ sơn mà kết huyệt, gọi là Hồi Long, Kinh nói: "Uyển chuyển Hồi Long tựa móc câu, chưa tác kết huyệt trước tác triều, Triều sơn đều là Tông và Tổ, không chấp mười dặm xa vạn dặm." Ngoài ra còn có các cách Đại Hồi Long, Tiểu Hồi Long, cùng Bàn Long Không.

lesoi
07-10-17, 09:16
9, Nhập Thủ Long quý tiện (Bí quyết Dương Công)
Hợi Long thụ huyệt gọi Tam Công,
Tử tôn phú quý thọ tiên ông.
Nhâm Quý thủy Long xưng Thiên Phụ,
Vũ tướng gia đình nhiều phúc lộc.
Tử Long cao khởi Khảm khí thanh,
Định xuất cao quan người học vấn.
Sửu Long song hành thêm chân Cấn,
Nam nữ đa ứng hưởng gia phong.
Cấn Long Thiên Lộc hiếu nghĩa môn,
Cục có tài phong tước vương hào.
Giáp Dần Hành Long nếu nhận huyệt,
Chứng bệnh khất tàn bệnh lao chết.
Mão Long hướng Canh Sa Thủy Canh,
Vũ tướng tinh kỳ chiếu Trung Hoa.
Ất Long Tài tinh Tài tiếp mộc,
Khó tránh hoán dưỡng làm con nuôi.
Thìn sơn yểu vong trộm tống nhi,
Cục tiễn vào Oa nhân đinh hiếm.
Tốn Long làm quan đến Thượng thư,
Nữ vinh Nam quý khánh hữu dư.
Tị Long Thiên Tài phong tài bạch,
Cũng chủ phú quý hào anh kiệt.
Bính chủ ưu du tài có dư,
Cục tiễn thanh quý hào danh dự.
Ngọ Long chậm chạp nhảy cao quý,
Thìn Tuất Hợi chiếu hại hình khắc.
Đinh Long nam cực người khéo thọ,
Không nhiễm Mùi khí vinh hoa sớm.
Mùi ai đinh hành nên hướng Cấn,
Huyệt ai tả vị người quý hiển.
Khôn Long cục mỹ phú cũng đến,
Còn không tương làm tăng ni.
Thân long huyệt tọa Canh kim tinh,
Vi ai Lão Âm tài đinh thịnh.
Canh Long địa lộc chủ uy phong,
Cục có Tướng quân đảm khí hùng.
Dậu Long thanh hương ít bình thản,
Văn chương khoa giáp điểm huyện châu.
Tân là Thiên Tiết chủ trung hiếu,
Không nhiễm Tuất khí đăng giáp khoa.
Tuất Không cô dâm người xấu tật,
Cục mỹ dần phú sau bình bình.
Càn Long cô quả thiếu sinh dưỡng,
Cục mỹ nhiễm khác cũng danh thành.
Hợi Cấn Tốn Tân Mão Long chí,
Mẹ con phức tạp là nhiễm khí.
Hợi Càn bình phân là Hành Long,
Càn Hợi rút bỏ nên cân nhắc.
Hợi đa Càn thiếu kham cắm táng,
Càn đa Hợi thiếu không thể làm.
Càn Hợi nhổ đỉnh nên lạc phải,
Hợi Nhâm nhổ đỉnh nên lạc trái.
Bản này một điểm làm ví dụ,
Sửu Cấn Dần Long cũng thuận suy.
Cấn Long lạc Sửu là nửa cát,
Trục Cấn đỉnh Dần sinh phong tật.
Ngọ Bính tạp lai hồi lộc họa,
Thìn Tốn cùng lạc hại nữ nam.
Đinh tạp Ngọ Mùi gia linh tẩu,
Chân Long phú quý tùy ngụy lai.
Chân lạc chân mạch là thông đạt,
Nhưng sợ trên tình có hưng suy.
Thẩm Long chân ngụy định chủ Huyệt,
Đón khí thu vào có huyền cơ.
Nếu như hiểu được thiên cơ bí,
Đuổi kịp Tiên sư cùng thế hệ.

lesoi
08-10-17, 15:30
10, Phân biệt Tinh Thể rất trọng yếu:
Nó là một môn tri thức để phân biệt Tinh phong cát hung như thế nào. Là môn học không thể thiếu ở trong phong thủy, Long tốt xấu là quyết định ở thân, thân cát hung thì tìm ở Tinh, chưa nhập sơn, đầu tiên nhìn thấy là Tinh phong, Tiêm, Viên, Phương, Tú là Cát, Phá, Toái, Y, Nhược, Cốt lộ là Hung.
