PDA

View Full Version : Thủy Khẩu



lesoi
16-10-17, 08:39
Thủy khẩu (Danh từ phong thủy)

Chỗ nói Thủy khẩu, là chỉ dòng nước chảy đi vào và đi ra. Cổ nhân một phương diện nhận thức nước chảy sẽ ảnh hưởng đến khí:"Khí là dương, theo gió mà đi, Khí là âm, theo nước mà đi." "Người dân coi trọng lấy khí dương mà thuận diệt âm." Ngoài phương diện này còn cho rằng Thủy chủ Tài, cho nên đặc biệt coi trọng về Thủy khẩu, đem nó xem như thần bảo hộ và tuyến sinh mệnh. Thủy khẩu là tiêu chí xác đáng vì nó là nơi: Mở Thiên Môn, đóng Địa Hộ. Tức là nơi thủy đến gọi là Thiên Môn, nên rộng lớn, nơi thủy đi gọi là Địa hộ, nên thu vào, có che chắn. Thủy là nguồn sinh mệnh, có thể nuôi dưỡng vạn vật. Phong thủy học truyền thống cho rằng, nếu như trên lý luận phong thủy giữa kiến trúc cùng Thủy khẩu hợp nhau, tự nhiên sinh tài, sẽ mang lại cho chủ nhân tài nguyên; nhưng nếu như kiến trúc cùng thủy khẩu ở trên lý luận phong thủy là chỗ hung, thì sẽ mang lại cho chủ nhân tại nạn. Cho nên, Phong thủy học rất chú trọng Thủy khẩu, tức là phương pháp trắc định thủy khẩu cát hung. Chỗ nói Thủy khẩu thực ra chính là điều chỉnh quan hệ giữa triều hướng và nước chảy của vật kiến trúc, khiến cho chỗ vị trí thủy tốt nhất, trong phong thủy hiện đại thì "Thủy" là phiếm chỉ tất cả khí trường lưu động, như đạo lộ, ống nước. Sau đây đưa ra phương pháp chủ yếu và các trường phái trắc định Thủy khẩu.

http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=397&stc=1

lesoi
16-10-17, 08:42
Phép tắc trắc định
Thập nhị Trường Sinh Thủy khẩu

+ Thủy khẩu ở: Đinh Mùi Khôn Thân Canh Dậu, Sinh ở Giáp Mão, Vượng ở Càn Hợi, Mộ ở Đinh Mùi.
+ Thủy khẩu ở: Quý Sửu Cấn Dần Giáp Mão, Sinh ở Canh Dậu, Vượng ở Tốn Tị, Mộ ở Quý Sửu.
+ Thủy khẩu ở: Tân Tuất Càn Hợi Nhâm Tý, Sinh ở Bính Ngọ, Vượng ở Cấn Dần, Mộ ở Tân Tuất.
+ Thủy khẩu ở: Ất Thìn Tốn Tị Bính Ngọ, Sinh ở Nhâm Tý, Vượng ở Khôn Thân, Mộ ở Ất Thìn.
Đây là Dương Công Thập nhị Trường Sinh Thủy pháp.
Như: Sơn Mùi hướng Sửu, thủy đến phương Ất Thìn, Thủy khẩu ở Càn Hợi: Tân Tuất Càn Hợi Nhâm Tý, Sinh ở Bính Ngọ, Vượng ở Cấn Dần, Mộ ở Tân Tuất, cho nên thủy đến phương Ất Thìn luận là thủy Quan đái.

