View Full Version : 《 Tuyết Tâm Phú 》
《 Tuyết Tâm Phú 》 toàn văn chú giải
Nguyên tác: Bốc Ứng Thiên 【 Nhà Đường 】
Truyền nhân Phong Thủy Kham Dư học Trần Ích Phong chỉnh lýhttp://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=400&stc=1
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=427&stc=1
《 Tuyết Tâm phú 》 thuộc đời nhà Đường do Bốc Ứng Thiên sáng tác, là sáng tác cổ điển xem Hình Thế phong thủy, phép Loan Đầu. Bốc Ứng Thiên, tự là Nguy, hiệu là Côn Lôn Tử, tên khác là Bốc Đô Giám. Bốc Ứng Thiên gia thế ở châu Cống, không tiến cử Thái Sử mà đi vào Đạo môn, làm Hoàng Quan sư (Đạo sư). Bởi vì tâm địa trong sáng, thấu triệt địa lý, vì vậy đem thủ danh nguyên tác là 《 Tuyết Tâm phú 》.
《 Ninh Đô Trực đãi châu chí 》 có ghi lại: "Phó Đô giám, danh là Dật Kỳ. Giỏi thuật Thanh Ô, là Thiên giám Đô giám kiện tụng. Hoàng Sào nỗi loạn, Phó Đô cùng Dương Quân Tùng tránh đất huyện Tây quê Hoài Đức, liền lấy học thuật, truyền cho Liệu Tam Truyện, Tam Truyện truyền cho Tử Vũ, Vũ truyền cho con rể Tạ Thế Nam, Thế Nam truyền lại cho Tử Tích.
Toàn văn《 Tuyết Tâm phú 》cùng chú thích như sau:
1, Tổ tông Địa lý
Thiên khai Địa ích,
Sơn trì xuyên lưu.
Nhị khí diệu vận vu kỳ gian,
Nhất lý tịnh hành nhi bất bội.
Chú giải: Trước kia Bàn Cổ khai thiên lập địa, trời đất còn sơ khai hỗn độn mà thành một vòng tròn, giống như một quả trứng gà, Bàn Cổ liền sinh ra ở trong đó. Trải qua một vạn tám nghìn năm, trời đất tách ra, khí dương nhẹ mà trong thăng lên thành trời, khí âm nặng đục chìm xuống thành đất. Dãy núi sừng sững tĩnh lặng, sông nước chảy xiết, dẫn đến chỗ này thực ra đều là nhị khí âm dương vận hành ngưng kết. Khí âm nặng đục mà thành đất là núi, tính tĩnh mà nhu, khí dương nhẹ trong mà thành trời là nước, tính động mà cương.
Sơn Thủy một động một tĩnh, một cương một nhu, hay là chỗ khiến cho nhị khí âm dương thăng giáng trầm phù lưu động ngưng kết. Âm Dương tuy chia ra nhị khí, thực ra bản chất vẫn là một lý. Cô Âm bất sinh, Cô Dương bất trưởng, Âm Dương phối nhau, mới thành tạo hóa. Cho nên Sơn giáp Thủy hành, Thủy theo Sơn mà đi, Sơn tàng Thủy mà Thủy tàng Sơn, Sơn Thủy ma sát cọ rữa lẫn nhau, Âm Dương giúp nhau, trong âm có dương, trong dương có âm, chỗ nói Nhất Lý cùng hành mà không nghịch vậy.
Khí đương quan kỳ dung kết,
Lý tất đạt vu tinh vi.
Chú giải: Muốn xem phong thủy Âm Dương nhị trạch cát hung như thế nào, thì lúc xem xét tình huống nhị khí âm dương vận hành biến hóa cùng dung kết, nghiên cứu tinh hoa đạo lý biến hóa nhị khí âm dương sinh khắc.
Do trí sĩ chi giảng cầu,
Khởi ngu phu chi ức độ.
Chú giải: Áo diệu Âm Dương dung kết biến hóa cũng không phải bình thường con người có thể nhận biết, về phần kẻ sĩ lúc có đạo này mà hướng cao minh cầu giải, nếu như tự cho là thông minh ngông cuồng tự suy trắc, e rằng là nhận biết không được.
Thể phú vu nhân giả,
Hữu bách hài cửu khiếu.
Hình trứ vu địa giả,
Hữu vạn thủy thiên sơn.
Tự bản tự căn,
Hoặc ẩn hoặc hiện.
Chú giải: Thân thể con người có 100 xương 9 lỗ (Bách hài Cửu khiếu). Bách hài, là chỉ tên gọi chung xương cốt toàn thân; Cửu khiếu, tức là đôi mắt, đôi tai, hai lỗ mũi, miệng, tiền âm niệu đạo (chỗ lỗ tiểu) và hậu âm giang môn (hậu môn) ở trên thân thể. Bách hài Cửu khiếu là chỉ toàn bộ cơ thể và tất cả khí quan. Hình trạng đất có vạn thủy thiên sơn. Cây cối là từ rễ cây sinh ra cành nhánh, địa hình cũng giống như cây cối, có can có chi, là nhận can nhận chi khác nhau, can chi địa hình có ẩn có hiện.
Thân thể và sơn thủy giống nhau, cũng là chịu chỗ nhị khí âm dương mà thành. Con người có xương cốt, đất có sơn mạch; con người có xương trán xương má, đất có dãy núi; con người có huyết dịch, đất có sông nước; con người có khiếu khổng, đất có huyệt động; con người có lông tóc, đất có cây cỏ; con người có nam nữ, Long có Thư Hùng; con người có đầu lâu, Long có Tinh phong (đỉnh núi); con người có cổ gáy, Long có Quá hạp, cả hai căn bản là hoặc ẩn hoặc hiện, nếu không có một không phải là làm ra chỗ nhị khí âm dương.
Con người quý ở vóc người khôi ngô, Sơn quý ở xếp hàng mở mang; con người quý ở Tổ Tông cao quý, Sơn quý ở lai Long tôn nghiêm; con người quý ở thể chất khỏe mạnh, Sơn quý ở nhấp nhô lên xuống có lực; con người quý ở ngũ quan đoan chính, sơn quý ở tinh phong thành hình; con người quý ở dung mạo tuấn tú tinh thần sáng sủa, đất quý ở sơn thanh thủy tú; con người quý ở mũi thẳng miệng vuông, sơn quý ở Minh Đường mạch chính; Mặt quý ở ngũ nhạc triều củng, Huyệt quý ở nước ôm quanh núi.
Thai Tức dựng dục, thần biến hóa vô tận.
Chú giải: Cát huyệt là Thai, sau huyệt yết kết lạc mạch thúc khí là Tức, Huyệt tràng tàng phong tụ khí là Dựng, hình thế sơn thủy triều ứng hữu tình là Dục. Những chỗ này giống như Thần biến hóa vô cùng.
Nơi khí thịnh tụ hội là Dựng là Huyệt tinh, nơi khí sinh động là Dục là phân mạch, nơi khí dung kết là Thai là Huyệt vị, nơi khí tạm nghỉ là Tức là Tiểu danh là Đường. Loại nhị khí Âm Dương này có thể biến hóa vô cùng vô tận, thiên hình vạn trạng, nhưng chỗ sinh cơ Dựng Dục lại gây nên như thần, hay không thể nói hết.
Sinh Vượng Hưu Tù,
Cơ vận hành mà không ngừng.
Chú giải: Sơn tụ Thủy hội, gọi là Sinh Vượng. Sơn bay Thủy chạy, gọi là Hưu Tù. Liên quan đến con người thịnh suy cảm ứng với thế núi sông, vận hành sinh vượng hưu tù mà thôi.
Địa linh nhân kiệt, khí hóa hình sinh.
Chú giải: Đất có linh khí mới có thể xuất nhân vật kiệt xuất, bởi vì khí diễn hóa sinh ra địa hình khác nhau, địa hình địa thế khác nhau thì sinh ra nhân vật khác nhau.
Thục vân vi diệu nhi nan minh,
Thùy vị mang muội nhi bất tín.
Chú giải: Ai nói loại địa linh nhân kiệt này là chuyện vi diệu là làm khó cho con người hiểu rõ chứ? Ai nói chuyện loại địa linh nhân kiệt này là mênh mông mờ ám khiến cho con người không đủ tin tưởng chứ?
Cổ nhân bốc trạch, có nghĩa không có chữ;
Hậu nhân làm thư, truyền ở nhà mà hành ở thế.
Chú giải: Cổ nhân trước thời nhà Hán, bốc trạch biết đại nghĩa phong thủy, nhưng vẫn không có dùng từ ngữ ghi lại. Trí tuệ nhân tài đời sau mới bắt đầu viết sách lập thuyết, truyền cho người nhà lại còn phát hành ở nhân thế.
Sự tình xem phong thủy âm dương nhị trạch, đã có từ xưa. Bàn Canh bốc Ân, Lưu Công bốc U, Chiến phụ bốc Kỳ, Khổng Tử bốc Trạch, Doanh công tướng cây Xưa cây Lý, Chu Công tướng Lạc ấp, Vinh Công tướng Lăng vân, Gia Cát tướng Kim lăng …, những vị tiên hiền này mặc dù đã có phép xem phong thủy, nhưng đều không có các sách lập thuyết. Đến đời sau Quách Phác, Dương Quân Tùng, Tăng Văn Siêm thông minh thủ lý, mới đem kinh nghiệm tướng địa của tiên hiền chỉnh lý phát huy, viết sách lập thuyết, cùng truyền lại cho người nhà và đệ tử, sau đó lưu hành trên thế gian. Đây là tình huống cơ bản quá trình hình thành địa lý.
Thuật Địa lý nói chung thai nghén từ thời Tiên Tần, hình thành ở thời Đường mà thịnh hành ở thời Tống, phiếm lạm ở thời Minh Thanh. Trước đây thời Đường xem phong thủy chỉ có luận hình thế dãy núi, sau thời Tống phát minh ra La Bàn, thuyết Lý Khí liền theo đó mà hình thành, đến thời Minh Thanh xem phong thủy thì không ly khai khỏi La Bàn vậy. Đại đa số Địa sư là bỏ gốc lấy ngọn, coi trọng Lý Khí xem xem nhẹ Loan Đầu, cùng đem các loại thuyết về Lý Khí ở trên gán ghép với các danh gia họ Quách, Dương, Tăng, thậm chí ở trong các điển tịch phong thủy của Quách, Dương, Tăng tăng thêm nội dung Lý khí, lấy giả loạn chân, hỗn hào thị phi, khiến cho người học sau không phân biện được chân hay giả, mà càng ngày càng xa rời lý luận của Quách, Dương, Tăng, đây là vấn đề yêu cầu người mới học không thể không chú ý.
Táng thừa Sinh khí,
Mạch nhận Lai Long.
Chú giải: Một câu: Táng thừa Sinh khí xuất phát từ trong《 Táng Thư 》của Quách Phác, ý tức là di hài Tổ tông phải an táng ở nơi có Sinh khí, để cho di hài tọa đón sinh khí ở trong đất, sau đó mới có thể che phúc cho hậu nhân.
Trong《 Táng Thư 》 nói: Đất có cát khí, mà theo từ đất, ý tức là nơi có sinh khí, Long khởi từ địa hình, nơi không có sinh khí, thì địa hình khô héo. Đây chính là nói, Long mạch tức là Sơn mạch, nơi đất khởi "Long" tức là "Long". Cho nên Quách Phác lại nói "Cốt Khâu lũng, Chi Cương Phụ, chỗ khí đi theo", đây là "Sinh khí" theo "Cốt Khâu Lũng, Chi Cương Phụ" mà đi, hoặc là nói, "Cốt Khâu lũng, chi nhánh gò đất " chính là tung tích "Sinh khí" vận hành, cũng tức là chỗ ở Long mạch.
Cốt Khâu lũng tức là núi mang theo đá, Chi Cương Phụ tức là đất núi có mao tích (xương thô, lông sống lưng), cho nên lúc Tầm Long Sát Mạch phải xem kĩ từ Tổ sơn mang đá men theo hướng đi chi nhánh liên tục, ở trong núi thì Long có sống lưng, xoay hướng nhấp nhô lên xuống, uốn lượn mà đi, thẳng đến Quá Hạp buộc khí, Tinh phong dừng lại, mạch thở sơn dừng, sa củng thủy ôm, tự mở Đường cục, thì là chỗ Sinh khí dung kết, phương có thể tìm huyệt; ở bình dương thì ẩn ẩn lộ hình, như đường trung tuyến tro bụi, vết rắn trong bụi cỏ, mai thổi trong tuyết, bọt sóng cuộn nguyệt, nhìn tựa không có, xét thì có thực, từng chặn mà đi một đường, thẳng đến chỗ mạch đập thủy ngăn hoặc là chỗ hơi khởi sa mỏng, sinh khí mới có thể dung kết.
Núi có sinh khí, xa xôi từ trời, quanh co mà xuống, hình trạng giống như sóng gợn, uốn lượn mà đến, thế như Rồng cuộn, đột lớn lại nhỏ, cao thấp xoay chuyển, bung ra xếp màn, muôn hình vạn trạng, phân chia phát mạch, Tinh phong đoan nghiêm, tiền nghênh hậu tống, tả hộ hữu triền, vài độ phân hợp, vài lần Bác hoán (thay đổi), từ thô biến mịn, từ cứng biến mềm, có cây xanh tươi, đá trơn đất cứng. Núi không có sinh khí, 《 Táng thư 》 đưa ra có 5 loại: Một là Đồng sơn (núi trọc), tức là mạch đất khô héo, đất cây cỏ không sống; Hai là Đoạn sơn (núi đứt), tức là mạch núi bị đục đứt, bao gồm cả gáy núi bị đứt phá mặt; Ba là Thạch sơn (núi đá), tức là nham thạch gầy trơ xương ngọn núi thô sơ biến nhỏ; Bốn là Quá sơn, tức là sơn Long chạy đi chưa chịu dừng lại để kết cục; Năm là Độc sơn, tức là sơn Long đơn độc, núi không có Sa Thủy quấn quanh bảo hộ, bao gồm cả núi Quá Hạp bị gió thổi nước cướp đi. 5 loại núi này đều thiếu khuyết sinh khí, an táng về sau nhân đinh thoái bại.
Huyệt tổng Tam đình, Sơn phân Bát Quái.
Chú giải: Lai Long kết huyệt, có phân biệt Sơ kết, Trung kết, Mạt kết, Huyệt tinh có phân ra ba thế Lập, Tọa, Ngọa. Huyệt vị có phân biệt tam đình Thượng, Trung, Hạ, cũng gọi là Thiên huyệt, Nhân huyệt, Địa huyệt.
Huyệt tinh thân thẳng tay thẳng, giống như con người đứng thẳng, thì khí bay bỗng ở trên mà lấy Thiên huyệt, như chỗ Liêu Kim Tinh 《 Điểm Huyệt nhận Thế ca 》 nói: Lập, là thân thẳng khí di động ở trên, tìm Thiên huyệt ở chỗ này. Huyệt tinh thân cong tay ôm, giống như người ngồi thẳng, thì khí tụ ở giữa mà lấy Nhân huyệt, như chỗ Liêu Kim Tinh nói: Tọa, là thân cong khí tàng ở trong, Nhân huyệt rất tương xứng. Huyệt tinh thân ngửa chân duỗi ra, giống như người nằm ngửa xuống, thì khí chìm ở dưới mà lấy Địa huyệt, là chỗ Liêu Kim Tinh nói: Ngọa, là thân nằm khí hạ xuống dưới, đây chính là Địa huyệt.
Tồn tại ở người, chớ tốt ở con mắt;
Mùi vị ở lý, ai tạo ở huyền vi.
Chú giải: Thuật Kham Dư tục xưng là Tướng địa hoặc là xem phong thủy, tướng và xem đều là dùng thị lực. Bất luận là quan sát Lai Long khứ mạch, hay là phân biện hình thái Long huyệt Sa thủy, đều phải xem xét Huyệt tràng Cực Vựng, đều phải sự tinh xảo của thị lực, mà không phải là năng lực của La Bàn Lý Khí. Không biết đạo lý phong thủy, thì làm sao có huyền xảo tinh vi để tạo táng chứ?
Duy âm dương thuận nghịch chi nan minh,
Ức quỷ thần tình trạng chi mạc sát.
Chú giải: Đạo Địa lý, khó là ở hiểu rõ Âm Dương thuận nghịch. Có thể biết âm dương, có thể biện thuận nghịch, thì phong thủy là chuyện không khó vậy. Nhưng mà khí âm dương, vận hành ở giữa núi sông trời đất, thuận nghịch đa đoan, như tình trạng quỷ thần, khó mà minh sát.
Bát Quái phân bố bát phương,
Thẩm xét tứ thế tứ duy,
Có đi có lại có động tĩnh.
