View Full Version : Thước chuẩn về Tiêu Sa nạp Thủy Âm trạch
Thước chuẩn về Tiêu Sa nạp Thủy Âm trạch
Tiêu Sa nạp Thủy, chính là thẩm xét tất cả Phong Sa, Nhập thủ Long ở bên trong Minh Đường, cùng dòng nước chảy đi, theo quan điểm hiện đại nói còn bao gồm cả Dương trạch. Tiêu Sa nạp Thủy là theo Minh Đường tuyển chỉ tức là điểm huyệt mà tiến hành, tuyển chỉ điểm huyệt là dựa vào Tiêu sa Nạp thủy mới có thể tuyển chọn, loại tuyển chọn này xưng là Dự tuyển, sau khi thông qua Lai Long chứng Huyệt mới có thể định Huyệt.
Chỗ nói Lai Long chứng huyệt, chính là từ dự tuyển mộ huyệt hoặc là khởi móng nhà, theo Tổ sơn thẩm Long nhập thủ Long tùy theo Long Thủy cùng Lai Long bác hoán theo đuổi đoạn Long lui tới, tức chỗ tục xưng là Truy Long mạch, đến tận ngọn núi cao nhất theo khởi nguồn của Long Thủy, tức là Tổ sơn lai Long, những thuật địa lý khác nói Long mạch Trung quốc là khởi nguồn từ núi Côn Lôn, là sai lầm, là vẽ rắn thêm chân.
Thẩm Long, chính là thẩm sát sinh khí của Lai Long, sinh khí là thổ sinh ra, sinh khí lại sinh thủy, cho nên theo khởi nguồn của Long Thủy chính là khởi nguồn sinh khí của Lai Long, cũng chính là khởi nguồn Long khí của Lai Long, không có cần cái gì là Thiều Tổ sơn Tằng Tổ sơn Thái Tổ sơn Phụ Mẫu sơn Thai Tức sơn, khiến cho quá phức tạp, huống chi khởi Tổ sơn mạch Trung quốc vẫn không phải là núi Côn Lôn, mà là dãy núi Hi Mã Lạp sơn, bởi vì khởi nguồn của sông Trường Giang và Hoàng Hà đều là ở dãy núi Hi Mã Lạp sơn. Sau khi Lai Long chứng huyệt, kết hợp tuyển chỉ tình huống Tiêu Sa nạp Thủy là có thể định huyệt.
Định huyệt, Chính là xem Minh Đường xuất ra Thủy khẩu phải chăng là phù hợp sinh khí Lai Long, cũng chính là xem Đường khí phải chăng là cùng Long khí là ở cùng một quẻ. Đường khí là ngoại khí, Long khí là nội khí, mà lấy nội khí làm chủ, nếu như ngoại khí có thể tiếp xúc với nội khí, tức là Đường khí hợp Long khí, đó chính là chân Long huyệt, nếu không là Chân Long giả huyệt hoặc là Giả Long chân Huyệt. Vì vậy, tuyển chỉ cần phải tiêu sa nạp thủy, định huyệt cũng cần phải tiêu sa nạp thủy. Thuật Địa lý cổ pháp của 3 họ Quách, Dương, Tăng mặc dù là lấy đón nội khí làm chủ, thủ đoạn ở thuật địa lý đón sinh khí, mà còn lấy tiếp xúc với ngoại khí làm trọng, bởi vì Đường khí là Dương trạch hoặc là Âm trạch tất cần phải thích ứng với hoàn cảnh tự nhiên xung quanh bên ngoài, cho nên cát và hung của Dương trạch hoặc Âm trạch, là phải lấy hoàn cảnh tự nhiên xung quanh bên ngoài để quyết định, cho nên tiêu sa nạp thủy là công phu trọng yếu hàng đầu của Thuật Địa lý.
(Một) Thước chuẩn của tiêu Sa nạp Thủy
Đây là thước đo chuẩn của Sa Thủy, chính là chỗ mọi người đã quen thuộc đó là thập nhị cung Trường sinh. Thập nhị cung Trường sinh là: Trường sinh, Mộc dục, Quan đái, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng. Sinh khí là nguồn gốc phát sinh vạn vật, vạn vật có sinh mệnh, có quá trình từ khi sinh ra cho đến chết đi. Vạn vật không có sinh mệnh, cũng có quá trình từ có đến không hoặc là sản phẩm từ khi xuất xưởng cho đến khi vứt đi hoặc là hủy diệt. Thập nhị cung Trường sinh chính là thước đo tiêu chuẩn của quá trình tuần hoàn để đánh giá vạn vật từ Sinh đến Tử, từ Có đến Không có. Hàm nghĩa của Thập nhị cung Trường sinh là:
Lấy sinh mệnh con người mà nói:
+ Thai cung, thụ Sinh khí thành Thai.