Tứ Đại Cứu Bần Thủy khẩu
Nhị thập tứ Sơn Thủy khẩu

Tứ đại cục thủy khẩu của Dương Công, tứ cục âm dương là Thìn Tuất Sửu Mùi tứ Mộ khố, viết: Địa hộ. Còn viết là: Thủy khẩu. Phàm trời đất tạo nên Chân Long thành Cục tất có Thủy khẩu Địa Hộ. 24 Sơn 48 Hướng.
+ Thìn mộ; Tân Long Thủy Cục:
A; Sơn Cấn Dần hướng Khôn Thân. Vượng đi gặp tự sinh hướng sinh. Có thủy đảo qua bên trái xuất ra Ất Thìn. Long: Khôn vượng, Canh Lâm quan, Tân Quan đới; Càn Mộc dục; Nhâm Trường sinh; Quý Dưỡng. Thủy: Khôn Trường sinh; Canh Mộc dục; Tân Quan đới; Càn Lâm quan; Nhâm Đế vượng.
B: Sơn Bính Ngọ hướng Nhâm Tý. Sinh đi gặp chính vượng hướng vượng. Tân Long thủy cục. Long: Khôn đế vượng; Canh lâm quan; Tân quan đới; Càn mộc dục; Nhâm trường sinh; Quý dưỡng. Thủy: Nhâm vượng; Càn lâm quan; Tân quan đới; Canh mộc dục; Khôn trường sinh. Thủy bên trái đảo qua bên phải xuất ra Ất Thìn.
C: Sơn Quý Sửu hướng Đinh Mùi. Chính hướng Dưỡng. Thủy bên phải đảo qua bên trái xuất ra Tốn Tị. Long: Khôn vượng; Canh lâm quan; Tân quan đái; Càn mộc dục; Nhâm trướng sinh; Quý dưỡng. Thủy: Nhâm vượng; Càn lâm quan; Tân quan đái; Canh mộc dục; Khôn trường sinh; Đinh dưỡng.
D: Sơn Tân Tuất hướng Ất Thìn. Chính hướng mộ. Thủy bên trái đảo qua bên phải cùng Khôn thủy bên phải hợp ôm qua Minh Đường xuất ra Tốn Tị. Long: Khôn vượng; Canh lâm quan; Tân quan đới; Càn mộc dục; Nhâm sinh; Quý dưỡng. Thủy: Bên trái lâm Càn, Nhâm vượng, bên phải Khôn sinh.
E: Sơn Càn Hợi hướng Tốn Tị. Hóa Tử thành Sinh hướng tự sinh. Thủy bên phải đảo qua bên trái xuất ra Ất Thìn vị trí Dưỡng, vị trí Dưỡng không luận là xung phá. Long: Khôn đế vượng; Canh lâm quan; Tân quan đới; Càn mộc dục; Nhâm trường sinh; Quý dưỡng. Thủy: Quý trường sinh; Bính mộc dục; Đinh quan đới; Khôn lâm quan; Canh đế vượng.
F: Sơn Canh Tây hướng Giáp Mão. Hóa Tuyệt thành Vượng hướng tự Vượng. Thủy bên trái đảo qua bên phải xuất ra Ất Thìn mượn khố tiêu nạp. Long: Khôn vượng; Canh lâm quan; Tân quan đới; Càn mộc dục; Nhâm sinh; Quý dưỡng. Thủy: Giáp vượng; Cấn lâm quan; Quý quan đới; Nhâm mộc dục; Càn trường sinh.
Chú thích: Long âm Hướng âm, Long dương Hướng dương. Phàm Long tự sinh tự vượng rất có lực ở trên ứng với Viên tinh. Đa số là Long lục tú tam cát. Sa thủy lục tú tam cát. Tứ viên là Càn Khôn Cấn Tốn, tứ Canh Nhâm Bính. Đại quý.

lesoi
16-10-17, 11:23
+ Tuất mộ: Ất Long Hỏa cục.