Chú giải: Muốn rõ tình trạng thuận nghịch, thì phải thẩm sát Huyệt tinh thế thái tứ duy, khảo sát sơn thủy đi đến động tĩnh ở bát phương. Chỗ nói "Tứ duy Tứ thế" là tình trạng sơn hình thế thái xung quanh ở Huyệt tinh, tức là tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, tiền Chu Tước, hậu Huyền Vũ. Tứ thế tốt chính là chỗ Quách Phác nói Thanh Long uyển diên, Bạch Hổ tuần phục, Huyền Vũ thùy đầu, Chu Tước tường vũ. Tứ thế phá tổn chính là chỗ Quản Lộ nói Huyền Vũ tàng đầu, Thanh Long vô túc, Bạch Hổ hàm thi, Chu Tước bi khốc.
Phàm hành Long khởi chỉ, lai khứ động tĩnh, không ngoài ở tứ duy bát phương. Chỗ nói "Lai" tức là Sơn Tổ tông, nguyên đầu của thủy. Chỗ nói "Khứ" tức là đầu ở đỉnh núi, đuôi ở cuối sông. Hành Long hoặc là đến mà lại đi, hoặc là đi mà lại đến, mọi chỗ đều có động tĩnh, đến mức trong tĩnh có động, trong động có tĩnh, không biết lai, khứ, động tĩnh thì không biết âm dương thuận nghịch, mà không biết âm dương thuận nghịch thì không biết địa lý.
Sơn là âm, thì quý ở động, không động thì không thành Long; Thủy là dương, thì quý ở tĩnh, không tĩnh thì đất không kết. Cho nên Sơn quý nhảy nhót chạy chồm, uyển chuyển nhấp nhô, nếu bất động giống như rắn chết trong túi, thì chính là vô khí; Thủy quý ở dừng lại tích tụ, không thấy lai, khứ, nếu như cấp bách xiết chảy giống như ngựa chạy tên bắn, thì chính là sát khí. Lúc Tầm Long sát Huyệt ở núi chỗ động cầu tĩnh, tĩnh thì mạch dừng khí tụ, mở đường kết huyệt; ở lúc thủy chỗ tĩnh cầu động, động thì mạch sống khí dung, hộ sơn tàng phong. Sơn mạch đến từ xa thì thuận, phải ở trong thuận cầu nghịch, cho nên viết "Sơn không quay đầu không xem sơn", "Nghịch thủy một muỗng có cứu bần"; thủy mạch đến xa thì là Nghịch, phải ở trong nghịch mà cầu thuận, cho nên viết: "Dương dương muốn đi, nhìn ta muốn ở", "Cửu khúc thủy triều đường, đương triều Tể tướng" .
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=428&stc=1http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=401&stc=1
2, Luận nguồn gốc Sơn Thủy
Từng nhánh núi phát tích, từ tổ tông mà sinh con sinh cháu.
Cuồn cuộn thủy trường lưu, từ bản căn mà phân chia chi nhánh.
Chú giải: Núi phát tích ở nơi xa, từ núi tổ tông mà sinh con sinh cháu. Cuộn cuộn nước chảy dài, từ gốc căn mà phân chia chi nhánh. Cuồn cuộn là chỉ bề mặt nước chảy xiết nhanh.
Chi nhánh Long chẻ mạch giống như cây cối phân nhánh chia cành, cũng giống như con người sinh con sinh cháu. Dương Công 《 Hám Long kinh 》 có nói: "Tu Mi sơn là thiên địa cốt, trung trấn thiên địa là cự vật. Như cần cổ sống lưng con người. Sinh ra tứ chi Long cao vút. Tứ chi phân ra bốn thế giới, nam bắc tây đông là bốn nhánh." Là ý nói, Côn Lôn sơn (bao gồm cả dãy núi Hi Mã Lạp sơn) là nóc nhà thế giới, là đất phát nguyên Long mạch của thiên hạ, là Lão Tổ tông. Phân ra bốn hướng đông nam tây bắc kéo dài đến từng vùng đất trên thế giới, một mặt phía nam tiến vào Trung Quốc. Trong đó chỗ đại can đại chi kết đại huyệt liền thành tỉnh hội hoặc là đô thị, chỗ tiểu can tiểu chi kết thành tiểu huyệt liền thành huyện thành hoặc là hương trấn. Tầm Long sát Huyệt thì đầu tiên là phải nhận biết rõ lai Long khứ Mạch, hiểu rõ chỗ bản căn của sơn thủy, biện rõ chủ Long và chi Long. Can Long đa số là sinh ra Vương hầu, Chủ Long phải trội hơn Chi Long.
Nhập Sơn tầm Thủy khẩu,
Đăng Cục xem Minh Đường.
Chú giải: Nhập sơn xem đất phải tìm kiếm ở đất này xuất ra Thủy Khẩu, leo lên đầu núi phải xem Minh Đường ở đất này.
Nhạc độc chung tinh túc chi linh,
Khách Chủ tẫn đông nam chi mỹ.
Chú giải: Dương dương ngũ hành, vốn thuộc Nhất Khí, nhẹ trong di động ở trên trời mà thành Tượng, nặng đục chìm xuống ở đất mà thành Hình, chỗ Tinh lâm, chỗ chung đất, trên dưới mà cảm ứng nhau. Cho nên Dương Công ở trong 《 Hám Long kinh 》có nói: "Núi sông ở dưới Tinh ở trên, cùng chỗ Nhất Khí không hai Thể", "Núi lấy danh Tinh thủ chủng loại, Tinh Thần chiếu xuống núi thành hình". Núi sông trên mặt đất cùng Tinh thần ở trên trời mặc dù hai loại hình thể có hình trạng khác nhau, nhung lại là chỗ Nhất Khí phân ra, trên thực tế không có hai dạng như thế. Nơi mặt đất kết huyệt, ở trên liền có ánh sáng Tinh sao chiếu đến. Giống như nhân vật ở trên đất có các chư tướng công hầu, trên trời tất có các Tinh sao chư tướng công hầu vậy.
Huyệt sơn là Chủ, Triều sơn là Khách. Dương Công nói: Nếu tướng giỏi chủ đối Khách hiền, tức là lúc điểm huyệt thì phải khiến cho Chủ sơn cùng Triều sơn đối diện nhau có tình, có ý nhìn nhau, giống như chủ nhân cao quý đối đãi với Khách hiền năng, kính ngưỡng lẫn nhau, lễ nhượng với nhau, mới là Khách Chủ tẫn đông nam chi mỹ. Mà muốn cho Khách Chủ hữu tình, thì trước tiên phải biết phân biệt Khách Chủ là chân hay giả, phải biết chân Long thì tất nhiên là chân Huyệt, chân huyệt thì tất nhiên là triều chân, giả Long giả Huyệt tất nhiên là không phải chân triều.
(Còn tiếp)
Lập hướng quý nghênh Quan mà tựu Lộc,
Tác huyệt phải xu cát mà tị hung.
Chú giải: Hướng trước Khẩu mới quý có Quan tinh, tác huyệt phải xu cát mà tránh hung. Quan tinh chính là núi trái nghịch kéo dài nằm ở bên ngoài Án sơn Long Hổ. Lấy Huyệt Tinh làm trung tâm, thì Quan tinh nằm ở trước mặt Huyệt tinh, Quỷ tinh nằm ở phía sau Huyệt tinh.
Mạch Quan tinh đều cùng nối nhau với Long Hổ. Đa số Quan tinh bởi vì bị Án sơn Long Hổ che phủ, Quan tinh là không thể thấy. Số ít Quan tinh thấu ra ở trên Án sơn Long Hổ, là có thể thấy, xưng là Kiến diện Quan. Đầu đỉnh núi tròn đều là Quan, đỉnh núi sắc nhọn là Diệu, gọi chung là Quan Diệu. Quan Diệu là dư khí của Lai Long, Lai Long thịnh vượng thì tất nhiên Dư khí cũng thịnh vượng, cho nên Quan Diệu là quý sa hiển lộ thân Long vượng khí, có thì hiển quý, hơn nữa Quan Diệu càng nhiều càng tốt.
Quan Diệu hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc cao hoặc thấp, hình thái bất nhất, giống như cái Hốt (thẻ bằng ngà, bằng ngọc hoặc bằng tre của quan lại khi vào chầu, dùng để ghi việc thời xưa) cao, cái trụ Hốt, bầy Hốt; giống như ngọn Bút cao, Bút nhọn, Bút nằm; giống như cái Chung che phủ; giống như có thế chân Vạc; giống như mũ nón; giống như cờ xí; giống như đeo chuỗi ngọc; giống như đôi hài; giống như Nhật Nguyệt; giống như Kiếm Kích; giống như mỏ con Hạc; giống như lưỡi cày sắt; giống như con Thỏ nằm; giống như Cá nhảy; giống như có Phượng bay; giống như con Rùa; giống như xếp ngón tay; giống như vạt áo bay múa. Từng loại hình đều hiển quý khí khinh trọng cùng khác nhau. Trong đó, các loại hình lưu tinh như Hốt, Bút, Chung phủ, Nhật Nguyệt, chuỗi ngọc, rùa ba ba, có quý khí khá nặng; các loại như Tường vân, thoa cài tóc, đao thương, lê nhọn mu rùa ba ba, hoành trượng, thì quý khí khá nhẹ. Quan tinh nếu như là có hình cờ đảo ngược, phi đái (kéo bay), hình tượng không đẹp, thì không phải là cát toàn. Lá cở đảo ngược chủ vởi vì làm quan mất khí tiết, nhưng con cháu cuối cùng hiển vì khoa đệ; phi đái là chủ phụ nữ dâm loạn, nhưng con rể có làm quan.
Tất viên cổ dĩ chứng kim,
Quý thăng cao nhi vọng viễn.
Chú giải: Luận địa lý không thể nghe tìn đồn nhảm, cần phải dẫn xưa chứng nay; xem phong thủy không thể tọa đàm Lý khí, cần phải trèo non lội suối, đứng cao nhìn xa. Nhưng từ khi cuối đời Đường phát minh La Bàn đến nay, rất nhiều thầy phong thủy lại không hề chịu đi khảo sát xem Lai Long khứ mạch, biện biệt Long cách cao thấp, lại không chú trọng hình tượng sơn thủy, phân tích kết huyệt chân giả, mà là cả ngày cứ cầm La bàn đàm chuyện viễn vông, một mực truy cầu phương vị lý khí, chỗ này là không thể được.
Từ lâu hạ điện, nghìn dặm không xa mà đến.
Hỏi Tổ tìm Tông, sao nửa đường mà dừng?
Chú giải: Lai Long ngọn núi cao lớn mà nhọn xưng là Long Lâu, gọi tắt là Lâu; cao to mà bằng xưng là Bảo Điện, gọi tắt là Điện. Long đến nghìn dặm nói chung là từ biệt Long lâu Bảo điện lập tức ngã xuống mà đến bên dưới. Long Lâu Bảo Điện là Tổ tông của Lai Long. Tầm Long thì phải từ khảo sát Tổ tông đến chỗ kết huyệt, không thể đi nửa đường mà dừng lại.
Tổ tông đứng thẳng cao vút, con cháu tất quý.
Khách Chủ hướng đón, tình ý hợp nhau.
Chú giải: Nếu dãy núi Tổ tông đứng thẳng cao vút vượt trội bầy núi, thì phân chia chi nhánh con cháu Long mạch cuối cùng tất là có huyệt phú quý. Nếu Chủ sơn Khách sơn nghênh đón với nhau, tức là tâm đầu ý hợp.
Hữu tất phục, Tả tất hàng, tinh thần bách bội.
Tiền giả hô, hậu giả ứng, khí tượng vạn thiên.
Chú giải: Bên phải Bạch Hổ phủ phục, bên trái Thanh Long thuận hàng, tinh thần bách bội. Phía trước có triều án tú lệ, phía sau có núi cao tầng tầng là theo hầu, cảnh sắc tráng lệ.
Biện Sơn mạch, thì có đồng can khác chi.
Luận Thủy pháp, thì có Tam xoa Cửu khúc.
Chú giải: Long mạch có can chi, Tầm Long phải biện đồng can khác chi. Thủy có xoa khúc, luận thủy phải xem Tam xoa Cửu khúc. Xoa là giao vậy, Khúc là uốn cong vậy.
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=402&stc=1
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=429&stc=1
3, Luận Khí Mạch phân hợp
Chiêm bốc: Kỳ cát, chung yên Duẫn Tang.
Cát địa là chỗ thần cai quản,
Người thiện tất trời khắc Tương.
Tương tướng công hầu, Tư xuất chỗ này.
Vinh hoa phú quý, há từ chỗ này?
Người biết không bằng người tốt, sao không Tư ngôn?
Được ở Tư, tất thâm tạo ở Tư, có cái diệu lý.
Chú giải: Chiêm bốc nói: Cát địa cuối cùng sẽ ẩn tàng. Bởi vì cát địa là chỗ thần cai quản, người tích thiện có thể được ông trời phù trợ, cho nên làm tướng công hầu, đều là xuất phát từ đây, người vinh hoa phú quý cũng ở từ chỗ này mà ra. Hiểu đạo này không bằng yêu thích đạo này, lời nói này không thể bỏ qua. Được chỗ này, tất phải học thêm từ chỗ này, bởi vì chỗ này có đạo lý huyền diệu.
Duẫn: Ý là thích hợp.
Tang: Ý là ẩn tàng.
Khắc: Ý là có thể được.
Tương: Ý là phù trợ.
Tư: Ý là tất cả.
Muốn rõ thế phân hợp,
Cần phải xét hướng bối.
Chú giải: Phải hiểu rõ hình thế phân ly cùng hợp tụ, phải thẩm sát tình hình ôm hướng cùng phản bối.
Đại tiểu phân hợp,
Đại tiểu bát tự,
Cầu diêm chi đồ.
Chú giải: Lớn như can chi phân hợp Long Hổ Sa Thủy, nhỏ như thủy phân hợp râu tôm mắt cua. Lớn như can chi 8 chữ lớn Long Hổ Sa Thủy, nhỏ như 8 chữ nhỏ thủy râu tôm mắt cua. Giọt nước tròn như hình cầu, như mái nhà.
Tán thì loạn, hợp thì tòng.
Quần dĩ phân, loại dĩ tụ.
Chú giải: Phân tán thì loạn, tụ hợp thì theo nhau không loạn. Có thể căn cứ vào tính chất phân chi theo bầy phân chia theo loại.
Là lấy tiềm tàng khảo sát tinh tế,
Đến hay dừng phải hiểu rõ ràng.
Chú giải: Cho nên phải khảo sát cẩn thận tiềm tàng chỗ không lộ rõ, khí đến hay dừng phải biện minh tĩ mĩ.
Sơn tụ xứ thủy hoặc khuynh tà, gọi là Bất thiện.
Thủy khúc xứ sơn hoặc tán loạn, gọi là vô tình.
Chú giải: Sơn tụ vốn là cát, nhưng nếu thủy chảy xiết nghiêng tà, tổ hợp cả hai, nói chung là đất không tốt. Thủy uốn khúc vốn là cát, nhưng nếu núi tán loạn, tổ hợp cả hai, cuối cùng là đất vô tình.
Thu tiểu thuần nhi cầu đại tỳ, thị dụng quản trung khuy báo.
Tựu chúng hung nhi tầm nhất cát, do duyên mộc dĩ cầu ngư.
Chỉ kiến nhất ban, duyên mộc cầu ngư, thế bất khả đắc hĩ.
Chú giải: Nếu chỉ lấy tiểu tiết cục bộ tú mỹ, mà bỏ qua toàn bộ hình thế cách cục bệnh liệt, thì chỗ thấy là ếch ngồi đáy giếng (quản trung khuy báo), chỉ có thấy một mảng. Nếu sơn thủy đều hung, phải ở trong hung cầu một cát, giống như trèo cây bắt cá (duyên mộc cầu ngư). Những cái này ắt là không được.
Quyết dĩ ngôn truyền,
Diệu do tâm ngộ.
Chú giải: Khẩu quyết Phong thủy mặc dù thông qua lời nói để truyền đạt, nhưng đạo lý vi diệu lại là phải dùng tâm linh mới có thể lĩnh ngộ được.
Đã biết rõ phép Đảo Trượng,
Mới biết không phải Quái lệ.
Chú giải: Chỉ có hiểu rõ phép Đảo Trượng (*), mới biết sai lầm của Quái lệ (ví dụ nói về Quẻ).
Biện chân ngụy vu tạo thứ chi gian,
Độ thuận nghịch vu tính tình chi ngoại.
Vị tri chân quyết, uổng ngộ thế nhân.