+ Dưỡng cung, là thành hình ở bên trong Thai.
+ Trường sinh, con người rời khỏi thai bắt đầu sinh.
+ Mộc dục, sau khi sinh ra 3 ngày thì tắm rữa cơ thể mềm yếu.
+ Quan đái, vạn vật dần dần tươi tốt xinh đẹp, người có đủ áo mũ.
+ Lâm quan, tới thời kỳ con người làm quan.
+ Đế vượng, là thời kỳ cuộc đời con người hưng vượng nhất.
+ Suy cung, là bắt đầu suy lão.
+ Bệnh cung, thời kỳ con người già nua mà sinh bệnh.
+ Tử cung, thời kỳ sinh mệnh con người tử vong.
+ Mộ khố, sau khi người chết đi thì mai táng nhập mộ.
+ Tuyệt cung, tuyệt xứ phùng sinh, bắt đầu sinh ra khí mới.
Lấy quá trình vạn vật sinh trưởng mà nói:
+ Thai cung, thiên địa khí (sinh khí) giao, hòa hợp tạo vật, vạn vật manh nha ở trong đất.
+ Dưỡng cung, vạn vật thành hình ở trong đất.
+ Trường sinh, vạn vật phát sinh hướng vinh.
+ Mộc dục, vạn vật bắt đầu sinh ra, hình thể giòn yếu, dễ bị tổn hại.
+ Quan đái, vạn vật bắt đầu vinh hoa tú lệ.
+ Lâm quan, vạn vật vinh hoa tú lệ vững chắc, vạn vật bắt đầu thành thục.
+ Đế vượng, thời kỳ vạn vật đã thành thục.
+ Suy cung, hình thể vạn vật suy yếu.
+ Bệnh cung, vạn vật bệnh, bắt đầu hủ bại.
+ Tử cung, vạn vật đã vào diệt vong.
+ Mộ cung, vạn vật phế bỏ, hoặc là thu tàng.
Lấy thời gian mặt trời chiếu ngày đêm mà nói:
+ Thai cung, từ 23 giờ đến 1 giờ sáng.
+ Dưỡng cung, một giờ đến 3 giờ.
+ Trường sinh, 3 giờ đến 5 giờ.
+ Mộc dục, 5 giờ đến 7 giờ.
+ Quan đái, 7 giờ đến 9 giờ.
+ Lâm quan, 9 giờ đến 11 giờ.
+ Đế vượng, 11 giờ đến 13 giờ.
+ Suy cung, 13 giờ đến 15 giờ.
+ Bệnh cung, thập ngũ chí thập thất thì,
+ Tử cung, 15 giờ đến 19 giờ,
+ Mộ cung, 19 giờ đến 21 giờ.
+ Tuyệt cung, 21 giờ đến 23 giờ.
Lấy theo bộ sinh khí Long thủy mà nói:
+ Dưỡng cung, thổ đi khí đi, phát sinh vạn vật.
+Trường sinh, thủy triều Minh Đường vạn vật bắt đầu sinh sôi.
+ Mộc dục, vạn vật bắt đầu sinh sôi, sinh khí giòn yếu.
+ Quan đái, vạn vật dần dần hưng vinh, sinh khí dần dần vượng.
+ Lâm quan, thời kỳ đầu sinh khí lâm vượng.
+ Đế vượng, thời kỳ sinh khí chính vượng.
+ Suy cung, sinh khí dần dần suy nhược.
+ Bệnh cung, thời kỳ sinh khí suy nhược lâm bệnh.
+ Tử cung, sinh khí không có năng lực sinh trưởng.
+ Mộ khố, Thủy khẩu thứ nhất, sinh khí nhập mộ, tức là theo Long Thủy xuất ra Minh Đường.
+ Tuyệt cung, Thủy khẩu thứ hai, sinh khí tuyệt mệnh phùng sinh.
+ Thai cung, Thủy khẩu thứ 3, thổ đi khí đi, sinh khí mới bắt đầu manh nha. Tức là bắt đầu đấu tranh sinh ra khí âm dương mới.
Lấy xung quanh Minh Đường mà nói (Thiết lập chu vi xung quanh Minh Đường là 360 độ):
+ Mộ cung, Thủy khẩu thứ nhất, từ 0 độ đến 30 độ.
+ Tuyệt cung, Thủy khẩu thứ 2, từ 31 độ đến 60 độ.
+ Thai cung, Thủy khẩu thứ 3, từ 61 độ đến 90 độ.
+ Dưỡng cung, từ 91 độ đến 120 độ.
+ Trường sinh, từ 121 độ đến 150 độ.
+ Mộc dục, từ 151 độ đến 180 độ.