A: Sơn Khôn Thân hướng Cấn Dần. Vượng đi gặp sinh tự hướng sinh. Long: Cấn vượng; Giáp lâm quan; Ất quan đới; Tốn mộc dục; Bính trường sinh; Đinh dưỡng. Thủy: Cấn sinh; Giáp mộc dục; Ất quan đới; Tốn lâm quan; Bính vượng. Thủy bên phải đảo qua bên trái xuất ra Tân Tuất chính khố.
B: Sơn Nhâm Tý hướng Bính Ngọ. Sinh đấn gặp vượng tự hướng vượng. Long: Cấn vượng; Giáp lâm quan; Ất quan đới; Tốn mộc dục; Bính trường sinh; Đinh dưỡng. Thủy: Bính vượng; Tốn lâm quan; Ất quan đới; Giáp mộc dục; Cấn trường sinh. Thủy bên trái đảo qua bên phải xuất ra Tân Tuất hỏa khố.
C: Sơn Đinh Mùi hướng Quý Sửu. Hướng chính Dưỡng. Long: Cấn vượng; Giáp lâm quan; Ất quan đới; Tốn mộc dục; Bính trường sinh; Đinh dưỡng. Thủy: Cấn sinh; Giáp mộc dục; Ất quan đới; Tốn lâm quan; Bính vượng; Quý dưỡng. Thủy bê phải đảo qua bên trái xuất ra Càn Hợi tuyệt vị.
D: Sơn Ất Thìn hướng Tân Tuất. Lưỡng thủy kẹp xuất ra chính hướng Mộ. Long: Cấn vượng; Giáp lâm quan; Ất quan đới; Tốn mộc dục; Bính sinh; Đinh dưỡng. Thủy: Cấn sinh; Giáp mộc dục; Ất quan đới; Tốn lâm quan; Bính vượng. Thủy bên trái đảo qua bên phải hợp Cấn vị sinh thủy xuất ra Càn Hợi tuyệt vị.
E: Sơn Tốn Tị hướng Càn Hợi. Hóa Tử thành Sinh hướng tự sinh. Long: Cấn vượng; Giáp lâm quan; Ất quan đới; Tốn mộc dục; Bính sinh; Đinh dưỡng. Thủy: Càn sinh; Nhâm mộc dục; Quý quan đới; Cấn lâm quan; Giáp vượng. Thủy bên phải đảo qua bên trái xuất ra Tân Tuất dưỡng, vị trí Dưỡng không luận là xung phá.
F: Sơn Giáp Mão hướng Canh Dậu. Hóa Tuyệt thành vượng hướng tự vượng. Long: Cấn vượng; Giáp lâm quan; Ất quan đới; Tốn mộc dục; Bính sinh; Đinh dưỡng. Thủy: Canh vượng; Khôn lâm quan; Đinh quan đới; Bính mộc dục; Tốn sinh. Thủy bên trái đảo qua bên phải xuất ra phương Tân Tuất vị trí suy.

lesoi
16-10-17, 11:24
Sửu mộ: Đinh Long Kim cục.