(1), Ngũ tinh, tức là dụng kim, thủy, thủy, hỏa, thổ, dụng ngũ hành đem sơn phong tiến hành phân loại. Hình Kim tinh: Đầu tròn, chân rộng, hình tròn, Ca quyết nói: "Kim tựa úp nồi kiêm trắc nguyệt, là Vũ tinh". Hình Mộc tinh: Đầu tròn mà thân thẳng, hình thẳng, Ca quyết nói: "Mộc tinh đốn hốt hình khác biệt, là Văn tinh". Hình Thổ tinh: Đầu bằng mà thể tú, hình vuông, Ca quyết nói: "Thổ như tủ bát hoặc bàn lật, là Tài tinh". Hình Thủy tinh: Thủy bình mà có gợn sóng, hình cong, Ca quyết nói: "Thủy tựa Xà hình eo thắt lưng, là Tú tinh". Hình Hỏa tinh: Đầu nhọn mà chân rộng, hình nhọn, Ca quyết nói: "Hỏa tinh góc nhọn lê đầu sắt, là Vũ tinh, cũng kiêm Văn tinh" .
(2), Hình Cửu tinh, tức là Dương Công Cửu tinh: Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, Tả phụ, Hữu bật.
+ Tham Lang tinh: Chính Mộc tinh, đầu tròn thân thẳng, "Tham Lang đốn Hốt măng mới sinh". (Chú: Cái Hốt, ngày xưa vua quan ra chầu đều cầm cái hốt, hoặc làm bằng ngọc, hoặc làm bằng tre, ngà, có việc gì định nói thì viết lên giấy để phòng cho khỏi quên. Ðời sau hay làm bằng ngà voi mà chỉ các quan cầm thôi.)
+ Cự Môn tinh: Chính Thổ tinh, đầu bằng thể tú, "Cự Môn Thiên Mã bình phong liệt".
+ Lộc Tồn tinh: Thổ kim kiêm hình, đầu như đốn cổ, chân như trảo bào, "Duy hữu Lộc Tồn trư thỉ tiết".
+ Văn Khúc tinh: Thủy tinh, hình như cuộn vải, sinh Xà hình, "Văn Khúc đa số là Mạch tinh".
+ Liêm Trinh tinh: Đếm hỏa tinh ngay cả tọa, đầu nhọn mà quý, đeo tầng thạch lăng, "Liêm Trinh chải răng treo phá y".
+ Vũ Khúc tinh: Chính Kim tinh, đầu tròn chân rộng, "Vũ Khúc man đầu tròn lại cong".
+ Phá Quân tinh: Hình như cờ bay, đầu cao đuôi thấp, đầu tròn chân nhọn, mấy vị kim tinh đem chân tay tung bay, "Phá Quân phá tán giống đánh nhịp".
+ Tả Phụ tinh: Thị miên thể tác hộ tống tinh, dữ vũ khúc tinh loại tự, đãn giác đê ải, "Tả phụ man đầu vô soa biệt" .
+ Hữu Bật tinh: Là hãm diệu, vô hình tích, ở sơn Long Quá hạp, Xuyên điền, "Bình thản vô bối xử cập bình địa" .

lesoi
08-10-17, 15:31
11, Khí thế và Cách cục của Long
(1) Khí thế Long tức là thế khí, phân ra có lực và vô lực. Có lực là cát, vô lực là hung, thế Long có phân biệt 10 loại thướng thấy là: Sinh, Tử, Cường, Nhược, Thuận, Nghịch, Tiến, Thoái, Bệnh, Phúc, Sát.
+ Sinh Long: Tinh phong (Phong ý là ngọn núi) quang minh, nhánh chân hành độ đong đưa có lực, trên dưới nhấp nhô, tả hữu bàn Long, sinh động hoạt bát, cây cỏ xanh tươi, tiền nghênh hậu tống tầng tầng hộ vệ, có sức hấp dẫn, loại Long này kết huyệt là đại phú đại quý, chủ nhân đinh hưng vượng, mấy đời phú quý.
+ Tử Long: Tinh phong mơ hồ, thể long thẳng cứng, không có nhấp nhô biến hóa tổ ngu cồng kềnh, cây cối chết khô giống như cá chết không có sinh khí, cách hung, có huyệt cũng là giả, chủ cùng khổ hạ tiện.
+ Cường Long: Tinh phong hồi dị, thể cách hùng kiện, trên dưới nhấp nhô, tả hữu cuồn cuộn. Có khí thế dời sông lấp biển, uy vũ bất khuất, áp đảo thiên hạ.
+ Nhược Long: Tinh phong như gầy trơ xương, nhánh chân co ngắn, hành động vô lực, đầu ngỗng cổ vịt, phân tán, đông xuyên tây lưu, xung quanh tiết khí, loại Long này kết huyệt, chủ cô bần tật khổ.
+ Thuận Long: Tinh phong thuận xuất, nhánh chân thuận hành, hành độ đoàn tụ, tôn ti trật tự, bao bọc xung quanh tiến về phía trước, có tình, Long này kết huyệt, chủ phú quý lâu bền, con cháu dông đúc, hiếu thuận an hòa, đa phúc đa thọ.
+ Nghịch Long: Tinh phong lập bên cạnh, nhánh chân nghịch hành, phản phục vô thường quên trước bỏ sau, hành độ bất thường, Long này kết huyệt là tối hung, chủ xuất nghịch tặc cường đạo, con cái bội nghịch.