Chú giải: Nghiêm túc phân biệt chân giả ở lúc vội vàng, phán đoán hình thế thuận nghịch phải vượt qua cá tính yêu thích. Nếu như không thể khắc sâu giải thích chân quyết phong thủy, thì rất nhiều người sẽ uổng phí ở trên đời.
(*) Phép Đảo Trượng của Dương Công sẽ có bài nói riêng.
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=430&stc=1
4, Luận Ngũ Tinh chuyển hoán
Nhìn kĩ tám quốc chảy vòng quanh,
Xét kĩ Ngũ tinh luôn biến hóa.
Chú giải: Quan sát tiỉ mĩ bát phương phân bố, khảo sát tường tận Ngũ tinh biến hóa.
Ngũ tinh ca nói:
Mộc thẳng Kim cong Thổ vốn hoành,
Hỏa tinh tú nhọn hướng Nam sinh.
Thủy tinh giống như sinh Xà tẩu,
Nói với thầy lúc luận ngũ hành.
Chú giải: Ngũ tinh tức là 5 vì sao kim mộc thủy hỏa thổ. Sơn hình vòng cung là Kim, sơn iình vông nang laà Thổ, sơn uốn cong như rắn đi là Thủy, sơn ình thẳng tòn là Mộc, sơn hình mũi nhọn dựng đứng là Hỏa.
Tinh lấy Bác hoán là Quý,
Hình lấy đặc đạt là Tôn.
Chú giải: Ngũ tinh lấy biến hóa là Quý, hình thế lấy vượt trội khác thường là Tôn.
Thổ bất thổ mà Kim bất kim, tham hình tạp thế;
Hỏa bất hỏa mà mộc bất mộc, huyễn mục hoặc tâm.
Bởi thổ xinh xắn giống như kim,
Mộc nhọn hỗn loạn giống như hỏa.
Chú giải: Thổ không giống thổ, kim không giống kim, hình thế hỗn tạp. Hỏa không giống hỏa, mộc không giống mộc, người liền hoa mắt mà tâm mê. Đây là bởi vì sự xinh xắn ở bên trong Thổ tinh giống như Kim tinh, bên trong Mộc tinh sắc nhọn giống như Hỏa tinh.
Kim thanh, Thổ trọc, Hỏa táo, Thủy nhu.
Chú giải: Kim tinh tính cương hình chính mà trong, Thổ tinh tính dầy hình phẳng mà đục, Hỏa tinh tính đột phá hiếu động hình nhọn mà táo, Thủy tinh tính lệch ít chính hình cong mà nhu.
Mộc vi diệu không qua ở đông phương, bắc thụ sinh mà tây thụ khắc.
Hỏa nóng viêm độc tôn ở phương nam, bắc thụ khắc mà đông thụ sinh.
Chú giải: Đông phương thuộc mộc, Nam phương thuộc hỏa, Bắc phương thuộc thủy, Tây phương thuộc kim, Trung ương thuộc thổ. Mộc ở phương đông là chính vị, cho nên là vi diệu, ở bắc phương là thủy sinh mộc, ở tây phương là kim khắc mộc. Hỏa ở nam phương là chính vị, là độc tôn, ở bắc phương là thủy khắc hỏa, ở đông phương là mộc sinh hỏa.
Trước phá sau thành, đa số là thủy đến sinh mộc.
Như vinh về su đình trệ, chỉ vì hỏa đi khắc kim.
Chú giải: Trước phá bại sau thành công, đại đa số là do Thủy tinh đến sinh Mộc tinh. Khởi đầu vinh diệu cuối cùng trì trệ, chỉ vì nguyên do là Hỏa tinh đi khắc Kim tinh.
Mộc là Tổ, Hỏa là Tôn, phú mà hiếu lễ.
Kim là Mẫu, Mộc là Tử, sau tất có hoạ.
Chú giải: Mộc tinh là Tổ, Hỏa tinh là Tôn, phú mà hiếu lễ. Kim tinh là Mẫu, Mộc tinh là Tử, sau tất là có hoạ.
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=403&stc=1
Thủy ở Khảm cung, Phượng trì thân quý.
Chú giải: Khảm cung thuộc thủy, Thủy tinh ở chính vị, có thể xuất ra là quý thần, mà thân danh liệt Phượng trì (làm quan Trung ương, Tỉnh).
Kim cư Đoài vị, danh cao ô phủ.
Chú giải: Đoài cung thuộc kim, Kim tinh ở chính vị, có thể xuất danh nắm lệnh giữ gìn trật tự ở Ô phủ (Quan Ngự Sử).
Thổ vượng Ngưu điền, Mộc sinh Văn sĩ.
Chú giải: Thổ tinh có thể khiến cho gia chủ có ruộng đất trâu bò giàu có. Mộc tinh cao vút thanh tú, có thể xuất danh kẻ sĩ văn chương tuấn kiệt.
Thủy tinh đa số ở bình địa, chỗ kỳ diệu khôn xiết.
Hỏa tinh đa số xuất danh cao sơn, quý ngôi vô địch.
Mộc cần có tiết. Kim quý liên châu.
Chú giải: Thủy tinh uốn cong di động ở đất đồng bằng (bình dương), hình ẩn sát không có đủ khí, cho nên mới nói chỗ diệu kỳ khôn xiết. Hỏa tinh ở núi cao đa số là long lâu bảo điện, có chỗ này mới xuất ra Tam Công, cho nên nói quý mà vô địch. Mộc tinh có tiết, ở nơi tiết thủ huyệt là cát. Kim tinh hành Long giống như chuỗi hạt, trước có đất to lớn.
Chỗ quý là Hoạt Long Hoạt Xà.
Chỗ tiện là cá chết lươn chết.
Hình thấp nhỏ không nên thon gầy.
Thế uốn khúc không nên nghiêng tà.
Chú giải: Thế lớn có chân là Long, Hình nhỏ không có chân là Xà, hình thế không câu nệ lớn nhỏ, nhưng cần xuất hiện nhấp nhô lên xuống chợt phải chợt trái là Quý. Nếu không, thì là cá chết lươn chết, là Tiện. Hình nếu như thấp nhỏ, mập tròn thì cát, gầy đét là hung. Thế nếu như uốn khúc, ngay thẳng là cát, nghiêng vẹo là hung.
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=406&stc=1
Chú thích: 木: Mộc; 土: Thổ; 水: Thuỷ; 金: Kim; 火: Hoả.
Đức không cô độc, phải có lân cận, nhìn nó là tòng.
Mắt không nhìn thấy, chỉ có phí lực, cuối cùng mơ hồ.
Ngũ tinh theo đây mà suy, vạn biến khó mà nêu ra.
Chú giải: Người có đức, tất có láng giềng bầu bạn, nhìn người hầu của hắn thì biết người này. Đất kết lớn, tất có tả hữu bái chào, trước nghênh sau ủng, nhìn là theo, liền biết đất này. Nếu nhãn lực không rõ, chỉ phí thể lực, cuối cùng là mơ hồ. Ngũ tinh dựa theo chỗ này mà suy, vạn biến khó mà nêu ra.
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=404&stc=1
5, Luận Thủy pháp
Luận sơn như thế, còn Thủy thế nào?
Chú giải: Luận sơn nói chung là như vậy, còn luận Thủy như thế nào chứ?
Giao, Tỏa, Chức, Kết mà cầu, Xuyên, Cát, Tiến, Xạ tránh hợp.
Chú giải: Giao, tức là hai dòng nước giao hội; Tỏa, tức là Thủy bị Sa cản giống như đóng khoá; Chức, tức là dòng nước chảy uốn cong như dệt vải; Kết, tức là nhiều dòng nước tập kết chảy đến tụ lại. Xuyên, tức là nước chảy xuyên thẳng Long Hổ; Cát, tức là nước chảy đến cắt chân ở phía trước huyệt không có dư khí; Tiến, tức là nước chảy thẳng mà đi; Xạ, tức là nước chảy xiết từ hai bên sườn núi chảy đến. Trước là nên cầu, sau là nên tránh.
Chàng thành là phá gia sạt nghiệp,
Bối thành là ao tính cường tâm.
Chú giải: Nước chảy xiết nhanh đến đụng vào Huyệt thành, là chủ phá gia phá bại nghiệp. Nước cong nghịch lại sau lưng Huyệt thành, xuất người vô tình tâm tính mạnh bạo.
Phát phúc du trường định là nước quấn quanh Huyền Vũ,
Làm quan giàu có tất nhiên là nước cuộn Thanh Long.
Chú giải: Phát phúc lâu dài định là thủy quấn quanh Huyền Vũ phía sau huyệt, làm quan giàu có tất nhiên là nước cuộn quanh bên trái sơn Thanh Long. (Thủy quấn quanh bên phải sơn Bạch Hổ cũng cát).
Chỗ quý là Ngũ Hộ bế tàng,
Chỗ thích là Tam Môn khoan khoát.
Chú giải: Ngũ hộ là chỉ Địa Hộ, tức là lối đi ra của dòng nước xung quanh Huyệt tràng; Tam Môn là chỉ Thiên Môn, tức là lối đi vào của dòng nước xung quanh Huyệt tràng, hoặc là Minh Đường.
Viên Cục tuy quý, Tam Môn bức hẹp không cần xem;
Hình huyệt tuy kỳ, Ngũ Hộ không liên quan thủ túc ở đâu.
Chú giải: Nếu Minh Đường hẹp áp bức, Thủy khẩu đến chật hẹp, Cách Cục tuy quý cũng không cần nhìn. Nơi lối đi ra của dòng nước ở Huyệt tràng không có bị đóng cửa, thủ chân phong thủy ở đâu?
Lưu ý Nguyên thần ra thẳng không nói là hung,
Ngoại cục xoay chuyển cản ngang có phải phản cát.
Lấy giới mạch thì mạch tự dừng,
Lấy tàng phong thì gió không thổi.
Chú giải: Nước chảy thẳng trước mặt Huyệt vị tất là hung, nhưng ở bên ngoài phải có sơn thủy cẳn ngang lại cát. Lấy giới mạch thì mạch tự dừng, lấy tàng phong thì gió không thổi.
Thủy vòng qua huyệt mà nhảy ngược, không đáng một đồng.
Thủy nếu vào ngực mà ôm ngược, một thể liền suy.
Chú giải: Thủy vòng qua huyệt mà nhảy ngược mà đi là không quan tâm đến huyệt, thì không đáng một đồng. Thủy nếu vào ngực mà ôm là vô tình, một thể liền suy.
Thủy khẩu thì thích khẩn tâm hồ lô hầu.
Ôm thân thì quý cong giống như hình sừng trâu.
Chú giải: Xuất thủy khẩu thì thích xiết tâm cổ hồ lô. Thủy ôm thân huyệt thì quý như cong hình sừng trâu.
Giao nha tiệt thủy giả, tối nghi Tủng bạt.
Tủng bạt oai phong giống như vũ phu giữ thành.
Chú giải: Núi hai bên Thủy khẩu đóng rang chặn thủy, rất cần cao vút (Tủng bạt). Tủng bạt tốt nhất là giống như vũ phu oai phong mà giữ thành.
Trước mặt tụ thủy, chỉ thích ngưng trong.
Ngưng trong nếu trang nghiêm như hiền thần củng vị.
Chú giải: Trước mặt có ao hồ tụ thuỷ, chỉ thích trong xanh mà ngưng tĩnh. Trong xanh ngưng tụ trang nghiêm giống như hiền thần củng lập triều vua, yên tĩnh bất động.
Sa Thủy khẩu, cửa rất lợi hại. Đặc biệt đưa ra chỗ này rất mơ hồ, trước mắt là nên khảo sát cẩn thận.
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=405&stc=1
6, Luận Hành độ Long mạch
Thủy cố thiết xem ở dòng chảy,
Sơn khó nhất là ở nhận Mạch.
Chú giải: Thủy quan hệ trọng yếu, nên lưu ý ở lúc quan sát, lấy ôm quanh uốn khúc hữu tình là cát. Về phần biện mạch khó nhất là: Thế Mạch lộ mà có hình là dễ, nếu ẩn mà không có hình thì khó.
Hoặc ẩn hiện ở đồng ruộng mênh mông,
Hoặc đất bằng tiềm tàng mênh mông không có tung tích.
Chú giải: Hoặc ẩn hoặc hiện ở nơi đồng ruộng mênh mông bát ngát, hoặc tiềm tàng ở đất bằng mênh mông không có tung tích.
Tản mác cô thôn, tú khí hoàn toàn không có nửa điểm.
Vân chưng quý địa, tinh quang hơi lộ một mảng.
Chú giải: Long ở đất đồng bằng, hình Tinh phiêu tán không liền nhau, dẫn đến linh khí không tụ, hoàn toàn không có nửa điểm nơi dung kết. Linh khí núi sông chung tụ mà thăng lên thành mây, chỗ đất này tinh quang hơi lộ ra là quý địa.
Thẳng ở sau tất ứng ở trước,
Trong có nhiều tất ngoài có nhiều hình.
Chú giải: Phía sau có dãy núi ôm quanh mà đến, phía trước tất là có dãy núi ôm quanh theo bái chào. Bên trong có tang nhiều khí tất có nảy sinh ngoại hình nhiều.
Muốn cầu đích chân, triều xa không bằng triều gần.
Muốn biết sinh thành, thế thuận không bằng thế nghịch.
Đa số là thích núi to ở xa mà sợ núi ở gần nhỏ,
Ai ngờ nghênh là gần, mà không phải tham ở xa.
Chú giải: Muốn cầu đất chân kết, triều sơn ở xa không bằng triều sơn ở gần. Muốn biết Cách Cục sinh thành tốt xấu, thế thuận tốt không bằng thế nghịch. Đa số là thích triều sơn to lớn ở xa mà sợ triều sơn nhỏ ở gần, ai ngờ nghênh là ở gần, mà không phải là tham ở xa.
Hội ở tâm, ứng ở mắt.
Chú giải: Hết tâm tư để hội thông lý, hết thị lực để ứng cảm tình.
Tam Cát Lục Tú, sao dụng cưỡng cầu.
Chính Huyệt chân Hình, tự nhiên im hợp.
Chú giải: Một thuyết là Hợi Chấn Canh là Tam Cát, một thuyết là Tham Vũ Cự là Tam Cát. Lục Tú là Cấn Bính Tốn Tân Đoài Đinh. Có lúc thầy cho rằng Long đến từ Tam cát Lục tú mới là Chân Long, là không chính xác, bất tất phải cưỡng cầu Tam cát hay Lục tú. Như được chân Hình chính Huyệt, chứng minh rõ ràng, tất nhiên không nói cũng hợp pháp.
Bát Quái Ngũ hành tất cần tham cứu,
Phù hoa lãng nhị uổng phí quan chiêm.
Chú giải: Có chân Long chính Huyệt, cũng cần tham cứu Bát Quái Ngũ Hành. Đất hư hoa hư kết giả nhị chĩ có uổng phí thời gian và tinh lực quan sát.
Nơi Tử Tuyệt có khí cục sinh thành,
Trong vượng tướng xét từ phế bỏ.
Chú giải: Nơi tử tuyệt có khí cục vượng tương, vượng tướng xét từ dấu vết hưu tù.
Khí Giáp, Duệ binh, Quá thủy, Trọng hưng Doanh trại, Bài thương, Liệt trận, Xuyên châu, Biệt hoán Môn tường.
Chú giải: Thân Long mang đá giống như áo giáp binh khí, chợt cởi giáp mặc điền vượt thủy, lại khởi từ sườn núi kết thành Đường cục, chẳng phải như bỏ giáp dẫn binh mà trùng hưng doanh trại? Nơi thế phát Long mạch, nhiều đỉnh Phá Quân Liêm Trinh cao vút giống như bài trận hoả binh, một khi đứt ngã khởi dậy giống như xâu chuỗi, lại lập môn đình để thành Đường cục mới, cho nên nói chớ đổi môn đình.
Du Quy bất cố nhi tham soa, thị tức kiên vu truyện xá.
Liên Châu bất chỉ nhi tán loạn, tự giả đạo vu tha bang.
Chú giải: Long hành giống như rùa bơi không ngay ngắn, Tinh phong tán loạn đường cục không kết, chỉ qua là tạm thời gỡ bỏ nhiệm vụ gánh vác ở nhà truyền lại. Mạch đứt đoạn không liên tục, ý không ở chỗ này, mà ở nước khác.
Cổn lãng Đào Hoa, cây liễu theo gió,
Đều là không có căn đế, vị tất đã có hình có khí.
Chú giải: Long bị thủy cướp, giống như chạy theo nước cợt nhã hoa đào. Mạch bị gió thổi, giống như cây liễu điên cuồng nhảy múa theo gió. Chỗ này đều là không căn đế mất gốc, vị tất là có hình có khí.
7, Luận Long Huyệt chân giả
Nếu thấy thổ Ngưu ẩn phục,
Thủy triền chính là Sơn triền.