A: Sơn Càn Hợi hướng Tốn Tị. Vượng đi gặp sinh hướng chính sinh. Long: Tốn vượng; Bính lâm quan; Đinh quan đới; Khôn mộc; Canh sinh; Tân dưỡng. Thủy: Tốn sinh; Bính mộc dục; Đinh quan đới; Khôn lâm quan; Canh vượng. Thủy bên phải đảo qua bên trái xuất ra Quý Sửu chính khố.
B: Sơn Giáp Mão hướng Canh Dậu. Sinh đ gặp vượng hướng chính vượng. Long: Tốn vượng; Bính lâm quan; Đinh quan đới; Khôn mộc dục; Canh sinh; Tân dưỡng. Thủy: Canh vượng; Khôn lâm quan; Đinh quan đới; Bính mộc dục; Tốn sinh. Thủy bên trái đảo qua bên phải xuất ra Quý Sửu chính khố.
C: Sơn Tân Tuất hướng Ất Thìn. Chính hướng Dưỡng. Long: Tốn vượng; Bính lâm quan; Đinh quan đới; Khôn mộc dục; Canh sinh; Tân dưỡng. Thủy: Ất dưỡng; Tốn sinh; Bính mộc dục; Đinh quan đới; Khôn lâm quan; Canh vượng. Thủy bên phải đảo qua bên trái xuất ra Cấn Dần tuyệt vị.
D: Sơn Đinh Mùi hướng Quý Sửu. Lưỡng thủy kẹp xuất ra chính hướng mộ táng. Long: Tốn vượng; Bính lâm quan; Đinh quan đới; Khôn mộc dục; Canh sinh; Tân dưỡng. Thủy: Tốn sinh; Khôn lâm quan; Canh vượng; Thủy bên phải đảo qua bên trái hợp ôm thủy ở Tốn sinh xuất ra Cấn Dần tuyệt vị.
E: Sơn Khôn Thân hướng Cấn Dần. Hóa Tử thành Sinh hướng tự sinh. Long: Tốn vượng; Bính lâm quan; Đinh quan đới; Khôn mộc dục; Canh sinh; Tân dưỡng. Thủy: Cấn sinh; Giáp mộc dục; Ất quan đới; Tốn lâm quan; Bính vượng. Thủy bên phải đảo qua bên trái xuất ra Quý Sửu. Vị trí Dưỡng không luận lấy xung phá.
F: Sơn Bính Ngọ hướng Nhâm Tý. Hóa tuyệt thành vượng hướng tự vượng. Long: Tốn vượng; Bính lâm quan; Đinh quan đới; Khôn mộc dục; Canh sinh; Tân dưỡng. Thủy: Nhâm vượng; Càn lâm quan; Tân quan đới; Canh mộc dục; Khôn sinh. Thủy bên trái đảo qua bên phải phương Quý Sửu vị trí suy.

lesoi
16-10-17, 11:24
Mùi mộ: Quý Long Mộc cục.

A: Sơn Tốn Tị hướng Càn Hợi. Vượng đi gặp sinh hướng tự chính sinh. Long: Càn vượng; Nhâm lâm quan; Quý quan đới; Cấn mộc dục; Giáp sinh; Ất dưỡng. Thủy: Càn sinh; Nhâm mộc dục; Quý quan đới; Cấn lâm quan; Giáp vượng. Thủy bên phải đảo qua bên trái xuất ra Đinh Mùi mộc mộ.
B: Sơn Canh Dậu hướng Giáp Mão. Sinh đi gặp vượng hướng chính vượng. Long: Càn vượng; Nhâm lâm quan; Quý quan đới; Cấn mộc dục; Giáp sinh; Ất dưỡng. Thủy: Càn sinh; Nhâm mộc dục; Quý quan đái; Cấn mộc dục; Giáp vượng. Thủy bên trái đảo qua bên phải xuất ra Đinh Mùi đất chính khố.
C: Sơn Ất Thìn hướng Tân Tuất. Chính dưỡng hướng. Long: Càn vượng; Nhâm lâm quan; Quý quan đới; Cấn mộc dục; Giáp sinh; Ất dưỡng. Thủy: Tân dưỡng; Càn sinh; Nhâm mộc dục; Quý quan đới; Cấn lâm quan; Giáp vượng. Thủy bên phải đảo qya bên trái xuất ra Khôn Thân đất tuyệt.
D: Sơn Quý Sửu hướng Đinh Mùi. Lưỡng thủy kẹp ra hướng chính mộ. Long: Càn vượng; Nhâm lâm quan; Quý quan đới; Cấn mộc dục; Giáp sinh; Ất dưỡng. Thủy: Cấn lâm quan; Giáp vượng; Càn sinh. Thủy bên trái đảo qua bên phải hợp xuất ra Khôn Thân đất tuyệt vị.
E: Sơn Cấn Dần hướng Khôn Thân. Hóa Tử thành sinh hướng tự sinh. Long: Càn vượng; Nhâm lâm quan; Quý quan đới; Cấn mộc dục; Giáp sinh; Ất dưỡng. Thủy: Khôn sinh; Canh mộc dục; Tân quan đới; Càn lâm quan; Nhâm vượng. Thủy bên phải đảo qua bên trái xuất ra Đinh Mùi, đất dưỡng không luận là xung phá.
F: Sơn Nhâm Tý hướng Bính Ngọ. Hóa Tuyệt thành vượng hướng tự vượng. Long: Càn vượng; Nhâm lâm quan; Quý quan đới; Cấn mộc dục; Giáp sinh; Ất dưỡng. Thủy: Bính vượng; Tốn lâm quan; Ất quan đới; Giáp mộc dục; Cấn sinh. Thủy bên trái đảo qua bên phải xuất ra phương Đinh Mùi đất suy.