+ Quan đái, từ 181 độ đến 210 độ.
+ Lâm quan, từ 211 độ đến 240 độ.
+ Đế vượng, từ 241 độ đến 270 độ.
+ Suy cung, từ 271 độ đến 300 độ.
+ Bệnh cung, từ 301 độ đến 330 độ.
+ Tử cung, từ 331 độ đến 360 độ.
Quách Phác 《 Táng Thư 》 nói: "Táng, là đón sinh khí vậy." Thuật địa lý cổ pháp của 3 họ Quách, Dương, Tăng, chính là căn cứ 《 Táng Thư 》"Táng đón Sinh khí" cùng lý luận chỉ đạo "Chu Tước là ngọn nguồn Sinh khí, ở lúc chưa thịnh, hướng về đại vượng, sông còn đang suy, chảy ở tù tạ", thực tiễn ở trong thuật địa lý sáng chế thập nhị cung Trường sinh, dùng để làm thước đo lường sinh khí vượng tướng hưu tù, lấy Thai Dưỡng Sinh Quan Lâm Vượng làm Lục tú, Sinh Lâm Vượng là Tam Cát, tứ Tử cung là hoàng tuyền, Bát Mộ Tuyệt làm Bát Sát, để nghênh sinh tiếp vượng là cát, phá vượng xung sinh là Hung.
(Hai) Thuật địa lý Cổ pháp Tân pháp của 3 họ Quách Dương Tăng về Tiêu sa Nạp thủy
Thuật địa lý Quách Dương Tăng căn cứ 《 Chu Dịch • Phồn Từ truyện 》"Dịch có Thái Cực, là sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng" lấy vị trí Quẻ ở Hậu thiên, 4 quẻ Khảm Ly Chấn Đoài, phân ra làm 4 cục thủy hỏa kim mộc, lấy chính kim 12 chi Thìn Tuất Sửu Mùi cung làm 4 cục Minh Đường xuất Thủy khẩu, gọi chung là Thủy khẩu, hoặc là Tứ đại thủy khẩu.
+ Thủy khẩu Thủy cục, nằm ở đông nam, Mộ khẩu thứ nhất Thìn cung, Tuyệt khẩu thứ 2 Tị cung, Thai khẩu thứ 3 Ngọ cung.
+ Thủy khẩu Hỏa Cục, nằm ở tây bắc, Mộ khẩu thứ nhất Tuất cung, Tuyệt khẩu thứ 2 Hợi cung, Thai khẩu thứ 3 Tý cung.
+ Thủy khẩu Kim cục, nằm ở đông bắc, Mộ khẩu thứ nhất Sửu cung, Tuyệt khẩu thứ 2 Dần cung, Thai khẩu thứ 3 Mão cung.
+ Thủy khẩu Mộc cục, nằm ở tây nam, Mộ khẩu thứ nhất Mùi cung, Tuyệt khẩu thứ 2 Thân cung, Thai khẩu thứ 3 Dậu cung.
Chính kim 12 Chi đấu nối kim Song Sơn phối 12 cung Trường sinh:
+ Thủy cục, Mộ cung Ất Thìn, Tuyệt cung Tốn Tị, Thai cung Bính Ngọ, Dưỡng cung Đinh Mùi, Trường sinh Khôn Thân, Mộc dục Canh Dậu, Quan đái Tân Tuất, Lâm quan Càn Hợi, Đế vượng Nhâm Tý, Suy cung Quý Sửu, Bệnh cung Cấn Dần, Tử cung Giáp Mão.
+ Hỏa cục, Mộ cung Tân Tuất, Tuyệt cung Càn Hợi, Thai cung Nhâm Tý, Dưỡng cung Quý Sửu, Trường sinh Cấn Dần, Mộc dục Giáp Mão, Quan đái Ất Thìn, Lâm quan Tốn Tị, Đế vượng Bính Ngọ, Suy cung Đinh Mùi, Bệnh cung Khôn Thân, Tử cung Canh Dậu.
+ Kim cục, Mộ cung Quý Sửu, Tuyệt cung Cấn Dần, Thai cung Giáp Mão, Dưỡng cung Ất Thìn, Trường sinh Tốn Tị, Mộc dục Bính Ngọ, Quan đái Đinh Mùi, Lâm quan Khôn Thân, Đế vượng Canh Dậu, Suy cung Tân Tuất, Bệnh cung Càn Hợi, Tử cung Nhâm Tý.
+ Mộc cục, Mộ cung Đinh Mùi, Tuyệt cung Khôn Thân, Thai cung Canh Dậu, Dưỡng cung Tân Tuất, Trường sinh Càn Hợi, Mộc dục Nhâm Tý, Quan đái Quý Sửu, Lâm quan Cấn Dần, Đế vượng Giáp Mão, Suy cung Ất Thìn, Bệnh cung Tốn Tị, Tử cung Bính Ngọ.