+ Tiến Long: Tinh phong tuần tự uy nghiêm, chân nhánh đều đặn, hành độ có trật tự, trên dưới nhấp nhô ngừng hạ có thứ tự, tả hữu uốn khúc đều đặn. Thân Long lần lượt đặp cao, giống như gió thổi nghịch nước, Long này kết huyệt rất cát, chủ phú quý song toàn, phát phúc lâu dài.
+ Thoái Long: Tinh phong hỗn loạn không có thứ tự, hành độ chùn lại, Long thấp Huyệt cao, như đi vào hiểm địa, từ cao ngã xuống, Long này là tối hung, chủ vừa phát liền thoái bại, có khí vô lực, lười biếng.
+ Phúc Long: Tinh phong không xấu không thô, tựa như xa rời tổ tông mà đi áp tải, tiền hậu tả hữu không muốn rời xa, nhánh chân không lớn, tinh thể hành Long đái thương đái khố, chủ phát phúc lâu dài phú quý yên vui.
+ Bệnh Long: Thể thái Bệnh Long tuy đẹp, nhưng trong cái đẹp không đầy đủ, bẩm khí thiên Bác, không có Trướng, hành Long lưỡng Sa nhánh chân bên có bên không, bên sinh bên tử, bên đạp bên xấu, một bờ chu toàn, một bờ khuyết hãm, một đoạn hoạt dược một đoạn tử ngạnh, chủ phúc họa mỗi nửa.
+ Sát Long: Thân Long đái sát chưa trút bỏ, tựa như rời tổ để đi, xấu ác thô hùng, lộ cốt mang đá, chân nhánh bén nhọn, phá vỡ, cồng kềng thẳng cứng, Long này rất là hung ác, chủ hung, có tượng giết chóc, ngày sau tất có họa thảm diệt.
(2) Cách cục của Long là biết Long sinh tử, cát hung, ảnh hưởng đối với Huyệt đã biết, nhưng cách cục của Long, rất trọng yếu, cũng là trọng điểm để phán đoán phú quý bần tiện. Bởi vì cách cục Long có rất nhiều chủng loại, như Đại phúc chung, Vân trung kim, Đại phúc phủ, Tiểu kim tinh, Phong đái long, Cao kim vân lưỡng thế, Cao não tam kim, Cao não tứ kim …, tổng cộng có 273 đồ hình, mời xem tham khảo "Thiên cơ hội nguyên" vừa xem là hiểu ngay.

lesoi
08-10-17, 15:32
12, Long pháp thập yếu:
Long pháp thập yếu, là chỗ tinh túy trong phong thủy học. Tiên hiền nói: "Điểm huyệt cần Long mạch, cần đón Long khí, phải biết ý Long". Mạch, Khí, Ý ba chữ này, nhất định phải suy xét cẩn thận, nếu quá thật làm đến mạch, đón khí, hiểu ý, thì phải hồi phục tập trung, dương hòa dường tú, hiểu phương pháp thu sơn xuất sát, Ai sinh tinh khí Tử tinh, sau khi an táng đại địa tất là đại phát, tiểu địa thì tiểu phát, nếu như không ứng nghiệm, chính là không được mạch, không đón khí, không hiểu ý, khiến cho khí lạnh triệu tai, âm sát làm hung, cho dù có thu được sơn, xuất được sát thì cũng vô dụng, đại địa tất là đại hung, tiểu địa tất là tiểu hung, tại sao sẽ có hung chứ? Chính là không biết đạo lý Mạch, Ý, Khí, cho dù được chân huyệt, tất cũng đại hung, châu bảo và hố lửa, chỉ khác một chút mà thôi!
(1) Phải được Long mạch: Đứng ở ngay Huyệt tràng quan sát Huyệt tinh, xung quanh trong đó chỉ có một mặt, có một sợi mạch, bắt đầu từ đỉnh huyệt, dọc theo một sườn dốc, như sợi tơ kéo dài, mạch này phải mềm mịn, linh hoạt sinh động, có màu sáng trơn mới là chân Long chân Huyệt, cứng ngắc lệch thẳng là Giả huyệt, mọi người nên chú ý đỉnh huyệt không phải là đỉnh núi, mạch ở đỉnh núi, gọi là xuyên đỉnh, cực hung.
(2) Phải đón Long khí: Hiểu được mạch, phải hiểu đón Long khí, khí theo mạch đi, dừng lại kết huyệt, làm sao hiểu biết được vật dung kết Long khí? Lúc dung kết Long khí, giống như một cái hình cầu, có lúc một nửa nhô ra che ở trên đất, có lúc ngửa xuống dưới, có lúc giống như hạt sương đọng ở trên lá sen, hơi có góc vòng, phải hiểu sâu xa chỗ áo bí "Hơi nhô" cao hơn "Lõm xuống", có khí che bao phủ, ngửa xuống có thủy khí, hơi nhô lên hiện ra ánh sáng tinh hoa, cao hơn giọt sương óng ánh. Đây là nơi đến chân khí, phàm sườn núi mới cũ có chỗ này thì là khí đến, không có chỗ này thì khí giả.