lesoi
16-10-17, 11:25
Nhắc nhở: Đây là Phương pháp Dương Công nhập sơn Tứ Cục Cách định Thủy khẩu, Tứ Mộ tứ cục là phương châm cơ bản để khảo sát thủy Lập Huyệt định Hướng.

Dương Công viết: Nhập sơn xem Thủy khẩu, thì biết Kim Long động hay bất động. Nghĩa là Tứ Mộ tứ Cục lấy Địa Hộ Thủy khẩu định Long sinh vượng cùng Thủy sinh vượng, lấy Thủy khẩu định Trường sinh là chỗ này vậy! Khởi trường sinh đế vượng ở trên Hướng là tuyệt học của Dương Công, Quách Phác truyền lại nội hàm 8 sơn là Càn Khôn Cấn Tốn, Giáp Canh Nhâm Bính, hoàn thiện luận thuật âm dương bát Sơn tứ Cục. Tôn sùng Tinh Linh Thần Vật bát sơn tự sinh tự vượng, Long ở Tứ duy bát thần chính là chỗ thiên nhiên sinh ra, lực Long hùng mà dũng, hiệu ứng tốt, phù hợp với học thuyết Bát Quái Bát Long Dịch Kinh. Trong Tứ Cục Tứ Mộ, phàm Long chỉ có thể thủ lấy Lục Long là Dưỡng, Sinh, Mộc dục, Quan đái, Lâm quan, Đế vượng, cho nên Dương Công viết là: Kim Long. Phàm Long không thể thủ lấy Lục Long là Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai.

lesoi
16-10-17, 12:13
Dương Nhận Lộc Đường Thủy khẩu

Chân quyết Thủy pháp Dương Công hẳn phải là có thầy truyền lại, không phải chân quyết thầy truyền lại, tất định là bị nói lừa, bởi vì đại sư thường là không truyền lại cho người bên ngoài, chỗ nói bên trên cũng không hả là mượn danh Dương Công đủ nói gạt. Phép Thủy khẩu Dương công là lấy Chân Long Chân Huyệt làm Thể, Tiêu sa Nạp thủy làm Dụng. Nếu chỉ vì ở Lập Huyệt mà thu Sa thu Thủy, không quan tâm đến Long huyệt chân giả, thì rơi vào phép tắc bỏ gốc lấy ngọn. Không lấy được Chân Long, Sa Thủy đều không phải là chỗ dùng cho ta, mặc dù làm được Tiêu sa Nạp thủy vô cùng khéo léo, cũng chỉ phí công. Tất cả họa phúc, đều là ở trên Chân Long huyệt, thu sơn xuất sát. Nếu như Long không chân, huyệt không đích, không thu được Sơn đến, xuất không được Sát đi, chân đế của "Loan Đầu là Thể, Lý Khí là Dụng". Nếu như có thể nắm chắc Thủy pháp Dương Công phân ra "Dương Nhận, Lộc đường", toán là nắm chắc sơ bộ phép thu phóng thủy phong thủy Dương Công, nhưng trong đó lại còn có Bát Sát, Hoàng Tuyền, cùng phép Hoàng Tuyền Cứu bần, nếu như có thể nắm chắc chính xác, phú quý vinh hoa đều ở hết trong đó. Phép Thủy khẩu Dương công, tinh giản nhanh gọn, lập biện chân giả. Thư Hùng phối hợp, Âm Dương giao cấu, chính là huyền quan của "Phép Thủy khẩu Dương Công". Chỗ nói giao cấu, chính là nói mọi vật tự có đủ tính Thư Hùng (đực cái). Lý lẽ Thư Hùng cùng Sơn Thủy tương ứng mà sinh vượng, như " Sơn Càn hướng Càn thủy lưu Càn, phong Càn xuất Trạng nguyên" là vậy.