Tường thuật ở trên đều là tuần theo Dương, là lấy Âm Long khí làm chủ, thuận suy theo 12 cung Trường sinh. Long thuộc dương là Phu, Thủy thuộc âm là Thê. Vận dụng ở trong thuật Địa lý là âm tòng dương, dương không tòng âm, tức là lấy Long làm Chủ, Thủy là phụ thuộc. Thủy là tuần âm, tức là nghịch suy theo 12 cung Trường sinh. Long Trường sinh, thì Thủy Đế vượng. Thủy Trường sinh, thì Long Đế vượng.
Thập nhị cung Trường sinh phối Tứ Cục 12 cung:
+ Thủy cục, Mộ cung Thìn, Tuyệt cung Tị, Thai cung Ngọ, Dưỡng cung Mùi, Trường sinh Thân, Mộc dục Dậu, Quan đái Tuất, Lâm quan Hợi, Đế vượng Tý, Suy cung Sửu, Bệnh cung Dần, Tử cung Mão.
+ Hỏa cục, Mộ cung Tuất, Tuyệt cung Hợi, Thai cung Tý, Dưỡng cung Sửu, Trường sinh Dần, Mộc dục Mão, Quan đái Thìn, Lâm quan Tị, Đế vượng Ngọ, Suy cung Mùi, Bệnh cung Thân, Tử cung Dậu.
+ Kim cục, Mộ cung Sửu, Tuyệt cung Dần, Thai cung Mão, Dưỡng cung Thìn, Trường sinh Tị, Mộc dục Ngọ, Quan đái Mùi, Lâm quan Thân, Đế vượng Dậu, Suy cung Tuất, Bệnh cung Hợi, Tử cung Tý.
+ Mộc cục, Mộ khố Mùi, Tuyệt cung Thân, Thai cung Dậu, Dưỡng cung Tuất, Trường sinh Hợi, Mộc dục Tý, Quan đái Sửu, Lâm quan Dần, Đế vượng Mão, Suy cung Thìn, Bệnh cung Tị, Tử cung Ngọ.
Sau đây là lấy Thủy cục làm ví dụ, để thuyết minh mối quan hệ lẫn nhau giữa Long và Thủy ở 12 Cung Trường sinh.
Thuộc tính
Thứ tự
Mộ khố
Tuyệt
Thai
Dưỡng
Trường sinh
Mộc dục
Quan đái
Lâm quan
Đế vượng
Suy
Bệnh
Tử
Long
Dương
Thuận
Ất Thìn
Tốn Tị
Bính Ngọ
Đinh Mùi
Khôn Thân
Canh Dậu
Tân Tuất
Càn Hợi
Nhâm Tý
Quý Sửu
Cấn Dần
Giáp Mão
Thủy
Âm
Nghịch
Ất Thìn
Giáp Mão
Cấn Dần
Quý Sửu
Nhâm Tý
Càn Hợi
Tân Tuất
Canh Dậu
Khôn Thân
Đinh Mùi
Bính Ngọ
Tốn Tị
Còn lại hỏa kim mộc cục chiếu theo chỗ này mà suy.
Nạp thủy:
Chỗ nói Nạp thủy nghĩa là, Nạp là quy nạp hoặc là nạp vào. Chính là nắm tất cả chỗ bên trong Minh Đường có thủy triều Đường, đều nạp vào Long khí. Cũng chính là lấy Long làm chủ, Long thuộc dương, là thể hiện âm tòng dương, dương không tòng âm, cho nên cùng với Long đều là thuận tuần 12 cung Trường sinh, Mộ khố tức là Thủy khẩu Long khí ở đất hưu tù, tất cả thủy triều Đường cũng đi theo cùng quy về Mộ khố, tức là miệng nước chảy. Cho nên, thẩm sát cung vị triều Đường của thủy triều Đường, là bắt đầu từ Thủy khẩu.
Cụ thể phép làm là, người tiến hành quan sát lập Huyệt tràng và quan sát Thủy khẩu như nhau, từ trái đến phải hoặc là từ phải đến trái, quan sát từng nhánh vào Thủy khẩu đem tất cả thủy triều Đường ở bên trong Minh Đường, chỗ chiếm ở cung vị của 12 cung Trường sinh. Nếu như thủy đến chiếm là cung Trường sinh, thì xưng là Thủy Trường sinh. Chiếm là cung Đế vượng, thì xưng là Thủy Đế vượng. Chiếm là cung Bệnh, thì xưng là Thủy Bệnh...