(3) Phải biết ý Long: Ý Long là tình ý, nếu muốn giữ lại ý Long, nhất định phải được tổ Long. Sào (tổ), tức là núi tàng phong tụ khí có nước ôm quanh, tầng tầng hộ vệ, nơi quan tỏa (đóng khóa). Cho nên nơi tàng phong là ý Long dừng lại, nơi thủy giao là ý Long sinh, trước sau tả hữu, có đầu nhọn tròn, đầu vuông, sa tú lệ, hình thành sào huyệt tàng phong tụ khí, Long khí ở, là ý chân. Giữ chân ý Long, ý chân ý đến mới có thể phát phúc.
(4) Phải thẩm Long: Biến núi cao sâu tơi vào bình nguyên, cao biến thấp, bình địa bỗng khởi nhô cao, thấp biến cao, câu già rút ra cành non, lão biến thiếu, mạch non biến núi đẹp, thiếu biến lão, trong oa sinh nhũ, trong nhũ khai oa, dương biến âm, âm biến dương, long lai rắn chắc, huyệt phùng chỗ không, thực biến hư, trong cục kết chính mạch ở não, góc xuyên đến, tà biến chính, trong hữu phì có thủ gầy, xứ hoãn thủ khẩn, trong đói chứa no, trong tĩnh có động, tình ý bách đoan, tức là âm sinh dương, dương sinh âm, biến hóa vạn bàn không ngoài cương nhu cứu nhau, đại phàm xem đất thấy chỗ này mới là âm dương cấu tinh, hội hợp tụ kết mới có phát phúc, không đúng chỗ này đều là giả.
(5) Phải biết thế Long: Sinh, cường, thuận, vượng, bình, phục, ưu thế là Long cát; tử, nhược, thoái, suy, dật, lại, có đủ chỗ này là thế Long hung, phàm là Tầm Long thủ phải xem thế Thanh Long cát hung; phán đoán chân giả, quyết định lấy hay bỏ.
(6) Phải xem tinh Long kết cục: Có Hoa Biểu Hãn Môn, Cầm tinh tắc khẩu, Quy Xà trấn hộ, Sư tượng bả môn, La tinh thu đường, Cát tinh hộ vệ. Long tinh còn có kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tinh, có Quyền tinh, Tôn tinh, Tài tinh, còn có Cửu Não phù dong, Ngũ Não mai hoa, Tam Thai phẩm tự, Tiên Kiều đại trướng, Thụ Quỹ thương khố, Long Lâu phong các … là Tinh tốt. Xem Long tinh, là chỉ Tinh lai Long kết huyệt: "Thẳng là mộc tinh, tròn là kim tinh, vuông là thổ tinh, nhọn là hỏa tinh, cong là thủy tinh vậy." Tổng cộng có 5 tinh, còn có Cửu tinh. Phàm Tinh kết huyệt, các thế như thị tọa, thị lập, thị đê, còn có trắc lập, trắc tọa, trắc miên, nếu kiêm tam thể, có phân ra các loại Chính Kiêm Thiếp Thị: Chính là chính thể tinh thần kiêm kim thủy; Thiếp như Xích kim Thiếp hỏa, Thị như Thổ phúc là loại kim …. Sau đó lại tiếp tục dùng phương pháp các thế lập, tọa, miên, định huyệt mới có thể có cát không có hung.

lesoi
09-10-17, 18:57
III. Phương pháp thao tác Tầm Long điểm Huyệt

Tầm Long bát yếu

1, Phải rõ Nghĩa.
Chỗ nói rõ nghĩa, tất cần phải hiểu rõ một loạt hàm nghĩa danh từ: Bạch Long, Phong, Mạch, Tổ tông khai trướng, Quá Hạp, Khí Mạch, Long Huyệt, Sa, Thủy, Triều, Án, Thủy khẩu, Minh Đường, Long Hổ, Thiền Dực sa, Ngân Ảnh thủy, cùng chỗ hình thành hàm nghĩa tinh thể 5 loại sinh khí kim mộc thủy hỏa thổ, mới có thể bước vào cánh cửa Địa lý. Nếu như ngay cả những danh từ cơ bản nhất đều không hiểu được, thì khởi học địa lý khá là gian khổ.
2, Phải biết Tinh.
Nhận biết Tinh ở đây, không phải là chỉ nhận biết Cửu tinh Ngũ tinh, mà là chỉ Tam tinh. Sao gọi là Tam tinh? Là Quyền tinh, Tôn tinh và Hùng tinh vậy. Phàm là Tầm Long, tất luận Tổ tông. Mà luận Tổ tông, tất là bắt đầu lấy Thái Tổ xuất thân, Đại Can Long Thái Tổ ở xa mấy nghìn dặm, đặc biệt là đặt tên núi, nhảy qua châu qua quận, cao to thấu trời, vạn mạch sơn, đều khởi từ Tổ, cũng tức là Quyền tinh vậy. Trong nhiều dãy núi, nếu không có một Tinh rất cao rất lớn, thì không đủ để tụ nhiều thế, áp đảo quần sơn, mà quyền hành thì lại không quy về một vậy, cho nên Quyền tinh là chỗ Thái Tổ, đủ để bao phủ một tỉnh một quận. Phàm đất Tiên Phật Vương hầu Khanh tướng, tất là ở chỗ này. Giống như Quảng Đông cao châu dạng Quỷ cục, tức thuộc loại này.