lesoi
16-10-17, 12:34
Chính thần Linh thần Thủy khẩu

Thủy Khẩu
Chính thần chính vị trang, tức là phải lấy " Đỉnh Long" sắp xếp ở trên vị trí Chính thần, Sơn phong bên trong phương vị Chính thần phải trăm Bộ (Đơn vị đo độ dài xưa, một Bộ bằng 5 thước) mới thành Long khí, còn Thủy phương vị Linh là dặm, thì bất luận là mặt thủy rộng hay hẹp, nguồn thủy dài hay ngắn, chỉ cần có thể thấp Không mà không bị Điền thực, thì có thể luận là cát tường. Sơn Long là phép dùng như vậy, Thủy Long cũng là phép dùng như vậy, nguyên lý giao cấu, là lấy Bất Biến ứng vạn biến, dụng ở đâu cũng đều chuẩn."Sơn thượng Long Thần bất hạ thủy, Thủy lý Long Thần bất thượng sơn" là Diệu quyết thiên cơ của Thủy khẩu phong thủy Dương Công. Các loại lý luận như "Tuyệt địa quyết", "Bần đơn tuyệt", "Thành Môn quyết" "Ngọc Liễn kinh" "Môn Lâu kinh", là Phép Thủy khẩu Dương Công, huyền cơ của tạo hóa âm dương.

Trung Hỏa Tinh Thủy khẩu
Lý luận "Ai tinh"trong Thủy pháp Dương Công là chỉ Tinh khí Tam nguyên Cửu vận vượng suy được mất; lấy "Bài sơn chưởng quyết" để định."Trung tinh" "Hỏa tinh" thuận nghịch lại là một bí quyết của phép Thủy khẩu Dương Công, "Trung tinh quy khố vĩnh đại hưng, Hỏa tinh quy khố vĩnh thế quý" là vậy. Sơn Thủy hợp âm dương hữu tình, 28 tinh tú làm Dụng, Long Sa Hướng Thủy phối hợp nhau, mới có thể xưng là "Phép Thủy khẩu Dương Công" .

Tiến thần Thủy khẩu
Phép Thủy khẩu Dương Công viết: Bên trong Minh Đường đất phải bằng phẳng, bên trong Minh Đường có tích thủy, đầu nhất san bằng thoải mái là quý. Chân Long huyệt chính mà lập hướng sai, sau khi chôn cất có thể phát đạt như nhau, tuy phát đạt được công danh, nhưng có tai họa ẩn trắc, là do đâu chứ? Là bởi vì Thủy pháp sai lầm, phạm phải hướng "Dương Nhận" "Lộc Đường", trên hướng cát khí không thu vào được, thủy đến và đi ở trên hướng không thể làm chỗ cho ta dụng, Thủy chủ Tài lộc, Lộc tức là phụng lộc Quan lộc, Quan lộc không phải là chỗ dùng cho ta, sao không bị mất quan chứ? Chân Long chân Huyệt đắc vận lại còn là hướng Thủy pháp cát, mới có thể "Thúc Tài thúc Quý". Thế nào là hướng cát chứ? Một là không phạm"Hoàng Tuyền diệu sát", hai là không phạm"Dương Nhận Lộc đường", Ba là Sa Thủy phải "Sinh nhập Khắc nhập". Như vậy sau đó lại lấy Bát Quái luận cát hung, một quái thuần thanh là đại cát, nhị quái mà kiêm sinh vượng có thể phú quý, tam quái là tạp khí không cát.