Cần chú ý là, sử dụng La bàn quan sát nhắm trúng điểm vào Thủy khẩu, tất cần phải ở đường mức cùng điểm giao nhau giữa dòng chảy nước chảy đến vào Thủy khẩu chỗ đất đang làm móng nhà hoặc là đáy quan tài của mộ phần. Chỗ thủy đến chiếm cung vị là phải đấu nối với kim cung vị song sơn. Không có cái gì là phân biệt thiên can địa chi cả, chỗ này ở trên đã nói rõ ràng rồi. Đấu nối với kim song sơn là đồng cung cùng với chính kim của 12 chi, thiên can địa chi đều là như nhau, ví dụ như Thủy cục Trường sinh ở cung Khôn Thân, nếu như triều đường đấu kim ở Thân cung, tất nhiên xưng là Thủy Trường sinh, nếu triều đường ở cung Khôn, đồng dạng cũng xưng là Thủy Trường sinh.
Chỗ nói Thuyết pháp Song sơn Tam hợp ngũ hành Trường sinh của Vương Triệt Oánh thời nhà Minh, Triệu Cửu Phong thời nhà Thanh là: "Khứ thủy nghi xuất thiên can, bất nghi lưu địa chi." Lý do chủ yếu của họ là, thủy đến từ trên trời, cũng ứng với chảy từ trên trời. Chỗ này là không có căn cứ. Đấu nối kim song sơn, thiên can và địa chi là đồng cung với chính kim 12 chi, không có cái gì là phân biệt. Nếu nói có sự khác biệt, chỉ có thể cho là song sơn thiên can địa chi ranh giới đấu nối với chính kim chính là điểm vượng khí của khí 12 chi, thiên can ở trước, là sơ khí và vượng khí của 12 chi. Địa chi ở sau, là khí hưu tù của 12 chi. Nếu theo đạo lý của 《 Táng Thư 》"Chu Tước chảy vào tù tạ", ứng với nước chảy đi ra phải từ phương địa chi hưu tù đi ra, lý do nước chảy từ thiên can là không có chân đứng được. Đồng thời, nước chảy từ thiên can, cũng không thể thuyết minh là nước đi từ trên trời.
Giám định Nạp thủy cát hung (phán đoán)
Thuật địa lý cổ pháp của 3 họ Quách, Dương, Tăng là khoa học cổ đại, tồn tại lý luận là phù hợp với tự nhiên khách quan. Theo quan điểm khoa học hiện đại để đánh giá, ngoại trừ bộ phận huyền học Nhật gia ra, còn lại đại bộ phận là phù hợp với khoa học hiện đại. Theo cách Long đón khí mà nói, chỉ cần là cách Long chuẩn xác, bất luận là ở bình nguyên hay là sơn địa, chỗ lập hướng là đồng hành ăn khớp cùng với lớp nhăn của vỏ trái đất. Đây là có liên quan cùng với nguồn gốc của lớp vỏ trái đất, ảnh hưởng cùng với các loại như lực vạn vật hấp dẫn, lực hút quả đất, từ trường địa cầu, tầng khí quyển là có đủ tính liên quan mật thiết. Đây là chỗ lĩnh hội của tôi đã hơn 10 năm thực tiễn về thuật địa lý. thuật nạp thủy địa lý cổ pháp của Quách Dương Tăng, hoàn toàn lấy hoàn cảnh khách quan tự nhiên làm điều kiện tiên quyết, tồn tại khách quan của vấn đề nạp thủy là lấy tất cả chỗ nước chảy ở bên trong Minh Đường làm căn cứ, ví dụ như triều Đường Thủy sinh, ở Thủy Long tất là phải có đủ nước chảy triều vào từ chỗ nối kim song sơn ở cung Khôn Thân, tức phương vị triều Đường có vĩ độ La bàn là từ 105 độ đến 135 độ. Ở Hỏa Long tất phải có đủ nước chảy triều Đường nối kim song sơn từ cung Cấn Dần, tức trong phạm vi triều đường ở vĩ độ La bàn là từ 280 độ đến 315 độ, mới có thể xưng là triều đường thủy sinh. Pháp tắc của họ Vương Triệu nói song sơn tam hợp ngũ hành Trường sinh là không phải, chỗ nói "Sinh lai hội Vượng", chỉ cần có thủy đảo sang trái, lập hướng sinh, thì gọi là Sinh lai hội Vượng, lý do là lập hướng sinh không có khách quan sinh thủy thì gọi là sinh thủy, mà trên lý luận khí thủy là xoay bên phải, Long trường sinh thì thủy đế vượng, cho nên gọi là Sinh lai hội Vượng. Đương nhiên, ở đây là giới thiệu ở phương diện lý khí nạp thủy, về phần phương diện hình pháp, quý ở du dương thanh triệt, kỵ ở hỗn trọc. Quý ở uốn khúc có tình, khinh ở trực lưu mà kỵ ở xung huyệt. Quý ở nguồn xa chảy dài mà khinh ở lưu lượng là nhỏ.