Tiểu Can Long Thái Tổ ở xa mấy trăm dặm, nhưng cũng đặc đạt cao áp chúng sơn, hoặc thành các loại hình Long lâu bảo điện, Kim loan quỳnh các, chỗ nói Tôn tinh tức là chỉ chỗ này. Phàm là Tôn tinh, tất tụ lại ở phía sau phân nhánh chia mạch ở Thái Tổ sơn, từng người chạy băng xuyên qua sông suối mà đi, khởi tiếp Tinh thần cao lớn, quần sa hộ tống, chặt chẽ trùng điệp, cho nên có thể hội tụ thành thế vậy, phàm đất đang không đang kết, tất vốn là ở Tôn tinh vậy.
Đại Can long phân nhánh, cũng có xa đến mấy trăm dặm, mấy chục dặm, quý thì khai Bình mở Trướng, thứ là mở to mặt Tinh thần, tiếp theo là mở nhỏ mặt Tinh thần, đứng thẳng cao to, để đủ ứng Tôn tinh mà gánh môn hộ, là Hùng tinh vậy.
Rõ 3 tinh này, mới biết chỗ chiều hướng đi về, mà đất kết chân long. Trên thực tế, nhận biết tam tinh tức là các đỉnh núi Thái Tổ, Thủy Tổ, Tông Sơn, Thiếu Tổ đều bao gồm ở bên trong, Tầm Long tất nhận biết Tổ tông, bất luận Tổ Tông là chân nào. Lời Cổ nhân nói, một chút cũng không giả.
3, Phải biết Khai diện Địa bộ.
Chu thị nói: "Địa chân giả lớn bé, sao mà biện? Trước xem khai diện có hay không, liền biết tổng thể chân giả. Tiếp xem khai diện lớn bé nhiều ít, cùng Địa bộ rộng hẹp, mà địa lớn bé, tổng thể cũng biết.
Sao gọi là Khai diện?
Chỉ luận xét 8 chữ: Tách ra, thu lại, ngửa bụng, quay lưng, hợp cát, thì sẽ tự rõ vậy. Không Khai diện thì Long không đến, Huyệt không chân, Sa không vòng, Thủy không ôm, Địa không kết vậy.
Sao gọi là Địa bộ?
Lấy 8 chữ suy xét: Ngang dọc, thu vào, thiên toàn, tụ tán, cục đủ mà tụ là lớn, Địa bộ tự rộng, trái lại là Địa bộ hẹp.
Phàm chỗ chiếm Địa bộ rộng, Long huyệt tất quý, trái lại thì kết địa nhỏ hoặc tiện mà không lấy. Thẩm thị nói: "Phàm học địa, biết được Khai diện, trăm sự đã xong. Hiểu được Khai diện, thì có thể nói Địa, thì có thể tinh Địa. Không hiểu Khai diện, thực sự núi xanh cũng phí uổng". Do vậy có thể thấy, biết Khai diện và Địa bộ Long Sơn Triều thủy, học tập ở Địa cực là trọng yếu.

lesoi
09-10-17, 18:58
4, Phải biết biến hóa.
Phàm Long hành tẩu, tất có biến hóa, từ núi cao hạ xuống bình dương, từ cao biến thấp, bình dương bỗng nhú nhô lên, từ thấp biến cao, là âm dương cùng nhau biến hóa. Cành già thì sinh ra hánh non, là lão biến thiếu; mạch non bỗng khởi thô đại tinh thần, là thiếu biến lão, đều là biến hóa.
Chân Long hành tẩu, chỗ quý hoàn toàn là ở một chữ biến, một lúc đông một lúc tây, một lúc ngẩng cao, một khởi nằm thấp, biến hóa đa đoan như vậy, Long mới sống, cốt khí mới chân. Tối kỵ nói không có biến hóa, đến thẳng đi thẳng, đây không phải Long, là Sa thể vậy.
5, Phải biết Long khí và Long mạch.
Tiêu thị nói: Khí vô hình còn Mạch hữu hình, nhận biết mạch có thể Tầm Long, biết Khí để điểm huyệt. Khí Mạch là âm dương, hiểu được âm dương, Lúc lập Quyết khám phá biết khí nhận mạch, Chân Long ở đâu mà không gặp.
6, Phải xem Thúc yết Quá hạp.
Sao là Thúc yết? 《 Nguyên Xu kinh 》 nói: "Yết như thông gió, nhất hô nhất hấp". Trong thổi lấy khí, then chốt lớn. Long có Thúc yết, nếu như bàn trống, cái bể, quản lĩnh núi sông.
Trong Huyệt phải tiếp được khí này. Nơi Thúc khí gọi là Yết, nên ngắn không nên dài, ngắn thì khí tụ, dài thì khí tán. Nên chặt không nên mở, nên linh hoạt không nên cứng rắn, linh hoạt thì khí hiện, cứng thì khí tử. Rời Yết không xa, tức là đón khí này, Huyệt mới có phát phúc.