lesoi
16-10-17, 13:11
Thất Tinh Đả Kiếp Thủy khẩu

Bát Quái Tiên thiên giảng: Thiên Địa định vị, Sơn Trạch thông khí, Lôi Phong tương bạc, Thủy Hỏa bất tương xạ. Xác định một mô thức lập thể hoàn cảnh, tự nhiên cùng hiện tượng tự nhiên.
Bát quái Hậu thiên nói: Khảm Ly định nam bắc, đế xuất hồ Chấn.
Một là nói phương vị đất bằng, một là nói chỗ vận hành thiên thể sản sinh quy luật biến hóa khí hậu. Địa lý học, căn cứ chỗ Bát Quái Hậu thiên nói quy luật, ở trong mô thức lập thể Bát Quái Tiên thiên, tìm kiếm chỗ hoàn cảnh địa lý và phương vị đất bằng con người ở. Cho nên Địa lý "Thành Môn nhất quyết", nói tìm Tiên Hậu thiên cùng dụng với nhau. Quan điểm ở trên, hẳn phải là thuộc về phạm trù hình thế, Hình thế gia từ bên trong Bát quái Tiên Hậu thiên tìm kiếm căn cứ lý luận. Chẳng qua là phối hợp toàn bộ hình thế xung quanh sơn thủy (giống như Đồ hình con cá âm dương ở trong Thái cực đồ), kết hợp quy tắc Thiên nguyên Long lập Thiên nguyên hướng. Khảo sát rất nhiều mộ phần xa xưa, cũng là chế tác như vậy. Từ xưa đến nay mặt đất đều có lưu tồn, tại sao vậy? Nguyên vận không phù hợp vậy. Đây là nội dung chủ yếu trong《 Ngọc Hàm 》 coi trọng. Chỗ nói chân truyền một câu nói, vạn quyển thư truyền bậy, người có duyên mới có thể được. Bí quyết Dương Công "Thất Tinh Đả kiếp" nói: " Nguyên khí Bắc Đẩu ở trên trời hóa dục vạn vật vậy, chuôi Đẩu chỉ thiên hạ mùa đông đều là xuân... Âm Dương nhị trạch ở Vi nguyên mà phát đinh tài..." .