Tiêu Sa:
Tiêu Sa, tức là Tiêu Phong, Phong và Sa là không có phân biệt, nhưng mà xưng là Long Hổ sa, nhưng sẽ không xưng là Long Hổ phong, tựa như Sa so với Phong phải thấp hơn một chút. Tiêu Sa, chính là Tiêu Nạp phong sa, ý cũng là thẩm xét Phong Sa. Thuật địa lý cổ pháp của 3 họ Quách, Dương, Tăng, Tiêu sa và Nạp thủy giống như là sử dụng đấu kim Song Sơn, thuật địa lý tân pháp có dùng đấu kim Song Sơn, cũng có sử dụng Tâm kim, nhưng họ Vương Triệu dùng trong phép song sơn tam hợp ngũ hành trường sinh và thuật địa lý khác đều dùng tâm kim, bởi vì những thuật địa lý khác khi Tiêu Phong đại đa số là dùng ngũ hành nhị thập bát tú, ngũ hành nhị thập bát tú chỉ phù hợp với Tâm kim mà không phù hợp với Đấu kim và Chính kim, trước đây đã có nói qua. Đầu tiên phải hiểu rõ khái niệm Tiêu Sa là gì? Chỗ gọi là Tiêu Sa là sức nhìn có thể cùng triều ứng Sa tiêu nạp bên trong Minh Đường.
Tại sao gọi là Triều ứng Sa chứ? Triều ứng Sa chính là Khách Sa, là khí ở bên ngoài Sa, còn phong Sa lai Long là Chủ sa, là nội khí của phong Sa. Chỗ này có phân chia Chủ và Khách, sức nhìn ở trong Minh đường cùng chỗ phong Sa, trong đó cũng có rất nhiều là chi nhánh của lai Long, phải chăng là thuộc về Chủ Sa chứ? Vấn đề này tuyệt đại đa số thuật địa lý e rằng cũng không thể hiểu rõ, phàm là chỗ người nói "Bên trái là Thanh Long, bên phải là Bạch Hổ", chính là không phân rõ Chủ sa hay Khách Sa. Phương pháp đơn giản nhất để phân rõ chủ khách Sa, chính là xem nước chảy ở bên trong Minh Đường, phàm là cùng phong sa của Huyệt tràng có nước chảy tách rời ra, đều là Khách Sa. Phàm là nhập thủ phong sa cùng lai Long mà không có nước chảy tách ra, đều là Chủ Sa. Đương nhiên, đều là thuộc về nội khí, tức là Long khí. Nói đến chỗ này, thì có thể phân biệt Thanh Long Bạch Hổ.
《 Táng Thư 》 nói: "Long Hổ sở dĩ vệ khu huyệt", cho nên, Long Hổ là bảo vệ Huyệt tràng, là tướng sĩ ở trong bàn cờ, là viên quan cảnh vệ tham mưu. Tất cần phải là thân cận với huyệt vị. Là cùng một loại sinh khí. Là cùng một nhánh đi theo Long Thủy. Phàm thuộc loại có nước chảy đến cùng Huyệt vị tách ra, không theo cùng phong sa Long Thủy, đều thuộc về Triều ứng Sa. Thanh Long Bạch Hổ, chính là chi nhánh nhập thủ Long, mà nước chảy cùng Huyệt vị không có tách ra, bên trái thì xưng là Thanh Long, bên phải thì gọi là Bạch Hổ. "Thanh Long bất phạ cao vạn trượng", câu nói này cũng là không đúng, Thanh Long Bạch Hổ đều không thể có cao vạn trượng, phong sa cao vạn trượng thì không phải là Thanh Long Bạch Hổ. Bởi vì nó không thể bảo vệ khu vực huyệt. Mục đích bảo vệ khu vực huyệt là ngăn phòng sinh khí theo gió mà đi, tức là ngăn phòng sinh khí khuếch tán. Cao vạn trượng thì thu nhỏ Minh Đường, thì thiếu ngoại khí, thì giảm bớt lực lượng "Chỗ lấy Ngoại khí để tụ Nội khí", giá trị loại huyệt vị này thì không lấy. Nếu như Long Hổ đều thấp hơn Huyệt vị, tiền đường thì to rộng, triều ứng thủy và triều ứng phong sa thì nhiều, thì ngoại khí lớn, thì Long Hổ tương ứng có thể bảo vệ khu vực huyệt. Cho nên nói "Thanh Long bất phạ cao vạn trượng" là không chính xác.