Hạp, Trong lúc Long hành tẩu bỗng nhiên gãy đoạn, chuyển hoán Long khí nhi lánh khởi Tinh phong vậy. Trương Tử Vi có 20 Hạp cách, Thái Tây Sơn có 59 Hạp, Lưu Giang Đông có 6 Hạp, Liêu Vũ có 4 Hạp quyết: Có Hộ trì Hạp, Lai hữu Nghênh, Quá Hữu tống, hoặc Song Nghênh song Tống, hoặc bên nghênh biên tống, hoặc đơn nghênh đơn tống, quý ở hai bên có bảo hộ, không có gió thổi thủy cướp là chuẩn. Có Khẩn Hạp, khí khẩn mà nhỏ; có Khoát Hạp, khí rộng mà mở; có Phong yêu Hạp, giữa nhỏ không có sống lưng; Có Hạc tất Hạp, giữa dài có bọt; có Xuyên điền Hạp, Long núi cao xiết rơi bình dương; có các cách như Độ thủy Hạp, Băng hồng Hạp, Nhật Nguyệt hạp, Ngọc xích Hạp. Trong Hạp sống lưng Mạch khởi cao, đi trước tất kết Huyệt Nhũ đột. Sống lưng Mạch ẩn Long, tất kết Huyệt oa kiềm.
7, Phải biết Long cách.
+ Ngô Đồng cách, đúng đoạn đều đặn, xuất mạch trung chính.
+ Thược Dược cách, tuy đoạn không đúng, nhưng dài ngắn đều đặn lẫn nhau.
+ Dương Liễu cách, bên có bên không.
+ Quyển Liêm Điện Thí cách, thế như cuộn vải.
+ Ngô Công cách, nhánh chân đều ngắn, từng đoạn đều đặn, nhưng cách này rất dễ sát sư, luyện tập đạo này nên cẩn thận.
+ Tam Thai cách, có 3 thể kim, mộc, thổ.
+ Lô Hoa Tam Niểu cách, 3 cái ngang, sườn cạnh, chính cả 3 đều mềm mại.
+ Tụ Giảng cách, ngũ tinh kim mộc thủy hỏa thổ quy viên tụ tập.
Cách không thắng thuật, có hay không có đại cách này mà đại phát cũng có.
Cho nên phàm huyệt chân mà có các loại Long cách này, lực đại phát phúc lâu dài. Chuyên nói các loại Long cách này mà Huyệt giả, thì sẽ là bại tuyệt. Cho nên, đại phàm minh sư cổ kim tác huyệt, tất Long cách chân, huyệt đạo chân mới nói là đại phú quý, phép dụng tức là then chốt, không phải đến người không truyền.
8, Phải Tầm Long biết Cục.
Thẩm thị nói: "Có đại cục, có trung cục, có tiểu cục, có chân cục, có giả cục. Mà cục, là một vòng tròn vậy. Không có Cục không nói Long, chỉ sợ hiểu sai Cục. Cục còn có tên là Đường, cũng dương danh, tam đường bất tất đều hiện, đều có bái phong đại địa, chỉ thấy nhất Đường. Mà đại địa tất có đủ tam đường, nhưng không đều ở phía trước, hoặc ở thiên trái thiên phải, hoặc lại mở ở sau huyệt, tự bối thủy là Đường. Cho đến hoành thủy lại mở nhất Đường, cho đến thuận thủy lại mở nhất đường.
Nhưng chỗ Nhị Đường này, đều là một huyệt mà thiết lập. Không phải cứ mỗi lần gặp Đường Cục tức là cầu chủ nhân. Phàm Cục tất Khai diện bão hồi, không Khai diện thì là Giả Cục. Cho nên Khai diện là đệ nhất đại sự, phía sau sơn không Khai diện thì Mạch không xuống. Trước sơn không Khai diện thì Triều sơn không đến. Bên trái sơn không Khai diện thì bên trái ôm vô tình. Bên phải sơn không Khai diện thì bên phải ôm phản nghịch". Thế nhân thường hay ngưỡng mộ cục xinh đẹp, không có không bị cục hoa giả mê hoặc mà ngộ nhận Sơn cương, đều là do không hiểu biết Cục chân giả vậy.

lesoi
09-10-17, 18:58
Sáu điều chú ý khi tìm Huyệt

1, Phải chú ý tìm Thủy khẩu.
Bốc Ứng Thiên nói: "Nhập sơn tìm Thủy khẩu". Một câu này, là từ xưa nghìn sách vạn quyển sách địa lý chưa hề tiết lộ bí mật, cho đến nay các thầy địa lý cũng vậy không hề nói ra. Tại sao chứ? Xem Thủy khẩu là phép tầm địa rất trọng yếu. Bởi vì Thủy khẩu thực ra chính là chỗ đổ về Đại Minh đường tức là La Thành. Sông chảy đổ về Đại Minh Đường nhiều mà còn lớn, tất định chỗ phát nguyên thủy đến vừa xa vừa dài, cho nên có thể suy kết tác Cách Cục Huyệt tràng lớn nhỏ.
Quan sát nơi Thủy khẩu to lớn, nếu như đặc trưng có chỗ khác nhau, phải đặc biệt chú ý nhìn xem Thủy khẩu sa quan tỏa (khóa lại).