Hoặc như âu điểu phù trầm,
Mạch hảo tự nhiên Huyệt hảo.
Chú giải: Nếu thấy nơi kết huyệt (thổ ngưu) ẩn phục, định biết Thủy triền cũng là Sơn triền. Long mạch hoặc như chim Âu chim Điểu có nỗi có chìm, mạch tốt tất nhiên là huyệt tốt.
Thủy phải nên tứ sơn đến hội;
Như Châu tinh một nhà là thần kỳ.
Chú giải: Huyệt quý được thủy, nhưng bên ngoài thủy lại quý có tứ sơn củng hội, tàng phong chu mật, nếu không thì trống khuyết, không thể tụ khí. Đất đồng bằng, sống lưng mạch hơi lộ ra giống như ngọc như sao, là đất cát khí nhô ra, trong đất bằng khởi nhô lên, đa số là thành đại địa.
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=407&stc=1
Tế tầm triều đối xứng phân minh;
Tả hữu phải đúng giao nhau kiên cố;
Đường rộng không cản, lý hợp biện ở xung quanh;
Thủy loạn vô tình, nghĩa phù hợp ở vòng tụ.
Chú giải: Cẩn thận tìm xem Triều sơn hữu tình hay vô tình mà đối chiếu phân minh; huyệt hai bên phải có vòng vèo gia cố; Minh Đường rộng thoáng không có vật trở ngại ngăn cản, lý hợp biện ở bốn bề xung quanh; thủy loạn vô tình, nghĩa hợp cầu ở vòng tụ hữu tình.
Lúc Sinh không Sinh, thế cô viên quả;
Thấy Tử không Tử, Tử nhược Mẫu cường.
Chú giải: Long mạch lấy hoạt động ung dung là Sinh. Nếu sinh mạch nhập thủ không kết huyệt, là lúc sinh không sinh, chỗ này tất là tả hữu không có tòng không có tống, thế cô viên quả. Long mạch đã cô đơn xiết cứng là Tử. Nếu rời Tổ không xa, khí còn dầy, là Tử nhược Mẫu cường, mà lấy khí không hết tận, cho nên xưng là thấy Tử không Tử.
Hạc tất Phong yêu khủng Quỷ kiếp, đến đi chưa định.
Chu ti mã tích không có Thần Long, mang khốn đốn khó hiểu.
Phảng phất cao thấp, ôm cuộn mơ hồ.
Chú giải: Hạc tất, là chỗ ở giữa nhỏ hai đầu lớn của Long mạch; Phong yêu, là chỗ ở giữa Long Mạch rất nhỏ mà muốn đứt đoạn. Quỷ kiếp, là chi nhánh của mạch, chi nhánh ngắn nhỏ là Quỷ, dài lớn là Kiếp. Hạc tất Phong yêu, vốn là nơi Long kết cục, nhưng sợ Quỷ kiếp tán loạn mà đến đi không định, mà không thể thành cát huyệt vậy. Chu ti mã tích (như sợi dây tơ giăng), tựa như bị vây khốn đốn không có Thần Long, cho nên Long mạch không rõ. Cao thấp phảng phất, ôm cuộn mơ hồ.
Cầu ta chỗ đại dục, chẳng qua là Long nghịch thủy.
Khiến ta mau ở tâm, tất Án phải phù hợp.
Chú giải: Chỗ ta cầu dục vọng lớn, chẳng qua là Long nghịch thủy. Khiến tâm ta mau nui sướng, là Án sơn gặp nghịch thủy ôm thân.
Ong Kiến tụ tập, nhưng phải viên tịnh đê hồi.
Hổ phục Long bàn, không câu nệ xa gần lớn nhỏ.
Chú giải: Núi nhỏ ở phía trước Huyệt rầu rĩ trùng điệp như ong kiến tụ tập, miễn là tròn sạch bao quanh. Thanh Long cuộn nằm hữu tình, Bạch Hổ hàng phục mà không sợ, không câu nệ là xa gần lớn nhỏ.
Mạch khắp nơi phải phòng khí tuyệt,
Chỗ đất thấp thiết kỵ suối chảy.
Đến thì có dừng, dừng thì có cô, phải cầu nhờ hộ.
Chú giải: Long mạch đến cuối cùng hết chỗ phải đề phòng khí cũng đến cùng mà tuyệt, chỗ đất thấp thiết kỵ có nước suối chảy. Có đến thì có dừng, dừng thì hoặc phải cô đơn, phải cầu xung quanh có bảo hộ che chở.
Một không thể sinh, sinh vật tất hai, phải hợp âm dương.
Có Thư có Hùng, có quý có tiện.
Hoặc có Thư Hùng giao độ, không được Thủy thì là mất độ.
Nếu như Long Hổ hộ thai, nhưng mà Huyệt thì là lậu thai.
Chú giải: Đơn âm hoặc đơn dương là một, có âm có dương là hai. Đơn âm đơn dương không thể sinh vật, tất có âm dương kết hợp mới có thể sinh vật. Có Thư có Hùng, có quý có tiện. Hoặc có Thư Hùng giao độ, nếu như được Sơn không được Thủy, thì là mất độ. Nếu như Thanh Long Bạch Hổ hộ Huyệt Thai, chẳng qua Huyệt sẽ làm Lậu Thai.
Khả hỉ, Trên thân Long Hổ sinh phong.
Khả ác, Tầm Huyệt bên đất nê thủy.
Nơi xuất thân, hải xếp bằng xếp đứng.
Nơi kết Huyệt, phải mang tấm đệm mang áo kép.
Chú giải: Khả hỉ, trên thân Thanh Long Bạch Hổ lại sinh bầy núi. Khả ác, tầm huyệt vẫn bên đất nê thủy. Nơi xuất thân Long mạch, phải xếp bằng xếp đứng để hộ Long. Nơi kết huyệt, phải mang tấm đệm mang áo kép, thuyết minh chỗ này là huyệt có dư khí, nhân đinh hưng vượng.
Đương cầu ẩn hiện như thân sơ, vẫn xét xu bỏ kỳ quái.
Tê Giác nha Hổ mà bỏ mất, danh là Tinh tố cáo.
Ly châu kỷ ngọc đều tròn, tức là đem triều cống.
Chú giải: Thấy là Hiện, không thế là Ẩn, hướng về nhau là Thân, nghịch nhau là Sơ. Bất luận là hiện hay ẩn, đều phải hướng về nhau mà không nên nghịch nhau. Sa phải viên chính, Sa không nên phá toái. Sa hình giống như sừng Tê Giác như răng Hổ, chủ ngục tụng là ngôi sao tố cáo. Sa hình tròn trịa ngay ngắn giống như viên châu ngọc, giống như là dâng bày cống nạp là cát.
Cũng có Huyệt ở đáy nước, kỳ mạch dị tích.
Lại có Huyệt ở giữa đá, Bác Long hoán cốt.
Đáy nước tất phải đạo nhãn, giữa đá quý có minh sư.
Sao biết Địa lý tựa có thần, ai dè ruộng dâu có đổi biển.
Chú giải: Huyệt ở đáy nước, tất là Mạch hùng Khí thịnh, chợt gặp thủy cắt ngang giới hạn khí chìm mà thành. Huyệt ở giữa hòn đá, tất là Lai Long chuyển tiếp, đất đá cùng nhau thay đổi mà thành. Đáy nước tất cần đạo nhãn mới có thể nhìn thấy, giữa tảng đá quý có minh sư mới có thể phân biệt được. Sao biết Địa lý tựa như có Thần linh chủ trì, ai biết ruộng dâu có thể thành biển?
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=408&stc=1
8, Luận Long Hổ
Cốt mạch cố nghi bác hoán, Long Hổ cần phải rõ tường.
Hoặc Long khứ Hổ hồi, hoặc Long hồi Hổ khứ.
Hồi thì không nên bức huyệt, Khứ thì cần phải hồi đầu.
Đi thẳng sạch trơn không đóng cản, tất định di dời cùng bại tuyệt.
Chú giải: Cốt mạch Lai long kiên cố nên biến động (Bác hoán), Thanh Long Bạch Hổ cần phải càng thêm rõ ràng. Hoặc là Long khứ Hổ hồi hoặc là Long hồi Hổ khứ. Hồi, thì không nên to lớn gần kề áp bức huyệt, Khứ, thì cần phải quay về ôm quanh huyệt. Nếu đi thẳng sạch trơn không có đóng cản, tất định là di dời ly hương cùng bại tuyệt.
Hoặc có Long không có Hổ,
Hoặc có Hổ không có Long.
Không có Long thủy phải cuộn bên trái,
Không có Hổ thủy phải quấn bên phải.
Chớ đem Thủy làm định Cách,
Nhưng cầu trong Huyệt tàng phong.
Đến đây quan sát cần phải cao,
Càng phải hồi tâm suy xét kĩ.
Hoặc là Long cường Hổ nhược,
Hoặc là Long nhược Hổ cường.
Hổ cường thiết kỵ ngẩng đầu,
Long cường sợ nhất đố kị chủ.
Lưỡng cung cùng đến,
Kỵ chảy nghiêng trước mặt.
Chú giải: Hoặc có Thanh Long không có Bạch Hổ, hoặc có Bạch Hổ không có Thanh Long. Không có Thanh Long thủy phải ôm quanh bên trái, không có Hổ thủy phải quấn quanh bên phải. Chớ đem minh thủy làm tiêu chuẩn định Cách Cục, nhưng cầu tàng phong ở trong huyệt. Đến đây quan sát phải cao minh, càng phải thâm sát cho tỉ mĩ. Hoặc là Thanh Long cường Bạch Hổ nhược, hoặc là Thanh Long nhược Bạch Hổ cường. Bạch Hổ cường thiết kỵ ngẩng đầu, Cát Long cường rất sợ đố kỵ với chủ. Thanh Long Bạch Hổ hai cung cùng đến, kỵ chảy xiết nghiêng thẳng trước mặt.
Một huyệt ở giữa, đề phòng hai bên bắn thẳng tới.
Đông cung đổi qua Tây cung, con trưởng bại tuyệt.
Tay phải mũi nhọn đâm sang bên trái, con trẻ bần hàn.
Rất cần tiêu tức, chớ tự hôn mê.
Chú giải: Một huyệt ở giữa, đề phòng hai bên Sa Long Hổ bắn thẳng. Đông cung Sa Thanh Long vọt qua Tây cung Sa Bạch Hổ, bị Sa Bạch Hổ bắn thẳng, con trưởng bại tuyệt. Tay phải Bạch Hổ bắn thẳng qua bên trái Thanh Long, thuận thủy qua bên trái, trẻ con bần hàn. Long Hổ rất cần chú ý, không thể tâm thô hôn mê.
9, Luận Táng pháp
Tướng sơn như Tướng người,
Điểm huyệt giống như châm cứu.
Một chút nghìn dặm, một ngón vạn sơn.
Chú giải: Tướng Sơn Thủy như xem tướng con người, điểm huyệt giống như điểm huyệt châm cứu. Không thể làm sai một ly.
Nếu có Long sinh thành, tất có Huyệt sinh thành.
Không câu nệ đơn hướng song hướng, nhưng xem hữu tình hay vô tình.
Nếu có nước chảy uốn khúc, định có núi chuyển uốn khúc.
Sao dụng Cửu tinh Bát quái, tất phải quay đầu nhìn bên trong.
Chú giải: Có Long tất có Huyệt, Long Huyệt theo nhau như hai mặt một tờ giấy. 24 hướng, chính hướng là đơn, kiêm hướng là đôi. Không câu nệ chính hướng hay kiêm hướng, nhưng phải xem hữu tình hay vô tình. Chính hướng có tình tức là chính hướng, kiêm hướng có tình tức là kiêm hướng. Thủy Sơn theo nhau, nếu có nước chảy uốn khúc, định có núi chuyển uốn khúc. Hà tất phải dụng Cửu tinh Bát Quái, nhưng sơn thủy tất cần phải quay đầu nhìn bên trong.
Không hướng trong không cầu có, phải ở chỗ có cầu không.
Hoặc tiền nhân không công quan sát, hoặc tạo hóa phúc thiện.
Tay trái tay phải nhanh chậm, đặc biệt nếu không hợp.
Tôn chỉ ngón áp út xích, có khác vân (mây) nê (bùn).
Chú giải: Trong đất không có hướng không có cát huyệt tìm có huyệt cát, cần phải ở trong chỗ đất có cát huyệt trong tốt tìm tốt. Hoặc là nhìn lọt vào mắt tiền nhân, hoặc là ông trời tạo hóa người có phúc hành thiện. Mạch bình mà chậm như bàn tay trái, mạch thẳng mà cấp như cánh tay phải, chỗ nhanh chậm này nếu không hợp. Ngón giữa là Tôn chỉ là chính, ngón áp út là Thiên chỉ là nghiêng. Điểm huyệt có lúc chính có lúc nghiêng, chỉ sai một chút, nhưng có phân biệt lúc cưỡi đón khí bầu trời có mây cùng trên đất có bùn lầy.
Bàng thành tá chủ, thủ quyền ở sinh khí.
Thoát Long tựu Cục, thụ chế ở triều nghênh.
Chú giải: Lai Long có khí, nhưng nhập thủ rất nhẹ hoặc là trở thân nhảy nghịch hoặc là hồi Long nhìn Tổ, chỉ có mượn núi làm chủ để che chở bảo vệ. Bởi vì chịu sự hạn chế của triều nghênh, có thể thoát Long tựu Cục.
Hướng lớn đế nhỏ, hướng nhỏ đế lớn, không nên tạp loạn.
Hoành lai trực thụ, trực lai hoành thụ, lại xem hộ triền.
Phải biết di bộ hoán hình, nhưng lấy Triều sơn chứng huyệt.
Hoàn toàn dựa vào thị lực để châm chước cao thấp,
Dụng tâm kĩ càng để tham tường hướng bối.
Chú giải: Sơn lớn hướng nhỏ chỗ cắm đế huyệt, sơn nhỏ hướng lớn chỗ cắm đế huyệt, không nên tạp loạn. Hoành sơn đến thẳng nhận huyệt, Trực sơn đến hoành nhận huyệt, lại phải xem sơn thủy hộ triền. Phải biết di bộ hoán hình, nhưng lấy triều sơn chứng huyệt. Hoàn toàn dựa vào thị lực châm chước cao thấp, dụng tâm cơ cẩn thận để xét kĩ hướng bối.
Nội trực ngoại câu, tận kham tiền tài.
Nội câu ngoại trực, uổng phí tâm cơ.
Chú giải: Nếu có hai tầng Sa Long Hổ, tầng Sa bên trong tuy thẳng nhưng tầng Sa bên ngoài lại cản trở, ban đầu tuy bất lợi nhưng cuối cùng lại phát, cho nên cố thủ. Nếu tầng bên trong Sa tuy là móc câu nhưng tầng Sa bên ngoài lại thẳng, ban đầu tuy phát nhỏ nhưng cuối cùng thì bại, cho nên uổng phí tâm cơ.
Chớ nói tạo hóa khó hiểu, quan sát động tĩnh có thể trắc.
Chú giải: Không nên cảm thấy phong thủy khó mà gọt giũa, chỉ cần hiểu rõ lý lẽ sơn thủy là được. Sơn vốn tĩnh, thế cầu chỗ động. Thủy vốn động, hay là ở trong tĩnh. Hồ nước bình lặng yên tĩnh thường luôn là nơi Long mạch dừng lại, Long mạch vẫn còn vận động đại biểu Long mạch vẫn còn trốn tránh.
Ở lúc vội vàng biện luận chân giả, độ thuận nghịch ở bên ngoài tính tình, không biết chân quyết, thế nhân uổng lầm.
Chú giải: Phong thủy cát hung ở giữa cái tinh vi, người không biết yếu quyết then chốt, thế nhân sẽ chỉ hiểu lầm.
Nhìn kĩ Bát Quốc chu lưu,
Tường sát Ngũ Tinh biến hóa.
Tiệt khí mạch ở ranh giới đứt hay không đứt,
Nghiệm họa phúc ở giữa chính hay bất chính.
Chú giải: Cẩn thận xem hình thế sa thủy ở bát phương Huyệt tràng, quan sát ngũ hành biến hoán, Huyệt tràng tuyển chỉ ứng ở khí mạch ở ranh giới đứt hay không đứt, hành dừng khí tụ, ở chỗ tồn tại dư khí.
Lại có Dị huyệt Quái huyệt, chỗ ta lấy, chỗ con người vứt bỏ.
Nếu thấy tàng răng co móng, cơ không lường được, hay không thể nói.
Chú giải: Phàm Long không ở, thì chia răng rải móng. Long đến kết, thì co móng giấu răng. Chỗ này chỉ có bậc trí giả mới biết, còn thường nhân thì không thể lường, kỳ diệu vô cùng.