Triều ứng Sa, chính là đối tượng Tiêu Phong của Thuật địa lý cổ pháp Quách, Dương, Tăng, 《 Ngọc Xích kinh • Trục Cát phú 》 chính là lý luận chỉ đạo Tiêu phong, 12 cung Trường sinh là thước đo chuẩn mực của vấn đề Tiêu Phong, đấu kim Song Sơn chính là phương vị của Tiêu Phong. Từ 《 Trục Cát phú 》 có thể nhìn ra, Tiêu Sa là sử dụng thiên can đấu kim Song Sơn, mà không có chỉ địa chi, còn nạp thủy đối với đấu kim song sơn là thiên can địa chi không có phân biệt, là nó có đạo lý nhất định, chỗ này là Dương Quân Tùng lấy được tâm đắc từ trong thực tiễn của thuật địa lý, có thể suy nghĩ đến, tiêu Sa nạp Thủy, là khí Đường, là hoàn cảnh tự nhiên ở bên ngoài, tia sáng Thái Dương ảnh hưởng đối với hoàn cảnh tự nhiên ở bên ngoài là rất lớn, chiều cao cuả Phong Sa ở bề mặt địa cầu so với nước chảy cao hơn nhiều lắm, chiều cao nước chảy ở bề mặt địa cầu là rất thấp, vạn vật đầu tiên được ánh sáng thái dương chiếu chính là Phong Sa, phương vị nối kim với song sơn, chính là phương vị mặt trời chiếu, cho nên Tiêu Sa nạp Thủy dùng nối kim, chính là đạo lý này. Mà nối kim song sơn, thiên can so với địa chi đầu tiên phải được ánh sáng chiếu, cũng chính là nói sinh khí thiên can là đồng cung sinh khí từ sơ khí đến vượng khí, địa chi là đồng cung sinh khí từ suy khí đến hết khí, chính là nói sinh khí thiên can phải vượng hơn so với sinh khí địa chi. Mà chiều cao nước chảy là rất thấp, chịu ánh sáng mặt trời chiếu xa hơn rất nhiều so với phong sa, vì vậy mà thuật địa lý cổ pháp của Quách Dương Tăng đối với phương vị nước chảy, chỉ lấy song sơn đồng cung, mà không có phân chia thiên can và địa chi.
Thuật địa lý cổ pháp của Quách Dương Tăng đối với Tiêu Sa và Nạp Thủy là như nhau, lấy 12 cung Trường sinh có 3 cung Trường sinh, Lâm quan, Đế vượng là Tam Cát. Lấy 6 cung Thai, Dưỡng, Trường sinh, Quan đái, Lâm quan, Đế vượng là Lục Tú. Tam cát Lục tú là dựa vào Long khí, phương vị mà biện chứng. 4 chi Tý Ngọ Mão Dậu, là 4 cung Thai, Mộc, Vượng, Tử. 4 chi Sửu Mùi Thìn Tuất, là 4 cung Mộ, Dưỡng, Quan, Suy. 4 chi Dần Thân Tị Hợi, là 3 cung Tuyệt, Sinh, Lâm, Bệnh. Trong Lục Tú, thì Nhị tú Thai Vượng chiếm phương Tý Ngọ Mão Dậu, Nhị tú Dưỡng Quan chiếm phương Mùi Sửu Thìn Tuất, Nhị tú Sinh Lâm chiếm phương Dần Thân Tị Hợi. Hơn nữa Sinh Vượng Mộ, Mộc Suy Tuyệt, Quan Bệnh Thai, Lâm Tử Dưỡng xâu hợp các góc 3 phương mà chia. Tứ Long Lục Tú đều phân ra ở 12 cung Chi, mỗi cung có nhị tú chiếm, đối xứng với nhau, tiền đường cân đối tự nhiên quan cảnh tú lệ. Tất cả Quái lệ trong thuật địa lý đều là chủ quan bởi đem xếp sơn hoặc đem Cửu cung ở trên bàn tay quyết định cát hung, hơn nữa còn là phương vị cố định. VD như quẻ phụ tinh thuần âm thuần dương, cùng quẻ Địa Mẫu cửu tinh pháp, 3 phương tam cát là Cấn Chấn Tốn, Lục Tú là gia thêm nạp giáp, tức là 6 phương Cấn Bính Chấn Canh Tốn Tân, Cấn là đông bắc, Chấn là đông phương, Tốn là đông nam, Bính là nam phương, Canh Tân là tây phương.
《 Hoàng Đế trạch kinh 》 và 《 Dương Trạch thập yếu 》 đều dùng bát trường chu thư phiên quái, mà còn quy định Đông tứ trạch và Tây tứ trạch, đều là phương vị cát hung cố định chủ quan, hoàn toàn là không phù hợp với hoàn cảnh khách quan tự nhiên. Thuật địa lý cổ pháp của Quách Dương Tăng nói về Tiêu Phong, đều là đối xứng. Như Hỏa Long Cấn Bính giao phong, Thủy Long Khôn Nhâm giao phong, Kim Long Tốn Canh giao phong, Mộc Long Càn Giáp giao phong. Hỏa Long là Ất Tốn, Thủy Long là Tân Càn, Kim Long là Đinh Khôn, Mộc Long là Quý Cấn, tiến nguyên quan quý nhị phong đều là tả hữu đối xứng.