+ Có hình Nhật, Nguyệt —— Sa lớn mà tròn tựa như Thái Dương hình kim là Nhật, Sa nhỏ mà tròn tựa như Thái Âm hình kim là Nguyệt. Có Hoa Biểu Hãn Môn, Sư tượng thủ Thủy khẩu là Đối trì. Có La tinh là hỏa dư khí, lộ màu đen là tảng đá lớn là Thượng, Thổ là thứ.
+ Có Trống cờ đóng quân —— hình tam giác nhọn là Cờ, thân tròn hơi vuông mà đỉnh bằng là Trống; tượng truân binh (đóng quân), ngọn núi nhỏ là Kim tinh hình tròn xếp hàng, số lượng rất nhiều là đúng, chủ xuất người làm Nguyên soái Đại tướng. Hoặc là các loại hình sa thể như Quy (rùa), Xà (rắn), Lý (cá chép), Miết (ba ba), đều là sa thể thủy khẩu văn võ phú quý. Có những đặc trưng này, có thể ấn chứng bên trong tất có đất chân kết. Đây là bởi vì Lai Long cực vượng thịnh, sau khi kết đất, mới có dư khí có thể đạt được Thủy khẩu, hình thể đặc thù hình thành phi thường.
Phàm là minh sư có tuệ tâm pháp nhãn dựa vào chỗ hình thể này dự đoán bên trong Thủy khẩu có chân kết Long huyệt.
Như có Nhật thì bên trong tất kết huyệt Thái Dương Kim tinh, tượng hình tất kết huyệt hỏa kim, Hoa Biểu tất kết huyệt Tham Lang Mộc tinh, La tinh tất kết đột huyệt kim tinh, Kỳ hình tất kết huyệ Hỏa tinh, Cổ hình tất kết huyệt Vũ Khúc Kim tinh, Truân Binh tất kết huyệt Thủy tinh, Quy tất kết huyệt Hỏa thổ tinh, Xà tất kết huyệt Thủy mộc tinh, Lý Miết tất kết huyệt Hỏa kim hoặc hỏa thổ. Còn lại theo chỗ này mà suy, ấn chứng lẫn nhau, đều là trời đất tạo nên thủy khẩu Long huyệt vậy.
2, Phải chú ý xem Minh Đường.
Sau khi đã tìm được Thủy khẩu hợp cách, tự có thể theo lai thủy đi nghịch chỗ nào tụ có Minh Đường. Cổ nhân nói: "Muốn biết Lai Long dừng lại, thấy Đại Minh Đường mà có thể biết chỗ"; Muốn biết Long Mạch dừng lại ở chỗ nào, thấy Trung Minh Đường là có thể biết chỗ.
Nhưng mà, Minh Đường là cái gì chứ? Tỉ như quan phủ đại đường, thư lại nha môn hướng về chắp tay bái lạy, cờ thương ô quạt bày ra, rất là trang nghiêm vậy. Ở giữa Sơn Thủy, Thủy tụ Sa hồi, Sa tụ Thủy hồi, Sa tụ Thủy tụ, không ngoài chỗ Tứ Tượng này vậy. Bình thản nước chảy quanh co, là nơi thủy tụ vậy. Nhánh nguồn giao hợp, là nơi thủy tụ vậy. Uốn khúc hữu tình, là thủy hồi vậy. Ôm quanh có lực, là thủy hồi vậy. Trên dưới cùng đến, là Sa tụ vậy. Khuyển nha tương trạo, sa tụ vậy. Bạch tượng chuyển nha, là Sa hồi vậy. Xích hồng toàn nhiễu, sa hồi vậy. Sa thủy đều thích hợp, là thiên nhiên tạo lập Minh Đường vậy. Nhưng mà, Minh Đường có Thuận kết Minh Đường, Nghịch kết Minh Đường, Hoành kết Minh Đường, Biến cách Hoành kết Minh Đường và Bàn kết Minh Đường, tâm cẩn thận mà thể nhận, mới không sai lầm.
Nhìn Minh Đường chân giả, có thể biết kết huyệt phương nào. Cho nên, Dương Công có nói: "Có người nhận biết Minh Đường pháp, năm trăm năm qua có một ngày". Là nói Minh Đường khó biết và trọng yếu vậy.

lesoi
09-10-17, 19:00
3, Phải chú ý quan sát Huyệt tinh.
Địa lý không ngoài Sơn Thủy xuất nhân tài. Nếu Minh Đường đã kết thành, trong đó quyết không trống rỗng. Nhưng xem hai bên thế núi, bên nào là Chủ, bên nào là Khách. Là Chủ, tất có tinh thể để Thai tức Dựng dục, mà còn Khai diện Khai nhãn Khai thủ, Tàng phong Tụ khí, cùng chúng sơn độc đặc. Nếu như không chú ý quan sát Huyệt tinh, thì không có chứng cứ, nghi ngờ không quyết. Phải biết xưa thông thần tiên, đạo là bất dịch.