Thạch cốt qua giang hà, vô hình vô ảnh.
Bình địa khởi bồi lâu, nhất đông nhất tây.
Như lúc nhặt vàng trong cát,
Phải định giới mạch trong nước.
Chú giải: Thạch cốt qua giang hà, qua theo đáy nước, cho nên nói vô hình vô ảnh. Bồi lâu là túi đất nhỏ, đất có cát khí, dâng trào mà thành. Điểm huyệt giống như nhặt vàng trong cát, tất phải định giới mạch ở trong nước.
Bình dương huyệt phải châm chước, không nên đào đất và suối.
Núi cao dốc đứng phải xét kĩ, ắt phải trèo cao làm huyệt.
Trong Huyệt phải tránh né gió, chớ dạy cắt tai thổi ngực.
Thủy trước mắt phải huyền hoặc, rất sợ xung tâm bắn sườn.
Chú giải: Đất bình dương, thổ mỏng huyệt cạn cần phải châm chước, không nên đào đất và suối. Tứ sơn núi cao dốc đứng huyệt kết núi cao phải xét tỉ mĩ, ắt phải trèo lên cao làm huyệt. Trong Huyệt phải tránh gió thổi, chớ dạy cắt tai thổi ngực. Trước mắt thủy phải huyền hoặc, rất sợ xung tâm bắn sườn.
Thổ Sơn thạch Huyệt, ôn nhuận vi kỳ.
Thổ Huyệt thạch Sơn, tha nga bất cát.
Núi đơn cũng có thể thủ dụng, bốn mặt nhất định phải có tường ngăn. Nếu vẫn độc lập không có chỗ dựa, thiết kỵ ập xuống hạ huyệt. Gió thổi nước cướp, là nói chỗ không biết xén bỏ. Trái trống phải không, chẳng những vô ích mà còn tổn.
Thạch cốt nhập tướng, không sợ gồ ghề.
Thổ mạch vận hành, sao phòng đoạn tuyệt.
Nhưng sợ thô xấu, quý được vuông tròn.
Quá hạp nếu gặp gió đưa,
Làm huyệt định biết lực cạn.
Trước Huyệt thủy gãy, chiếu lệ dây thừng.
Xem hình trên Đồ, tùy cơ ứng biến.
Chú giải: Nhập tướng tức là có hình có thế, có dung kết, cho nên không sợ gồ ghề. Thổ là thể của khí, có thổ tức là có khí, cho nên có thổ sao đề phòng khí tuyệt. Nhưng sợ núi thô xấu, quý được núi vuông tròn. Hành Long Quá hạp nếu gặp gió lay, phủ đầu làm huyệt định biết là lực cạn. Trước Huyệt nước chảy xiết chuyển, y pháp theo dây thừng. Xem hình ở trên Đồ hình, tùy cơ ứng biến.
Huyệt to cao mà dễ phát, hoa phát trước mà sớm héo tàn.
Cao thấp phù hợp, sẽ thấy cát phúc.
Chú giải: Huyệt nếu lớn nếu cao mà dễ dàng phát, chỉ giống như hoa phát trước mà sớm úa tàn. Tốt nhất là cao thấp phù hợp, thấy ngay cát phúc.
Tuy viết Sơn tốt thì Mạch tốt,
Sao biết hình chân thì huyệt chân.
Gối trên mũi Long, sợ tổn thương môi.
Một chút vai Rùa, sợ tổn thương vỏ.
Xuất thảo Xà lấy tai nghe Cáp,
Xuất hạp Quy lấy mắt mà xem.
Cử nhất ngung mà phản tam ngung,
Xúc nhất loại mà trường vạn loại.
Mặc dù huyệt cát, cũng kỵ táng hung.
Chú giải: Tuy nói Sơn tốt thì Mạch hảo, sao biết Hình ngay ngắn thì Huyệt tình chân. Lập huyệt không thể to thấp, giống như gối trên mũi Long, chỉ sợ làm tổn thương môi Long. Lập huyệt không thể quá cao, giống như một chút vai Rùa, chỉ sợ tổn thương vỏ xác. Lập huyệt nên lệch, như Xà ra khỏi cỏ lấy tai nghe Cáp (con tắc kè), như Quy (Rùa) xuất hạp (eo sông) lấy mắt mà nhìn. Đưa ra nhất ngung lại là tam ngung, tiếp xúc một loại mà dài vạn loại. mặc dù huyệt cát, cũng kỵ táng hung.
10, Luận Khắc Trạch
Lập hướng biện phương, lấy đúng kim Tý Ngọ làm chính.
Lúc làm pháp y, phải tìm năm tháng ngày tốt.
Chú giải: Lập tọa hướng biện phương vị, lấy kim Tý Ngọ làm chính. Kim chính lấy Tý Ngọ Mão Dậu cư ở Tứ Chính, Càn Khôn Cấn Tốn cư ở Tứ Duy. Lúc làm pháp y, phải tìm năm tháng ngày lương thần.
Núi sông có vết tỳ tiểu tiết,
Không làm giảm hậu phúc Chân Long.
Năm tháng có mất một mặt,
Cát địa lại thành hoạ sâu.
Đa số là tin dị thuyết mà mê muội chính ngôn,
Cho nên sinh hung mới tiêu phúc mình.
Không bằng sơn cát thủy cát mà huyệt cát, sao lấy nhiều hoạ?
Sao biết năm hung tháng hung và ngày hung, là phạm võng giác.
Chú giải: Núi song có chút bên nhỏ, cũng không làm giảm hậu phúc Chân Long. Năm tháng có mất một đầu, cát địa lại thành tai họa. Đa số là tin dị thuyết mà không tin lời nói chính xác, cho nên sinh hung mới mà làm tiêu tan phúc đã có. Không bằng sơn cát thủy cát mà huyệt cát, sao có nhiều hoạ? Sao biết năm hung tháng hung và ngày hung, phạm mà không phát hiện ra.
Quá thì chớ ngại đổi, nên cầu ở minh sư.
Trạch này là không tinh, lầm ở tầm nhìn cạn.
Nói hung là cát, nói cát là hung.
Nghĩ phú quý ở giữa bàn tay mịt mờ,
Nhận họa phúc ở Cục Tinh thần bên trong Cục.
Sao biết đại phú đại quý mà hưởng thụ lớn,
Tiểu cát tiểu phúc mà nhận phúc nhỏ.
Chú giải: Có sai lầm thì không sợ sữa đổi, nên cầu ở Minh sư. Trạch cát mà không tinh, sai lầm ở tầm nhìn hạn hẹp. Nắm hung nói thành cát, đem cát nói thành hung. Ngông cuồng đặt ra phú quý ở giữa long bàn tay mù mịt, nhận sai lầm họa phúc ở Cục Tinh thần ở bên trong Cục. Sao biết đại phú đại quý mà hưởng thụ phúc lớn, tiểu cát tiểu phúc mà nhận lấy phúc nhỏ.
Lời nói ngẫu nhiên, tự cho thần thuật.
Nói ẩu mai kia tài hối, vì sao ra hậu hoạn.
Sai nghìn dặm ở một ly, xin thầy lời này vậy.
Chú giải: Bình thường thầy trang Đồ hình Cục mà luận cát hung, nắm loại quyết để đoán họa phúc, một lời nói ngẫu nhiên, khoe thuật như thần. Nếu Đồ hình trước mắt là tài, chỉ biết lợi mình mà hại người, hậu hoạn vô cùng. Sai từ nghìn dặm là bắt đầu sai từ một ly, nhất định xin nhớ kĩ lời này.
11, Luận Tổ phần tiên tích
Truy tầm Tiên tích, xem cách thắng hơn xem sách.
Kính khuyên thế nhân, tin tai không bằng tin mắt.
Chú giải: Truy tầm cổ phần tổ tiên, nhìn thực địa xem cách cục phong thủy thắng hơn là xem sách. Kính khuyên thế nhân, tin mọi người kiến nghị phù phiếm không bằng tin bản thân mắt thấy chân thực.
Núi cao đá thô xước chảy xiết, sao có Chân Long?
Tả hồi hữu bão chủ nghênh tân, định sinh hiền tá.
Chú giải: Núi cao đá thô nước chảy xiết, khí tán mà không tụ, sao có Chân Long? Tả Long hữu Hổ ôm quanh Chủ đón Khách, định sinh hiền lương để phò tá Minh chủ.
Thủ tượng, tất phải hợp hình.
Vừa mắt, định là hữu tình.
Chú giải: Thủ tượng, gọi hình tất cần phải hợp nhau mới chân. Hợp mắt, là nói hình thế tú lệ định là Sơn Thủy hữu tình.
Phúc Tổ phần là phú quý, tất núi song phải chính khí.
Năm nào hưng, năm nào phế, giám bỉ thành quy.
Một sơn cát, một sơn hung, sang tỏ ở mắt.
Chú giải: Tổ phần gia đình phú quý, tất phải có kết quả sơn xuyên chính khí. Năm nào hưng, năm nào phế, giám nghiệm khái quát thành quy luật. Một sơn cát, một sơn hung, quan sát rõ ràng ở trước mắt.
Thủy họa phúc lập tức thấy, Sơn ứng nghiệm hơi chậm.
Địa tuy cát mà táng đa hung, cuối cùng không có phát.
Ẩn ở trên Huyệt mà tìm không thấy, tạm chờ hậu nhân.
Chú giải: Bởi vì Thủy họa phúc lập tức thấy, bởi vì Sơn ứng nghiệm hơi chậm. Địa tuy cát mà an táng không phù hợp, hoặc là quá cao quá thấp, hoặc là quá tả quá hữu, hoặc là quá sâu quá cạn, đa số là hung cuối cùng cũng không phát. Ẩn ở trên Huyệt mà tìm không thấy, chính là lưu lại chờ hậu nhân, bất tất chớ có cưỡng cầu.
12, Luận Hậu Long
Không cầm đã thấy mà nghĩ tinh vi,
Phải xem Hậu Long mà phân quý tiện.
Chú giải: Không nên cố chấp với thiên kiến của mình mà hư cấu lý lẽ tinh vi.
Tam cát cuối cùng là ở đất nào, thì lấy bước đi tiến tới thoái lui đo lường;
Kiếp hại xuất ở phương nào, thì lấy năm ứng tam hợp tứ xung.
Gặp cát thì phát, bàng hung thì họa.
Chú giải: Tham Cự Vũ tinh là Tam Cát, tiến tới trước là từ huyệt mà hướng phía trước, thoái lui là từ huyệt mà thoái lui về sau. Thoái lui về sau là xem số đoạn ở phía sau Long để định cát hung, gặp cát tinh thì đất này tất đại phát. Là bước đi tiến về phía trước thủy xem cát hung, như trước thủy có tình là cát, chảy xiết bay thẳng là hung.
+ Huyệt tràng có hung sơn hung thủy gọi là Kiếp hại;
+ Tam hợp có: Dần Ngọ Tuất hợp hỏa, Tị Dậu Sửu hợp kim, Hợi Mão Mùi hợp mộc, Thân Tý Thìn hợp thủy.
+ Tứ xung có: Tý Ngọ Mão Dậu xung, Dần Thân Tị Hợi xung, Thìn Tuất Sửu Mùi xung.
Đất này là tam hợp tứ xung.
+ Thiên can tam hợp: Càn Giáp Đinh, Khôn Ất Nhâm, Tốn Canh Quý, Cấn Bính Tân.
+ Thiên can tứ xung: Giáp Canh Bính Nhâm, Ất Tân Đinh Quý, Càn Khôn Cấn Tốn.
Như ở trên Ngọ có hung sơn hung thủy thì có Dần Ngọ Tuất cùng Tý Ngọ xung hợp năm người sinh cùng năm đó chủ họa, phương có cát sơn cát thủy cũng ứng lấy phúc giống như vậy. Gặp cát thì phát, bàng hung thì họa.
Sơn lớn Thủy nhỏ, Đường Cục phải rộng bằng phẳng;
Thủy lớn Sơn nhỏ, quý ở Tổ tông cao dày.
Chú giải: Sơn lớn Thủy nhỏ, hình thế cách cục Minh Đường phải rộng rãi bằng phẳng; Thủy lớn Sơn nhỏ, lai Long quý ở đỉnh núi Tổ tông cao dầy.
13, Luận Thủy khẩu
Một khởi một phục đoạn hết đoạn, đến cuối định có chân tung;
Cửu khúc cửu loan hồi phục hồi, hạ thủ lền tầm Thủy Khẩu.
Chú giải: Long đến một khởi một phục đoạn hết đoạn, đến cuối định kết đại địa kỳ dị; thủy đến 9 khúc 9 cong hồi phục hồi, phải ở chỗ hạ thủ tìm kiếm Thủy khẩu.
Sơn ngoại sơn trù điệp, bổ khuyết chướng không;
Thủy ngoại thủy hoành lan, cung viên nỏ mãn.
Chú giải: Ngoài núi lại có núi non trùng trùng điệp điệp, bổ khuyết che chỗ trống không; ngoài thủy có thủy cản ngang, như cung tên được kéo vòng nỏ được căng đầy.
Khẩn Củng, là phú phát cực nhanh,
Khoan bình, là phúc tất sâu dài.
Chú giải: Núi xung quanh tài lộc khẩn củng, chủ phát phú cực nhanh, không chuyển chân là phát. Hình thế cách cục Sa Thủy rộng rãi bằng phẳng phúc tất lâu dài.
Cây trúc rừng tốt, có thể nghiệm khí tượng thịnh suy;
Thiên quan Địa trục, có thể nghiệm phú quý lâu mau.
Chú giải: Hai bên trạch mộ cây rừng che chắn xanh tươi, đây là dấu hiệu hưng thịnh. Nếu cây trúc suy mục, là dấu hiệu nhân tài suy bại. Xem khí tượng rừng trúc, có thể nghiệm phúc phận thịnh suy con người. Thiên quan là thủy đến Thiên Môn, Địa Trục là Địa Hộ xuất thủy, hai chỗ này co thể nghiệm phú quý nhanh hay chậm.
14, Luận La Thành ở núi cao và đồng bằng
Ngưu sợ thẳng thừng, Hổ phòng ám tiễn.
Chú giải: Huyệt là Thổ Ngưu, sợ phía trước có nước chảy thẳng đi như dây thừng thẳng. Hổ cũng là nói huyệt, phải đề phòng Sơn Thủy xung bắn giống như đề phòng ám tiễn.
Huyền Vũ không nên thè lưỡi,
Chu Tước thiết kỵ phá đầu
Chú giải: Sa dư khí ở phía trước Huyệt trổ dài hai bên không có bao túi, gọi là Huyền Vũ thè lưỡi, là không nên. Trước sơn thiết kỵ phá sụp tan hoang.
Phía trước Huyệt kỵ thấy hố sâu,
Trên cánh tay sợ hành giao lộ.
Chú giải: Phía trước Huyệt có hố sâu danh là Âm Tuyền, là không có thộc về Dư khí cho nên kỵ. Trên cánh tay Long Hổ hành giao lộ danh là Giao Lực, chủ có họa sát thương.
Thượng bất chính mà Hạ sai lầm, là vô dụng;
Tả trống khuyết mà Hữu ôm nặng, là phí công.
Chú giải: Ở trên nghiêng tà không chính thì mạch không đến, ở dưới dài ngắn không đồng đều thì mạch tán loạn, danh là Cành Cọ treo ngược, là đất vô dụng.
Nếu bên trái trống khuyết cho dù bên phải có Sa nhiều ôm nặng, cũng là chỉ uổng công vô ích.
Chú giải: Nếu bên ngoài Sa Thủy bề ngoài không đủ nhưng bên trong Huyệt tràng tướng có cát, có thể được. Chỗ lớn khả quan, đoạn nhỏ khả lược, có thể cầm chắc là người thông minh.
Tinh thần nào hiển lộ lại bất tường,
Hình thế nào ẩn chuyết lại là cát.
Bởi ẩn chuyết lại có kỳ tung dị tích,
Hiển lộ nhiều là hoa huyệt giả hình.
Chú giải: Tại sao Sa Thủy tú lệ rõ ràng mà lại là không cát? Tại sao hình thế xấu gầy ẩn chuyết trái lại là cát? Bởi vì ẩn chuyết lại là người bình thường không thể nhận rõ kỳ tung dị tích, còn hiển lộ là huyệt hoa giả hình.
Keo dán trống đàn làm sao biết,
Án đồ tác ký làm sao hiểu.
Ngoại mạo không đủ, mà nội tướng có dư, ai có thể biện chỗ này?
Đại tượng khả quan, mà tiểu tiết khả lược, kẻ trí giả có biết.
Chú giải: Nếu người không đủ trí tuệ, giống như keo dán trụ gỗ bất động, sao có thể làm trống đàn hòa âm; nếu người ngu muội, giống như không cầu lấy tuấn mã đức hạnh, duy chỉ có cầu lấy ngựa thường, người như vậy lại làm sao mà hiểu biết chứ?