Văn Xương Thủy khẩu
"Nhất Bạch thủy, là Khôi tinh sinh vượng, thiếu niên khoa giáp, danh bá tứ hải, đa số sinh nam tử thông minh trí tuệ, ... Tứ Lục mộc, là Văn Xương, sinh vượng văn chương danh thế, khoa giáp liên phương, nữ tử dung mạo đoan trang, liên nhân quý tộc." 《 Huyền cơ phú 》 viết: "Khảm nguyên sinh khí, đắc Tốn mộc nhi phụ sủng liên hoan", "Danh dương khoa giáp, Tham Lang tại Tốn cung", "Mộc nhập Khảm cung, hoàng trì thân quý" . 《 Tử Bạch quyết 》 viết: "Tứ Nhất đồng cung, chuẩn hiển phát khoa danh" ."Tứ Lục là thần Văn Xương, chức ti lộc vị; Nhất Bạch ứng là Quan tinh, chủ tể văn chương. Hoàn cung phục vị cố giai, giao hỗ điệp phùng diệc mỹ." 《 Địa Lý tinh toản 》 viết: "Nhất Tứ đồng cung chủ khoa danh, hào thanh vân đắc lộ, hữu Văn bút nghiễn trì thủy, đỉnh nguyên chi triệu dã" . Những chỗ luận thuật này, đều biểu thị rõ tác dụng của vị trí Văn Xương là chuẩn phát khoa danh. Xã hội hiện đại lấy thủ khoa văn chương, văn chương cái thế, tức là có thể thanh vân đắc lộ, cho nên ở vị trí Văn Xương là đi học, là rất có tác dụng.
Vị trí Văn Xương có hai loại là cố định và theo vận mà chuyển. Theo cố định mà nói, địa bàn Tốn cung, chính là vị trí Văn Xương. Tốn ở góc Đông Nam, ở góc này đi học, có thể được Văn Xương trợ giúp. Theo Trạch mà nói, Khôn trạch, vị trí Tốn được Tứ Nhất đồng cung. Nếu lập vận 2 hướng Khôn Cấn, vị trí Tốn được Tứ Tứ Nhất, Văn Xương tinh phục vị hoàn cung. Đồng thời, vị trí Khảm cũng được Nhất Nhất Tứ, Khôi tinh văn chương cũng phục vị hoàn cung. Hai vị trí này đối với người đi học là hết sức tốt. Còn có, cung Đoài cũng có Nhất Tứ đồng cung, đối với người đi học cũng rất có lợi. Cho nên, vận 2 người được Khôn trạch, trong nhà tất có nhân tài nỗi danh xuất thế. Cấn trạch, vị trí Khảm được Nhất Tứ đồng cung, nếu như lập ở vận 8 hướng Cấn Sơn Khôn, vị trí Khảm được Nhất Nhất Tứ, Khôi tinh văn chương phục vị hoàn cung. Đồng thời, Tốn cung cũng được Tứ Tứ Nhất, Văn Xương tinh cũng phục vị hoàn cung. Ở hai vị trí này đối với người đi học là hết sức tốt. Còn có Đoài cung cũng có Nhất Tứ đồng cung, đối với người đi học cũng rất có lợi. Tra theo phương pháp vận biến chuyển đi tìm Nhất Tứ đồng cung, cũng không khó, mỗi sơn hướng Trạch, đều có vị trí Văn Xương, chỉ qua là tổ hợp có khác một chút mà thôi.

lesoi
16-10-17, 13:12
Bát Sát Hoàng tuyền Thủy khẩu
Phép Thủy khẩu Dương Công là chỉ phong thủy Dương công ở trong quá trình thao tác thực tế đối với phương pháp thao tác điều chỉnh Sơn Thủy, chủ yếu là căn cứ 24 sơn La bàn để suy định cát hung. "Sơn Càn Hướng Càn thủy triều Càn, Càn phong xuất Trạng nguyên; Sơn Mão hướng Mão nguyên thủy Mão, phú quý sánh Thạch Sùng, sơn Ngọ hướng Ngọ đến Ngọ đường, đại tướng giữ biên cương; sơn Khôn hướng Khôn thủy lưu Khôn, phú quý mãi không ngừng". Thơ này rõ ràng là xác minh Yếu quyết Thủy khẩu của phong thủy Dương công Bát Quái Tiên Hậu thiên phối nhau. Lại như: "Bát Sát Hoàng tuyền Thủy pháp", "Cứu Bần Hoàng Tuyền thủy pháp", "Cửu tinh Thủy pháp". Thơ nói: "Nhâm sơn thương thương Thủy vân vi, Long đối ma phường nhất đồng tầm, vi vi hữu lộ nhân điếu tử, nhược hữu viên đôn thực dược nhân, vi vi hữu thụ đầu thượng chi, vi vi hữu kiều xuất tiên nhân, vi vi hữu thạch cao chiếu phá, lưỡng cung tương hội phá gia đình.", "Dương Nhận Lộc đường Thủy pháp" thì nói: "Dương Nhận lai thủy kiến hoa hưu, Thủy lưu tật bệnh sản hạ ưu...". Phép Thủy khẩu Dương Công là chỗ tinh hoa của Phong thủy Dương Công.

(Hết)