Xưa thần tiên lập Ngũ Tinh Huyệt pháp, bao gồm cả kiêm Sấn, Nhâm Nhĩ tinh thể thiên biến vạn hóa, cuối cùng cũng không ngoài lý này. Là tại sao chứ? Dương đến âm nhận, âm đến dương nhận, khúc tận thì nói nhu mềm tiến thoái, tụ tán lâu mau, thần kỳ vậy.
+ Kim, Thái Dương khai Thủy oa, Thái Âm kim táng huyền, tiểu kim táng đấu khẩu.
+ Mộc, có Xung thiên mộc, Đảo địa mộc, táng tiết táng nha vậy.
+ Thủy, táng phao.
+ Hỏa, ai kim tiễn hỏa.
+ Thổ, thổ phúc tàng kim, hoặc thổ giác lưu kim.
Tuy đây là số quyết, mà vạn pháp bất ly tông, thần mà minh vậy. Cho nên, loại suy lấy Tượng, thì hình nhân, có Chân Vũ đại tọa, Ngư Ông tát võng, Quan Âm tọa liên, Mỹ Nữ sơ trang; Hình Thủy tộc, có Long thiên Nghịch lân, Quy táng xuất đầu chi kiên; Loại thú là Hổ Táng vương tự, Sư táng ngạch hạ, Ngưu độ giang nhi táng tị, Khuyển nhãn địa nhi thiên phúc, Mã diện vô nhục mà huyệt ở tai, Tẩu Mã bản an huyệt ở chân. Mà huyệt thì thiên hình vạn trạng, nói chung là rời Thượng phân Hạ hợp, Oa Kiềm Nhũ Đột, mà lấy đạo Thiên Tâm thập đạo để chứng minh Huyền Vũ, Chu Tước cùng Thanh Long, Bạch Hổ, cùng lấy Thập nhị Đảo Trượng pháp của Dương Công phân ra Cương, Nhu, Hoãn, Cấp, thì điểm huyệt không có chuyện khó vậy.
4, Phải chú ý quan sát tính tình Sa Thủy.
Nhận được Huyệt tinh, phải tính toán ở dưới Huyệt tinh, quan sát xung quanh xa gần tính tình Sa Thủy. Sa phải có tình, như thấy người thân mà cười khúc khích, như thuộc hạ được cấp trên mời đến mà miễn nghi lễ, như vệ sĩ có lực hộ vệ, khiến cho không bị gió thổi nước cướp, như tình nhân hay tay ôm ấp, được chỗ này thì Sa có tình vậy. Sa có tình, không thấy tiễn bắn, sụp, vỡ, xung áp, không vì chỗ ta mà dùng vậy. Tính tình Thủy chân, đến phải Khai diện hướng hoài, không thể cứng thẳng mãnh liệt, phải như dây cung cong ôm lấy Huyệt tràng, đi phải uốn khúc quanh co, lưu luyến không quên, hơn nữa nơi thủy đi phải nhỏ hẹp, thì Minh Đường thủy tụ mà phát phúc vậy.

lesoi
09-10-17, 19:01
5, Phải chú ý tránh mở ao (lõm) phong (gió).
Phàm huyệt sơn địa, tất cần phải tránh mở ao phong bốn mặt tám phương, phạm là thất bại. Cổ nhân nói: "Tả Không hề, dài trước tuyệt, Hữu Không hề, mùa cô đơn; triều tọa trống trải, nhị ngũ khó hưng".
Nghiệm mộ phần cũ, bách phát bách trúng.
6, Phải chú ý quan sát Triều Án.
Triều Án tức là Triều sơn và Án sơn. Đặc biệt có lai Long, tất đặc biệt có lai triều sơn.
Dương Công nói:
"Lại xem triều thủy cùng triều sơn,
Triều sơn cùng Long xa như nhau,
Cùng Tổ cùng Tông đến làm bạn,
Khách sơn thiên lý đến tác Triều,
Triều ở trước mặt là gần Án,
Nếu như đón triều thật hữu tình,
Làm tướng công hầu có thể lập" .
Lại nói:
"Tìm được chân Long không biết Huyệt,
Lúc không biết Huyệt là nói không,
Biết Long biết Huyệt mới là chân,
Rơi xuống chân Long quan không tuyệt.
Chân Long tàng hạnh huyệt khó tầm,
Chỉ có Triều sơn biết hạnh tâm.
Nếu lúc Triều cao điểm nơi cao,
Nếu lúc Triều thấp kim nơi thấp".
Từ trong kinh văn của Dương Công, chúng ta có thể nhận thức đến hai điểm chủ yếu: Một là, quan sát Triều sơn và Án sơn phải chăng có tình đặc đạt; Hai là, từ Triều Án tức là đối diện Huyệt tinh, "Giang Nam lai long Giang Bắc vọng, Giang Tây lai Long tầm Giang Đông". Ở trên Án sơn hoặc Triều sơn quan sát điểm Huyệt có hay không cùng chân hay giả, từ đó tìm ra vị trí chân huyệt. Mà gần Án xa Triều thì là chân Long kết địa là dấu hiệu quý, chúng ta ở lúc điểm huyệt thì không thể không cẩn thận thẩm xét.

(Hết)