Trên Thành Tinh phong cao ngất, đúng như cắm kích hộ tường;
Trước mặt ụ đất rầu rĩ, đổi lại vái chào nha môn.
Chú giải: Ba mặt Huyệt tràng đỉnh tinh phong cao ngất, giống như cắm kích hộ vệ tường thành; xung quanh Huyệt tràng Sa giống như sai dịch xếp ở trước nha môn, như binh sĩ vái chào tuân lệnh.
Hoa Biểu Hãn Môn cư Thủy khẩu,
Lâu đài Cổ giác liệt La Thành.
Nếu không phải lập quận thiên đô,
Định chủ làm quan kề cận Vua.
Chú giải: Một ngọn núi duy nhất đứng thẳng xưng là Hoa Biểu, hai núi cùng dựng thẳng xưng là Hãn Môn. Từng dãy núi cao mà tròn gọi là Lâu đài, từng dãy núi nhọn mà thanh tú gọi là Cổ Giác. Có 4 ngọn núi này, nếu không phải lập quận thiên đô, định chủ là làm quan kề cận nhà vua.
Chúng sơn phúc thấu, phú mà còn quý;
Bách xuyên đồng quy, thanh mà lại trường.
Chú giải: Chúng sơn đều củng tập tụ hội hữu tình, phú quý song toàn; trăm sông cùng tụ sinh khí đại vượng, hưởng phúc vô cương.
Sơn xưng Thủy, Thủy xưng Sơn, không nên quá lệch;
Hổ nhượng Long, Long nhượng Hổ, chỉ cần ngang nhau.
Chú giải: Sơn Thủy tương xứng thì là đất toàn mỹ, có sơn không có thủy hoặc có thủy không có sơn, hoặc nhiều sơn ít thủy hay nhiều thủy ít sơn gọi là quá lệch, không cát. Long Hổ quý ở nhượng nhau mà không nên tranh đấu nhau, càng phải uốn cong hàng phục, chỗ này tức là ngang nhau.
Bát môn khuyết, bát phong xuy, chu môn ngạ phu;
Tứ Thủy quy, Tứ Thú tụ, bạch ốc công khanh.
Chú giải: Tám mặt khuyết lõm bát phong cùng thổi, người nhà giàu biến thành người chết đói. Tứ Thủy quy tụ về Minh Đường, Tứ Thú hộ vệ tuy không phải là quý tộc nhưng bỗng nhiên xuất ra đại quan công khanh.
Đột trung chi quật tu thiên, quật trung chi đột mạc khí.
Chú giải: Đột là phù, Quật là trầm, trong phù có trầm trong trầm có phù, là âm dương kết hợp, không ứng bỏ đi mà ứng dời táng.
Cùng nguyên nghìn Nhẫn, không bằng một đống đồng bằng;
Ngoài thẳng nghìn dặm, không bằng một Án Miên cung.
(Nhẫn là đơn vị đo lường thời xưa, bằng 8 thước; một thước bằng 1/3m)
Chú giải: Chỗ ban đầu phát Sơn Thủy gọi là Cùng nguyên, 8 thước là một nhẫn. Chỗ ban đầu núi phát Sơn thủy nghìn nhẫn không quý trọng bằng một đống ở đất bằng, bởi vì trước khi ban đầu phát khí chính mạnh mẽ tuôn ra núi cao là không khó, nhưng khi đến đất bằng thì khí đã bình phục, nếu không phải khí cực thịnh, thì không thể tuôn ra mạnh thành một đống đất, cho nên là quý. Bên ngoài khởi núi cao nghìn dặm, cũng không bằng kề gần uốn cong ôm lấy Án sơn.
Sơn tú Thủy hưởng, nói chung là tuyệt huyệt;
Thủy cấp Sơn thô, đa số là thần đàn.
Chú giải: Sơn tuy tú lệ nhưng nước chảy xiết mà có tiếng vang, cuối cùng đều là đất huyệt tuyệt. Thủy cấp Sơn thô, không nên cắm vào mộ phần lập trạch, chỉ làm thần đàn xã miếu.
Bất luận bình địa cao sơn, nói chung huyệt nên sâu;
Nếu như cùng nguyên tích ổ, sao có Chân Long.
Chú giải: Bất luận là đồng bằng hay núi cao, nói chung cần mai táng huyệt sâu; núi cao có thể đào hố sâu, nhưng đồng bằng nước cạn không thể đào sâu, có thể bùn lấp mà có thể chôn sâu. Nếu như là Cùng nguyên hiếm ụ đất, khí không tụ, thì sao có Chân Long.
Xa xa cước đầu; nhãn lực cao sĩ.
Chú giải: Leo núi thật nhiều, chỗ xa được chân, đứng cao nhìn xa, để khảo sát tinh vi.
13, Luận Thủy khẩu
Một khởi một phục đoạn hết đoạn, đến cuối định có chân tung;
Cửu khúc cửu loan hồi phục hồi, hạ thủ lền tầm Thủy Khẩu.
Chú giải: Long đến một khởi một phục đoạn hết đoạn, đến cuối định kết đại địa kỳ dị; thủy đến 9 khúc 9 cong hồi phục hồi, phải ở chỗ hạ thủ tìm kiếm Thủy khẩu.
Sơn ngoại sơn trù điệp, bổ khuyết chướng không;
Thủy ngoại thủy hoành lan, cung viên nỏ mãn.
Chú giải: Ngoài núi lại có núi non trùng trùng điệp điệp, bổ khuyết che chỗ trống không; ngoài thủy có thủy cản ngang, như cung tên được kéo vòng nỏ được căng đầy.
Khẩn Củng, là phú phát cực nhanh,
Khoan bình, là phúc tất sâu dài.
Chú giải: Núi xung quanh tài lộc khẩn củng, chủ phát phú cực nhanh, không chuyển chân là phát. Hình thế cách cục Sa Thủy rộng rãi bằng phẳng phúc tất lâu dài.
Cây trúc rừng tốt, có thể nghiệm khí tượng thịnh suy;
Thiên quan Địa trục, có thể nghiệm phú quý lâu mau.
Chú giải: Hai bên trạch mộ cây rừng che chắn xanh tươi, đây là dấu hiệu hưng thịnh. Nếu cây trúc suy mục, là dấu hiệu nhân tài suy bại. Xem khí tượng rừng trúc, có thể nghiệm phúc phận thịnh suy con người. Thiên quan là thủy đến Thiên Môn, Địa Trục là Địa Hộ xuất thủy, hai chỗ này co thể nghiệm phú quý nhanh hay chậm.
14, Luận La Thành ở vùng núi cao và đồng bằng
Ngưu sợ thẳng thừng, Hổ phòng ám tiễn.
Chú giải: Huyệt là Thổ Ngưu, sợ phía trước có nước chảy thẳng đi như dây thừng thẳng. Hổ cũng là nói huyệt, phải đề phòng Sơn Thủy xung bắn giống như đề phòng ám tiễn.
Huyền Vũ không nên thè lưỡi,
Chu Tước thiết kỵ phá đầu
Chú giải: Sa dư khí ở phía trước Huyệt trổ dài hai bên không có bao túi, gọi là Huyền Vũ thè lưỡi, là không nên. Trước sơn thiết kỵ phá sụp tan hoang.
Phía trước Huyệt kỵ thấy hố sâu,
Trên cánh tay sợ hành giao lộ.
Chú giải: Phía trước Huyệt có hố sâu danh là Âm Tuyền, là không có thộc về Dư khí cho nên kỵ. Trên cánh tay Long Hổ hành giao lộ danh là Giao Lực, chủ có họa sát thương.
Thượng bất chính mà Hạ sai lầm, là vô dụng;
Tả trống khuyết mà Hữu ôm nặng, là phí công.
Chú giải: Ở trên nghiêng tà không chính thì mạch không đến, ở dưới dài ngắn không đồng đều thì mạch tán loạn, danh là Cành Cọ treo ngược, là đất vô dụng. Nếu bên trái trống khuyết cho dù bên phải có Sa nhiều ôm nặng, cũng là chỉ uổng công vô ích.
Chú giải: Nếu bên ngoài Sa Thủy bề ngoài không đủ nhưng bên trong Huyệt tràng tướng có cát, có thể được. Chỗ lớn khả quan, đoạn nhỏ khả lược, có thể cầm chắc là người thông minh.
Tinh thần nào hiển lộ lại bất tường,
Hình thế nào ẩn chuyết lại là cát.
Bởi ẩn chuyết lại có kỳ tung dị tích,
Hiển lộ nhiều là hoa huyệt giả hình.
Chú giải: Tại sao Sa Thủy tú lệ rõ ràng mà lại là không cát? Tại sao hình thế xấu gầy ẩn chuyết trái lại là cát? Bởi vì ẩn chuyết lại là người bình thường không thể nhận rõ kỳ tung dị tích, còn hiển lộ là huyệt hoa giả hình.
Keo dán trống đàn làm sao biết,
Án đồ tác ký làm sao hiểu.
Ngoại mạo không đủ, mà nội tướng có dư, ai có thể biện chỗ này?
Đại tượng khả quan, mà tiểu tiết khả lược, kẻ trí giả có biết.
Chú giải: Nếu người không đủ trí tuệ, giống như keo dán trụ gỗ bất động, sao có thể làm trống đàn hòa âm; nếu người ngu muội, giống như không cầu lấy tuấn mã đức hạnh, duy chỉ có cầu lấy ngựa thường, người như vậy lại làm sao mà hiểu biết chứ?
Trên Thành Tinh phong cao ngất, đúng như cắm kích hộ tường;
Trước mặt ụ đất rầu rĩ, đổi lại vái chào nha môn.
Chú giải: Ba mặt Huyệt tràng đỉnh tinh phong cao ngất, giống như cắm kích hộ vệ tường thành; xung quanh Huyệt tràng Sa giống như sai dịch xếp ở trước nha môn, như binh sĩ vái chào tuân lệnh.
Hoa Biểu Hãn Môn cư Thủy khẩu,
Lâu đài Cổ giác liệt La Thành.
Nếu không phải lập quận thiên đô,
Định chủ làm quan kề cận Vua.
Chú giải: Một ngọn núi duy nhất đứng thẳng xưng là Hoa Biểu, hai núi cùng dựng thẳng xưng là Hãn Môn. Từng dãy núi cao mà tròn gọi là Lâu đài, từng dãy núi nhọn mà thanh tú gọi là Cổ Giác. Có 4 ngọn núi này, nếu không phải lập quận thiên đô, định chủ là làm quan kề cận nhà vua.
Chúng sơn phúc thấu, phú mà còn quý;
Bách xuyên đồng quy, thanh mà lại trường.
Chú giải: Chúng sơn đều củng tập tụ hội hữu tình, phú quý song toàn; trăm sông cùng tụ sinh khí đại vượng, hưởng phúc vô cương.
Sơn xưng Thủy, Thủy xưng Sơn, không nên quá lệch;
Hổ nhượng Long, Long nhượng Hổ, chỉ cần ngang nhau.
Chú giải: Sơn Thủy tương xứng thì là đất toàn mỹ, có sơn không có thủy hoặc có thủy không có sơn, hoặc nhiều sơn ít thủy hay nhiều thủy ít sơn gọi là quá lệch, không cát. Long Hổ quý ở nhượng nhau mà không nên tranh đấu nhau, càng phải uốn cong hàng phục, chỗ này tức là ngang nhau.
Bát môn khuyết, bát phong xuy, chu môn ngạ phu;
Tứ Thủy quy, Tứ Thú tụ, bạch ốc công khanh.
Chú giải: Tám mặt khuyết lõm bát phong cùng thổi, người nhà giàu biến thành người chết đói. Tứ Thủy quy tụ về Minh Đường, Tứ Thú hộ vệ tuy không phải là quý tộc nhưng bỗng nhiên xuất ra đại quan công khanh.
Đột trung chi quật tu thiên, quật trung chi đột mạc khí.
Chú giải: Đột là phù, Quật là trầm, trong phù có trầm trong trầm có phù, là âm dương kết hợp, không ứng bỏ đi mà ứng dời táng.
Cùng nguyên nghìn Nhẫn, không bằng một đống đồng bằng;
Ngoài thẳng nghìn dặm, không bằng một Án Miên cung.
(Nhẫn là đơn vị đo lường thời xưa, bằng 8 thước; một thước bằng 1/3m)
Chú giải: Chỗ ban đầu phát Sơn Thủy gọi là Cùng nguyên, 8 thước là một nhẫn. Chỗ ban đầu núi phát Sơn thủy nghìn nhẫn không quý trọng bằng một đống ở đất bằng, bởi vì trước khi ban đầu phát khí chính mạnh mẽ tuôn ra núi cao là không khó, nhưng khi đến đất bằng thì khí đã bình phục, nếu không phải khí cực thịnh, thì không thể tuôn ra mạnh thành một đống đất, cho nên là quý. Bên ngoài khởi núi cao nghìn dặm, cũng không bằng kề gần uốn cong ôm lấy Án sơn.
Sơn tú Thủy hưởng, nói chung là tuyệt huyệt;
Thủy cấp Sơn thô, đa số là thần đàn.
Chú giải: Sơn tuy tú lệ nhưng nước chảy xiết mà có tiếng vang, cuối cùng đều là đất huyệt tuyệt. Thủy cấp Sơn thô, không nên cắm vào mộ phần lập trạch, chỉ làm thần đàn xã miếu.
Bất luận bình địa cao sơn, nói chung huyệt nên sâu;
Nếu như cùng nguyên tích ổ, sao có Chân Long.
Chú giải: Bất luận là đồng bằng hay núi cao, nói chung cần mai táng huyệt sâu; núi cao có thể đào hố sâu, nhưng đồng bằng nước cạn không thể đào sâu, có thể bùn lấp mà có thể chôn sâu. Nếu như là Cùng nguyên hiếm ụ đất, khí không tụ, thì sao có Chân Long.
Xa xa cước đầu; nhãn lực cao sĩ.
Chú giải: Leo núi thật nhiều, chỗ xa được chân, đứng cao nhìn xa, để khảo sát tinh vi.
15, Luận Sa Thủy không câu nệ phương vị
Căn lớn thì hưng thịnh, gốc sâu thì chảy dài.
Chú giải: Tổ sơn cao to phân nhánh tất là hưng thịnh, nguồn nước sâu xa phân chảy rất tất dài.
Quý chân Long mà Huyệt chính, Thủy tú phải lấy Sa minh.
Chú giải: Tiêu chuẩn quý Long Huyệt là Long chân Huyệt chính, tiêu chuẩn Sa Thủy tốt là Thủy tú Sa minh.
Đăng sơn thấy một dòng nước chảy nghiêng tà, là thoái quan mất chức;
Nhập huyệt thấy chúng sơn đi nghịch, xa tỉnh rời quê.
Chú giải: Leo núi thấy một dòng nước chảy nghiêng tà, làm quan chủ mất chức, thứ là người vì quan mà bại; nhập huyệt thấy chúng sơn đi nghịch, là thoát tỉnh ly hương không có cứu trợ.
Nếu thấy văn bút cô đơn, là nghiên mực ô trọc.
Uổng tạc tường Khuông Hành, chỉ phí cánh cửa Tôn Kính.
Chú giải: Cô đơn, là núi cô độc không thể nào tước gọt xung quanh; Ô trọc, là nghiêng về ao đầm dơ bẩn. Hán Khuông Hành lúc trẻ nhà nghèo không có đèn thắp sáng, đục tường nhờ ánh sáng nhà bên cạnh đọc sách, về sau làm quan đến Tể tướng. Sở Tôn Kính thường mơở tài khoản đi học, 10 năm không ra gì, ngủ thì lấy dây thừng buộc tóc. Ý nói chỗ này là trước huyệt có văn bút tuy là thanh tú mà cô đơn, ao đầm có nước mà đục, tuy có Khuông Hành Tôn Kính đốc học, cuối cùng vẫn không thể thành công.
Tài sơn bị lưu sơn trở lại dắt, ong hoa ủ mật;
Có ôm ấp núi tròn tú dị, Quả doanh phụ minh.
Chú giải: Tài sơn là hai bên Sa tròn mà nấp, phải ôm củng là cát, nếu bị nước chảy trở lại dắt đi hướng ra bên ngoài, giống như ong ủ mật là bị người lấy đi. Quả doanh (con tò vò), là một loại đất núi màu xanh biếc, con tò vò là loài côn trùng màu đen ở trên cây dâu. Con tò vò cậy ở trên cây dâu, con thanh trùng dạy 7 ngày hối hận, nói như chúng ta, biến thành con mình. Phàm Long Hổ ôm ở bên trong một hòn núi nhỏ tròn, chủ ứng có nhận con nuôi.