Tổ mộ của Tỉnh trưởng Phúc Kiến họ Nhạc là thủ trưởng một đơn vị ở trung ương nằm ở Trường Nhạc chính là Cấn Bính giao phong. Đặc biệt là lập ở 3 đỉnh núi trước mặt Hỏa Long Ly quái Bính Ngọ Đinh, Thủy Long Khảm quái Nhâm Tý Quý, Kim Long Đoài quái Canh Dậu Tân, Mộc Long Chấn quái Giáp Mão Ất, độc chiếm ở khôi nguyên, thì càng tăng thêm vẻ hùng tráng. Tổ phần của Bảng nhãn (Là tên gọi thời khoa cử. Hai đời nhà Minh, Thanh gọi người đứng nhì trong kỳ thi Điện thí - tức là kỳ thi cuối cùng do nhà vua chủ trì) Liên Giang Ngô mặt hướng về Canh Dậu Tân, tổ mộ của một vị phó tư lệnh quân khu họ Viên nằm ở phía đông Trường Nhạc đều là mặt nhìn về hướng Canh Dậu Tân, vừa nhìn khiến cho con người vui sướng. Thuật địa lý cổ pháp của Quách Dương Tăng nói về Nạp thủy, là lấy 72 Long làm chủ, tức là lấy đón Long khí làm chủ, đấu kim song sơn là được 72 Long đón nội khí mà tiếp với khí bên ngòa Minh Đường, cho nên xưng là Huyền Khiếu pháp, là lấy Sơn gần Hướng, Hướng cũng quan hệ với Sơn, cũng có thể xưng là Huyền Quan khiếu pháp. Nếu xưng là Song Sơn tam hợp ngũ hành Trường sinh pháp là không thỏa đáng, phải xưng là 72 Long ngũ hành Song Sơn tam hợp Trường sinh pháp, hoặc là Song Sơn tam hợp Trường sinh nạp thủy pháp.
Thuật địa lý cổ pháp của Quách Dương Tăng nói về Nạp thủy của tân pháp cùng cổ pháp là có phân biệt, từ bí quyết lập hướng của họ, nhị cung Quan đái Bệnh không lập hướng thì có thể biết, ngoại trừ dùng cổ pháp đấu kim song sơn tiêu thủy ra, còn cộng thêm đấu kim Song Sơn tam hợp ngũ hành Tiêu thủy. Chính là nói vẫn cộng thêm hướng ngũ hành tiêu thủy, ví dụ như Hỏa cục quy định hướng Suy nước chảy ở cung Thai Nhâm Tý (Bí quyết: Suy cầu Thai), bởi vì hướng suy là Mùi, trên hướng (Mùi) ngũ hành là Mộc cục, Mùi là Mộ, Thân là Tuyệt, Dậu là Thai, Tuất là Dưỡng, Hợi là Trường sinh, Tý là Mộc dục. Xưng là Thủy xung Mộc dục. Chủ dâm loạn mà không có phá vượng xung sinh, nếu nước chảy ở Tân Tuất là xung Dưỡng cung, nước chảy ở Càn Hợi là phá Trường sinh, đều là chủ tuyệt hậu là Hung. Lại như lập Hỏa cục Quan đái hướng cung Thìn, trên hướng Thìn ngũ hành là Thủy cục, Thìn là Mộ, Tị là Tuyệt, Ngọ là Thai, Mùi là Dưỡng, Thân là Trường sinh, Dậu là Mộc dục, Tuất là Quan đái, Hợi là Lâm quan, Tý là Đế vượng, Hỏa cục tam thủy khẩu đều là xung cung Quan đái Lâm quan Đế vượng, là đại hung. Vì vậy, nhị cung Quan đái Bệnh không nên lập hướng. Cho nên thuật địa lý Quách Dương Tăng tân pháp mới xem Song Sơn Tam Hợp ngũ hành Trường sinh pháp như là chính cống. Hoặc cộng thêm một chữ Quan (关), xưng là Huyền Quan khiếu pháp. Vương Triệu mạo nhận Dương Công chân truyền Song sơn Tam hợp ngũ hành Trường sinh pháp, dùng Song Sơn lập hướng, là không lý giải chính kim và đấu kim, đem cung vị Trường sinh làm bậy, là không lý giải và sử dụng đấu kim song sơn.
(Hết)
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.