Một tuổi chín dời, định là cửu lưu cửu khúc;
10 năm không điều, bởi vì sơn bất thập toàn.
Chú giải: Một tuổi 9 dời, định là trước mặt nước chảy 9 khúc; q0 năm không điều, bởi do Sơn Thủy bất thập toàn.
Nếu Thủy uốn khúc hữu tình, không hợp Tinh thần cũng cát;
Nếu Sơn nghiêng tà phá toái, dẫu hợp Quái lệ như thế nào.
Chú giải: Nếu Thủy uốn khúc hữu tình, không hợp học thuyết Tinh thần cũng cát; Nếu Sơn nghiêng tà phá toái, dẫu có hợp Quái lệ giải thích cũng không khởi tác dụng.
Phúc tông tuyệt tự, đa số vì Thủy tận Sơn cùng;
Diệt tộc vong gia, nói chung là sơn phi thủy tẩu.
Chú giải: Đoạn tông tuyệt tự, đa số bởi vì Thủy tận Sơn cùng đất vô khí; Diệt tộc vong gia, nói chung là do sơn bay thủy chạy. Không hỏi phương vị ở đâu, đều là điềm hung.
16, Luận Thân Long quý khí
Luận quan phẩm cao thấp, lấy Long pháp mà suy cầu.
Chú giải: Quan vị cao thấp, là do Long pháp quyết định.
Thiên Ất Thái Ất xâm vân tiêu, vị cư thai gián;
Cầm tinh Thú tinh cư Thủy khẩu, thân ở hàn lâm.
Chú giải: Đỉnh núi Thiên Ất Thái Ất ở hai bên phía sau huyệt, hoặc đỉnh núi ở phương vị Tốn Tân, nếu cao tận mây, địa vị đại quan cư ở bên trong đài can gián. Sơn thạch giống như Rùa Cá đầu hộc thì xưng là cầm tinh, sơn thạch giống như sư tử hổ tê voi ngựa trâu thì xưng là Thú tinh, nếu cư ở Thủy khẩu, chủ xuất đại quan Hàn lâm.
Số dãy núi cắm bên ngoài bầu trời, tích thế công khanh;
Cửu khúc nhập Minh Đường, Tể tướng đương triều.
Chú giải: Số dãy núi cắm bên ngoài bầu trời, mấy đời xuất công khanh; 9 dòng nước nhập vào Minh Đường, là đương triều xuất Tể tướng.
Tả cờ Hữu trống, Vũ tướng binh quyền;
Trước che sau bằng, Văn thần tể phụ.
Chú giải: Cờ trống đóng quân, chủ xuất vũ tướng binh quyền; trước có màn trướng che, sau có xe cộ hộ tống, tất là xuất Tể phụ Văn thần.
Tê Ngưu vọng Nguyệt, Thanh sam xuất tự Thiên cù;
Đan Phượng hàm thư, Tía chiếu ban ở Đế Khuyết.
Chú giải: Tê Ngưu vọng nguyệt, thì Nguyệt là Kim tinh, Thanh tú thấp kém, đa số xuất thần đồng khoa đệ. Thiên cù, giải thích chỗ này là ở trên trời che chở có phúc ấm. Đan phượng hàm thư, trước huyệt có một chữ văn tinh, chủ con cháu quý hiển nhận vua báo phần thưởng cao quý.
Văn bút liền với Cáo trục, nhất cử đăng khoa;
Tịch mạo gần với Ngự bình, đông cung hầu hạ.
Chú giải: Văn bút, là đỉnh núi cao nhọn; Cáo trục, là núi bằng ngang mà đầu hơi cao, ngã xuống đất hình Mộc tinh; Tịch mạo, là đầu cao tròn mà vai rũ xuống như cái nón; Ngự bình, là đỉnh Thổ tinh vuông bằng ngay ngắn lại cao to giống như tấm bình phong. Văn bút liền với Cáo trục, người đọc sách một lần liền đăng khoa cập đệ; Tịch mạo gần với Ngự bình, xuất ra quan đi học phụ đạo cho Đông cung Thái Tử đọc sách.
Nha Đao Giao Kiếm, danh cầm binh suất;
Cổ Giác Mai Hoa, thân lĩnh chức Tri châu.
Chú giải: Một Sa ôm nhọn gọi là Nha Đao, hai Sa ôm nhọn gọi là Giao Kiếm, hai bên thân Long buông xuống Sa nhọn gọi là Bội Kiếm. Có huyệt này xuất ra Đại tướng quân Nguyên soái. Khổn, ý là Tướng soái thống binh ở bên ngoài. Số núi ngay thẳng ở giữa cao viên gọi là Cổ, ở giữa cao tiêm gọi là Giác, 5 đỉnh viên củng mà thẳng đứng gọi là Mai Hoa. Có huyệt này xuất ra quan Tri châu Thứ sử.
Ngân bình Trản chú, phú sánh Thạch Sùng;
Ngọc đái Kim ngư, quý như Bùi Độ.
Chú giải: Núi nhỏ rầu rỉ như như dạng lọ bạc ngọn đèn là chủ đại phú. Thạch Sùng là người giàu có thời Tây Tấn Huệ đế. Thủy tinh ôm cong gọi là Ngọc Đái, Kim tinh tiểu xảo gọi là Kim Ngư. Thân Long mang đến cùng thấy phía trước Sa, chủ xuất đại quý như Bùi Độ. Bùi Độ là Tể tướng thời Đường Hiến Tông, có phong độ thanh tiết, Văn đế phong Tấn Quốc công, cực quý.
Tam thiên Phấn Đại, gia đình may mắn phú quý;
Bát bách Yên Hoa, khai vạn cưỡi quý.
Chú giải: Phấn Đại, Yên Hoa vốn là chỉ cung nữ xinh đẹp, ở đây nói ẩn dụ là đỉnh núi xinh đẹp. Tam thiên bát bách, là ý chỉ rất nhiều. Bầy đỉnh núi mạnh mẽ nghênh tú ở phía trước, tầng tầng núi non trùng điệp theo ở phía sau, chủ xuất ra Công hầu.
Nga Mị sơn hiện, nữ làm cung phi;
Kim cáo hoa khai, nam hôn công chủ.
Chú giải: Nga mị, giống như tháng mới sinh, chủ nữ nhân thanh tú quý có Cung phi. Kim cáo, là thổ tinh giống như cái bàn ngang hai đầu rất cao, chủ nam quý có kèm theo ngựa đi.
Ngư đại nếu cư Đoài vị, khanh tướng khả kỳ;
Thiên Mã nếu ở nam phương, công hầu tất chí.
Chú giải: Ngư đại, vi kim tinh, nếu ở chỗ tây phương, chủ quý có phong hiến khanh tướng. Mã sơn cao thẳng ở phương nam có Mã tinh cư ở đây vĩnh hằng, nên xuất quý công hầu.
Đốn Bút đa sinh Văn sĩ, Trác Kỳ định xuất Tướng quân.
Chú giải: Đốn bút là Mộc tinh, núi cao thẳng chủ xuất ra văn nhân hào kiệt. Trác kỳ là Hỏa tinh, đầu cao đặt chân chủ xuất ra Vũ chức.
Nội Thai ngoại Khổn, văn võ khác nhau.
Chú giải: Nội Thai là Văn thần, Ngoại Khổn là Võ tướng. Khổn, là chỉ cánh cửa thành quách.
Một Quận một Châu, phân dã khả đoán.
Chú giải: Luận quan chức đảm nhận ở nơi nào, xem quý phong xuất ở phương nào, lấy ranh giới cửu châu mà đoán.
Ranh giới đất phân chia Thập nhị quan: Tề Việt Yến Tống Trịnh Sở Chu Tần Ngụy Triệu Lỗ Vệ. Sách nhà Hán nói nhị thập bát tú lấy tất cả ranh giới chư hầu để cai trị địa phương. Thí dụ như Tú phong xuất ở phương Tị Dậu Sửu, chủ người sinh Tị Dậu Sửu có quý cai trị đất Triệu Việt. Thiên hạ ủng ỏng theo ví dụ này mà suy.
Ngự tọa Ngự Bình, nhập Nội Thai nhi chưởng hàn;
Đốn cấp Thương Cổ, quyền trấn giữ Ngoại Khổn.
Chú giải: Thân Long có Ngự Tọa Ngự Bình, chủ xuất ra quan nội Hàn Lâm. Thân Long có Qua Thương Kỳ Cổ tủng bạt nhi lai, chủ nắm binh quyền trấn thủ ở bên ngoài.
Mang Thương mang Khố, Đào Y chi phú khả kỳ;
Sinh Diệu sinh Cung, Vương Tạ chi danh khả vọng.
Chú giải: Cao mà tròn lớn gọi là Thương, vuông to lớn gọi là Khố. Thân mang Thương Khố cùng chỗ dừng lại có Thương Khố là chủ phú. Đào Y, là chỉ Phạm Lễ Đào Chu công cùng Y Đốn người Tề, trước đây nguyên là Đại phu nước Việt, sau không làm quan mà đi mua bán kinh thương cực kỳ giàu có. Về sau tìm thuật Đào công làm giàu, Đào nói: Nuôi ngũ súc. Theo lời nói, không tới 10 năm quả nhiên rất giàu có. Bên ngoài Long Hổ có dư khí tung bay gọi là Diệu khí, núi khác ở sau Án giống như thế vén tay áo múa bái Long gọi là Quan tinh. Vương Tạ, là chỉ đạo tạ ơn vua, trước đây phò Tấn Nguyên Đế trung hưng, hiệu là Trọng Phụ; về sau cao ngoại Đông Sơn không ra ngoài, Tấn Mục Đế nghe tin đồn là người hiền tài, xuất chinh đến bái tướng.
Văn tinh thấp mà Nhan Hồi chết yểu,
Thiên Trụ cao mà Bành Tổ thọ.
Chú giải: Nhan Hồi úc 32 tuổi chết bởi viì Văn tinh hãm thấp. Bành tổ họ Tiền tên Khanh thọ 800 năm bởi vì chủ sơn cao như Thiên trụ (trụ trời).
Ấn phù Thủy diện, sáng suốt có văn chương;
Thủy tụ Thiên tâm, ai chẳng biết là phú quý.
Chú giải: Núi nhỏ hoặc là tảng đá lớn hoặc là tròn trịa sạch sẽ thấy nước ở bên trong gọi là Ấn, ở đây có xuất hiện Thủy khẩu, chủ xuất Công Hầu xuất Khôi Nguyên. Chúng thủy tụ ở Minh Đường không chảy đi là đại phú quý thanh danh cao bay.
Khéo dựa nhãn lực, diệu ở tâm tư.
Chú giải: Dựa vào thị lực là có phân biệt giữa Xảo (khéo léo) và Chuyết (vụng về), lấy được ở tâm tư Huyền và Diệu.
17, Luận Hình Huyệt
Vật lấy Loại suy, Huyệt lấy từ Hình.
Chú giải: Vật đồng loại có tính chất giống nhau, cho nên dưới đây có thể suy lý. Huyệt có nhiều chủng nhiều dạng, nhưng cùng Hình là có đồng tính, có thể theo ở trên Hình để nắm chắc quy luật thông thường.
Hổ cùng Sư mạo tương tự, Nhạn cùng Phượng Hoàng khác nhau.
Chú giải: Hổ và Sư có dung mạo giống nhau, (Đầu tròn là Hổ đầu vuông là Sư tử). Nhạn cùng Phượng Hoàng khác nhau, (Nhạn đầu đuôi ngắn còn Phượng đầu đuôi dài).
Một hoặc ít khác nhau, chỉ Lộc là Mã;
Hồn nhiên vô biệt, nhận thức con giun là con rắn.
Chú giải: Lộc hình thân gầy mà đầu bằng, Mã hình thân phì mà đầu cao. Giun hình nhỏ cong mà thân ngắn, rắn hình uốn khúc mà thân dài.
Hoặc thủ cong vẹo là Thoa cài, xung quanh bất tuyệt;
Hoặc thủ ngang thẳng là Kiếm, hai bờ không bao.
Chú giải: Hình thoa cài tóc là giả kim, dựa vào bao bọc mới chân, nên điểm lưng, không thì khí lạnh khó cắm vào. Kiếm là hình dạng Mộc tinh ngã xuống đất thế cong khúc, không có Long Hổ bao nhau.
Văn bút Họa bút, cả hai làm sao phân;
Nha Đao Sát Đao, hai bàn không khác.
Nếu tọa sơn tú lệ, Sát đao hóa thành Nha đao;
Hoặc bản chủ ti tiện, Văn bút biến thành Họa bút.
Chú giải: Đỉnh núi nhọn tú lệ đoan chính gọi là Văn bút, đỉnh núi nhọn nghiêng tà mở ra thì gọi là Họa bút. Sắc nhọn ôm cong gọi là Nha đao, sắc nhọn thẳng cứng gọi là Sát đao. Lai Long đặc đạt cùng chủ sơn tú viên mà theo kề, Sát đao cũng hóa thành Nha đao. Lai Long y nhược chủ sơn ti tiện, tuy có Văn bút cũng biến thành Họa bút.
Thương nhọn vốn là dụng cụ hung, gặp võ sĩ lấy là thanh kỳ;
Phù thi cố không cát, phùng quần nha mà lại cát.
Chú giải: Trước Sa như có hình mũi thương nhọn là khí hung sát, gặp võ sĩ lại thành hữu dụng là cát. Núi Đảo thi (xác chết ngã), xuất người chết đường, điềm không tốt. Từ thị cho rằng, không cát thì phải tránh.
Cổ Địch không phải Thần Tiên không lấy,
Không có Đạo khí thì xuất linh quan;
Ấn Kiếm không phải Thiên sư không cầm,
Có lư hương thì là thầy mo.
Chú giải: Đạo khí là loại trống sáo như cờ phướn, báu vật, lò luyện đan, Hạc tiên, cầu Tiên, , chủ xuất thần tiên, không có đạo khí chủ sơn không thanh tú, chủ xuất ra quan âm nhạc. Ấn Kiếm sơn xuất ra Thiên sư, Hương Hộ sơn xuất ra thầy mo. Cổ sơn tròn mà bằng, Địch sơn ngang mà nhỏ. Ấn sơn tròn mà vuông, Kiếm sơn nhỏ mà thẳng, Hương Lô sơn tròn mà nhô lên.
Hồ lô sơn hiện, thuật sĩ y lưu;
Mộc tiêu hình liên, ôn tật cô quả.
Chú giải: Hồ Lô sơn chủ xuất y dược; Mộc Tiêu sơn đầu tròn đuôi nhọn, chủ xuất ra ôn tật cô nam quả phụ. Thẳng đến thấy đầu không thấy cán là chủ phú.
Hoặc là Hồ tăng lễ phật, nhận sai Bái tướng Phô chiên;
Hoặc là Thi sơn lạc đầu, ngộ vi tạ ân lĩnh Chức.
Chú giải: Bái tướng sơn cùng Hồ tăng lễ phật có chỗ giống nhau, nhưng trước là có ải nỉ quý khí, sau là không có rải nỉ quý khí. Mạnh ngu nghiêng tà là Thi sơn, tròn sạch tú lệ là tạ ân lĩnh Chức sơn. Thi sơn cứng thẳng vuông góc, tạ ân lĩnh Chức sơn dán mềm thuần phục. Cả hai đều không thể gặp nhau.
Hình như tù ngục, cùng Tường Vân phủng Nhật nào khác biệt;
Thế phướn hoa thẳng, Cùng Gió thổi mạng lưới có gì khác nhau;
Chú giải: Tù ngục tức là núi xung quanh cao áp như ngồi trên giếng, phủng nguyệt làm bạn bốn bên cao thấp vừa đúng tương xứng. Núi bay nghiêng phân ra thành hai luồng danh là Phướn hoa, hình núi mềm dài thư thái giãn ra phân thành hai luồng danh là Gió thổi như mạng lưới.
Xuất trận thấy cờ cướp sơn là Kiếp đạo,
Phán Tử bút gặp Sát thủy là Sát thương.
Chú giải: Đỉnh núi cao nhọn tách ra mấy chỗ cao thấp không đồng đều, dưới thân có móng vuốt cuốn lên, gọi là Xuất cờ trận. Đầu cờ sinh đá là chỉ trên trận thắng lợi, tâm cờ sinh đá là thua binh. Như móng vuốt không rõ hình trạng phá toái là Quỷ Kiếp sơn. Kiếp là nghiêng tà phá toái, giống như nham thạch xấu xí dựng thẳng. Cờ xuất trận thấy Kiếp sơn này là xuất ra Kiếp đạo (trộm cướp). Bút lớn xà ngang danh là Phán Tử Bút, thủy chảy xiết danh là Sát thủy. Cả hai gặp nhau là Sát thương.
Một phôi đất cư phía trước chính huyệt, chưa thể đoán là họa mắt;
Một hòn núi nhỏ kề dưới núi lớn, chưa thể chỉ là sẩy thai.
Hoặc làm Bàn Long hí Châu, hoặc làm Linh Miêu bắt chuột.
Quý thông Hoạt pháp, chớ chấp trần ngôn.
Quyển Liêm thủy hiện, vào nhà vợ bé;
Đỉnh núi Nhị bút, xúi giục kiện tụng.
Chú giải: Nước ở trước Huyệt từng bước thấp từng bước trút xuống mà đi gọi là Quyển Liêm thủy, chủ người tán nhà tan, đa số sinh con gái, quả phụ rước người vào làm vợ bé. Đỉnh núi Nhị Bút cũng giống như vậy, một ngọn núi cao thẳng nổi lên một ngọn núi thấp nhỏ nghiêng vẹo, chủ xuất người thích kiện tụng.
Con cháu ngỗ nghịch, trước mặt nước chảy hình chữ Bát (八);
Nam nữ dâm bôn, ngoài Án hiện ôm đầu núi.
Ngọc Ấn hình như phá toái, không mù mắt thì chủ tổn thai;
Kim Tương đầu nếu cao thấp, không phải Yên bao thì là Hôi đại.
Chú giải: Hình dạng Ngọc Ấn giống như bị nghiền nát, chủ mắc họa mắt mù tổn thai. Núi nhỉ xinh xắn mà chính phương gọi là Kim Tương sơn, nếu có một núi nhỏ một đầu cao một đầu thấp, thì gọi là Yên bao (túi khói) hoặc là Hôi đại (túi tro), chủ khách chết nơi tha hương.
Tham Đầu Trắc Diện, đại diện đạo tặc (xuyên du);
Thức Lệ Chùy Hung, nhà bị tang họa.
Chú giải: Ngoài núi có núi, đỉnh nghiêng hơi lộ ra gọi là Tham Đầu sơn. Núi lộ sườn ra thì gọi là Trắc Diện sơn. Hai ngọn núi này xuất ra có người làm đạo tặc. Thẳng mà áp bức huyệt gọi là Thức Lệ sơn, khởi đối diện hướng gọi là Chùy Hung sơn, chủ xuất người yểu vong. Du, theo bên tường bò đi qua.
Thi Sơn cư Thủy khẩu, lộ tử giang thi;
Thũng Cước xuất phần tiền, ôn dịch phù thũng.
Chú giải: Thủy khẩu có núi giống như thây người, chủ xuất ra người chết trên đường. Núi giống như trái bí đao mập mạp danh là Thũng Cước sơn, chủ xuất ra người có bệnh dịch vàng da phù thũng.
Xuất lâm Hổ không thể ăn, thì hại người;
Phục thảo Xà không thể chế, thì tổn hại mình.
Ngô Công kiềm lý, Chó ngũ trong lòng.
Phàm ác hình này, có pháp cắm vào.
Chú giải: Đỉnh núi kết huyệt lộ cao, giống như Hổ xuất lâm, tất đợi gần Án để bao bọc, không lộ ra tổn thương, nếu không thì hại người. Thế Xà sợ sắc nhọn mang sát, tất phải né tránh xuất sát, chỗ này chính là có chế, không có chế thì bị hại. Hình Ngô Công (con rết) điểm huyệt ở trong Oa Kiềm, hình con Chó điểm huyệt ngũ ở trên vú ở giữa ngực. Huyệt Hổ chuyển ở trán, có thể áp sát. Xà chuyển bên tai, có thể tránh sát. Ngô Công, thiên về trong Kiềm, có thể thoát sát. Khuyển thiên về trong ngực, có thể tàng sát. Phàm gặp ác hình này, không thể đấu sát, tránh đi là hay nhất, phép tắc này là có phép cắm vào.
Tê Mã tất văn phong ở nơi khác,
Kinh Xà vẫn sợ vật ở trong sườn núi.
Chú giải: Mạch đến thẳng xiết, tựa như thế núi mà đổ dốc xuống kết huyệt nơi bằng phẳng, giống như Tê Mã văn phong (tiếng hí ngựa ở nơi khác có thể nghe thấy). Thế Tê Mã văn phong ẩn dụ như mạch xiết chảy đi nơi khác. Bên núi cao bên sườn núi, không cân đối nhau là Kinh Xà hình. Kinh Xà là rắn sợ vật tập kích, chạy băng băng cuồn cuộn, chỗ này ẩn dụ như mạch chảy cấp không dừng, không kết huyệt ở trong sườn núi.
Thủ Chu (thuyền bè) hỉ ở trước bãi, quý Du Ngư vu thủy thượng;
Lá Sen không nên chở nặng, dây dưa chỉ nên cắm nhỏ.
Chú giải: Chu hình hỉ gần thủy, Du Ngư quý nghịch thủy, lực khinh khí bạc không nên trọng táng, mạch mịn khí nhỏ không nên gia tăng búa rìu.
Bạc ngạn phù bài khởi úy phong,
Bình sa lạc Nhạn thiên nghi thủy.
Chú giải: Bạc Ngạn phù Bài, là Long ở đồng bằng không sợ gió thổi. Bình sa lạc Nhạn, là ở đáy thủy hoặc trên thủy hiện lên gò cao, nếu có thạch cốt thông mạch, huyệt này không sợ bốn bên có thủy.
Ngư Quán mà tiến, Hinh Hương ở chỗ Quyển a;
Nhạn Trận mà thấp, Tiêu tức cầu ở quay về vậy.
Chú giải: Ngư Quán, tức là xâu chuỗi nhau liên tiếp không ngừng, Quyển a tức là cuộn khúc, Hinh hương tức là mùi thơn bánh ngọt. Chỗ này nói nhiều mạch cùng đến thẳng không có kết nên chọn uốn khúc. Nhạn trận, tức là bầy Nhạn liên tiếp mà bay, Tiêu tức là chỉ chỗ kết huyệt.
Nhân hình táng ở tề phúc, lại cần tàng Oa;
Cầm hình diệu ở Dực a, không câu nệ hai bên.
Chú giải: Nhân hình đa số là Hỏa Mộc tinh, cao lộ sợ gió thổi, nên tìm Oa huyệt. Cầm hình đầu đuôi đều có thể cắm vào, duy chỉ cần bao tàng, mà Dực đa số ẩn tàng, không thể câu nệ hai bên.
Không thể một đường mà thủ, sao nói là như nhau?
Chú giải: Hình thế núi sông thiên biến vạn hóa, không thể câu nệ ở một đường hình tượng mà định thủ dụng, lại càng không cho phép có một ví dụ cát hung thì rập khuôn máy móc.
Cái, Niêm, Ỷ, Chàng, tế nhận Huyệt tình;
Thôn, Thổ, Phù, Trầm, việc dựa theo Táng pháp.
Chú giải: Cái, ý là nói nắp đậy lại. Khí tụ ở đỉnh núi thành thiên huyệt, dụng Cái pháp để tiếp nhận sinh khí. Lúc an táng phải giữ lại đỉnh, sau ót phải có chỗ dựa, không thể quá sâu hoặc là quá cạn, đặc biệt chú ý gió thổi khí tán.
Niêm, ý là dán lại. Khí tụ ở chân núi thành địa huyệt, dụng Niêm pháp tiếp nhận sinh khí.
Ỷ, ý là dựa vào. Mạch thiên không chính, khí tụ bên cạnh, dụng Ỷ pháp tiếp nhận sinh khí.
Chàng, ý là va chạm. Mạch đến êm mịn, ở giữa kết tụ ở trung tâm không thiên lệch không dựa vào, sử dụng Chàng pháp tiếp nhận sinh khí.
Thổ, ý là phun đất ra. Mạch thẳng giống thân kiếm, cần đặt quan ở dưới hai phần mái hiên (bộ phận nhô ra ngoài của một số vật dụng có hình mái hiên), dụng Thổ pháp tiếp nhận sinh khí.
Thôn, ý là nuốt vào. Mạch đến giống như ngửa lòng bàn tay, cần đặt quan ở dưới gần vào mái hiên, dụng Thôn pháp tiếp nhận sinh khí.
Phù, ý là lộ ra mà không ẩn giấu. Mạch đến lộ ra mà không ẩn giấu, thì đặt quan ở trên mạch, không nên đào tiếp, sau đó thêm đất bùn che quan tài, dụng Phù pháp tiếp nhận sinh khí.
Trầm, ý là ẩn giấu mà không lộ ra. Mạch đến mịn chìm ẩn giấu mà không lộ ra, tất cần phải đào xuống dưới mới tiếp tục lấp đất, dụng Trầm pháp để tiếp nhận sinh khí.
Thần, Tề, Mục, Vĩ, Ngạch, Phúc, tam cát tam hung;
Giác, Nhĩ, Tị, Hiếp, Yêu, Túc, tứ hung nhị cát.
Chú giải: Thần, Mục, Vĩ lộ ra mà dẹp, là Tam Hung. Tề, Ngạch, Phúc tàng sâu mà ở giữa là Tam Cát. Nhĩ Tị là Nhị Cát, Giác Hiếp Yêu Túc là Tứ Hung.
Hình tự loạn y, thê tất dâm, nữ tất đố;
Thế như lưu thủy, gia tất bại, nhân tất vong.
Chú giải: Núi giống như quần áo hỗn loạn, là đố nữ dâm thê. Thế núi bay đi giống như nước chảy thẳng, là gia bại nhân vong.
Hoặc gặp núi như thân leo lên, định sinh khất cái;
Nếu thấy thế Kình quyền, định xuất hung đồ.
Chú giải: Hai bên Triều sơn giống như dạng thân dây leo, nhất định xuất ra người làm khất cái. Đỉnh núi Long Hổ cao khởi như hình Kình quyền (nắm tay giơ cao) mà có thế cưỡng bách huyệt, chủ xuất ra loại hung ngoan.
Thủy phá Thái Âm, làm kẻ mây mưa với thầy mo;
Sơn y Văn Khúc, là kẻ loạn lưu Lạc Phổ.
Chú giải: Nếu nước chảy phá Nga Mi Kim tinh (Thái Âm), chủ xuất ra tình nữ nhân ân ái thầy mo. Văn Khúc tinh nghiêng tà đong đưa là Thủy tinh, chủ xuất ra phụ nữ tham dâm, nam tử phong lưu du đãng. Lạc phổ: Là chỉ Trần Tư Vương Lạc Phổ, gặp nữ thần thành tính du đãng.
Đầu mở ra hai ngón giống như móng Dê, xuất người ngỗ nghịch;
Não sinh số gấp giống như Dê hợp lại, phạm pháp đồ hình.
Chú giải: Đầu mở ra hai ngón, tức là mặt núi thấu đỉnh có hình giống như hai gò cao ở giữa lõm xuống, hình này dễ sinh thung lũng, cgo nên xuất người bất hiếu bất kính. Đầu núi sinh ra nhiều đường gấp khúc, giống như dạng sườn trâu, thì sẽ xuất hiện nhiều người phạm pháp mà phán hình.
Văn Bút nếu tọa Huyền Châm, cấp thiết nên cẩn thận;
Hiếu Mạo nếu lâm Thái Mộ, vật nói không hung.
Chú giải: Văn bút, chính là Hỏa tinh xung thiên, cư ở chính nam, chủ có hỏa tai, nên đề phòng. Hiếu mạo sơn, mang hai núi nghiêng duỗi, giống như ở trước mặt cùng cung Tứ Mộ, chủ có chuyện hiếu phục.
Quân tử trong Tiểu nhân, Hạc giữa bầy gà;
Tiểu nhân trong Quân tử, bồng sinh trong cây đay.
Chú giải: Tứ sơn tán mạn, trong đó có một núi đoan chính xuất chúng, là Quân tử trong Tiểu nhân, là Hạc ở trong bầy Gà. Tứ sơn đoan chính, trong đó có một ngọn núi thô xấu, là Tiểu nhân trong Quân tử, là cỏ bồng sinh trong bụi cây đay.
Mân trung Ngọc biểu, đa số thiếp sinh con trai;
Hồ giả Hổ uy, tất chủ làm con nuôi.
Chú giải: Mân là mỏ đá, Ngọc là báu vật cực quý. Mân trung ngọc biểu, là chỉ chủ tinh tựa gần huyệt vị sánh như sơn tinh Lai Long tú lệ, đây là tướng tinh của Mẫu tiện Tử quý, đa số thiếp sinh ra con trai thành tài. Hồ ly giống như Mèo, Hổ uy mà không dũng mãnh, lời này nói Lai Long có thế, nhưng cuối cùng chủ tinh yếu nhược, hoàn toàn dựa vào hậu sơn che chở hộ vệ, chủ muốn thành cục, tất là chủ làm con nuôi.
Là người vô tự, chỉ vì thủy phá thiên tâm;
Có con xuất gia, định là thủy xung thành cước.
Chú giải: Thiên Tâm, tức là Huyệt, thủy phá thiên tâm, tức là giới thủy đến xung đầu huyệt. Thành cước, tức là bên ngoài núi Long Hổ thành Lộc, thủy đến xung bắn sụp lở, chủ xuất người làm tăng đạo.
Cũng có hư củng, vô tình tựa như hữu tình;
Đa kiến tiền triều, như ấp lại không chân ấp.
Đỉnh tuy tiêm viên mà khả ái,
Cước tất chạy đi mà quan tâm người khác.
Dẫu có cát huyệt nhưng thiên dời,
Chẳng qua chỉ là hư hoa mà thôi.
Chú giải: Ẩn sinh ở bên ngoài Án gọi là Ám Củng, xem như vô tình tựa như hữu tình. Trước phương Triều Án, cũng có phân ra Chân triều cùng Giả triều. Tức là cho dù có hình thế huyệt, nhưng mà chỉ có hình huyệt mà không có sinh khí, là huyệt hư hoa giả ngụy.
18, Luận Sơn Thủy
Thổ sụp hãm mà thần hồn không ổn,
Mộc điêu lạc mà vượng khí tương suy.
Nguyên tuyền hỗn hỗn xuất Minh Đường, khí theo phiêu tán;
Bạch thạch lân lân trương hổ khẩu, tất chủ hình thương.
Phải phòng đông khuất tây thân, rất sợ tả khiên hữu duệ.
Chú giải: Nếu địa thế sụp thủng, cây cối héo tàn, nước chảy hỗn trọc, Bạch Hổ há miệng, Bạch Hổ sĩ đầu, Bạch Hổ thân thủ, Sa Thủy không liên quan, đều không nên điểm huyệt.
Nguy lâu tự quan, kỵ nghe âm thanh tiếng chuông;
Cổ mộc Đàn tràng, kinh kiến âm thanh lôi đình.
Chú giải: Bên cạnh Huyệt kỵ thấy Nguy lâu Tự quan, bên dưới cổ thụ, gần bên đàn tràng (nơi tế đàn), đều không nên làm huyệt xây nhà, kỵ sợ nghe đến âm thanh tiếng chuông, hoặc là lúc tế tự gặp sấm chớp. Nguy lâu Cổ đại, là chỉ lầu cao, tức là kề gần nhà lầu cao chọc trời. Đàn tràng, là chỉ chỗ thời xưa làm nơi lễ lớn để thiết đàn cử hành tế tự, kế vị, minh hội, bái tướng.
Quái thạch nếu cư trước Án, tất có hung tai;
Cát tinh đã tọa hậu long, sao không phúc dầy?
Chú giải: Án sơn phía trước Huyệt có dựng lên quái thạch, đời sau tất có tai họa. Huyệt vị tốt dẫu có hậu Long thô kệch, vẫn phát phúc lâu dài.
Hốt kiến sơn liệt, hoành sự tất sinh;
Thường văn thủy khấp, tang họa tần kiến.
Chú giải: Chung quanh Huyệt vị có thể núi sụp đổ, đời sau xuất hoành họa. Núi cao nước chảy xiết mạnh hết sức, âm thanh nước chảy thông thường là lạnh lẽo bi ai. Xung quanh Huyệt vị có thể nghe thấy âm thanh nước chảy mạnh mẽ, chủ hung họa liên tục.
Hoặc có âm thanh như Ngọc bội, tiến lộc tiến tài;
Chú giải: Âm thanh nước chảy xung quanh Huyệt vị, như âm thanh ngọc bội chạm nhau, chủ vượng tài. Ngọc bội là chỉ chỗ ngọc bội thời xưa.
Nếu như giọt nước rót vào trong hủ, thủ Châu thủ Quận.
Chú giải: Âm thanh nước chảy xung quanh Huyệt vị, giống như âm thanh trong trẻo khi giọt nước rót vào hủ đồng, là chủ quan phú quý.
Đông Đông động động, hưởng nhi lượng là quý;
Thê thê thiết thiết, bi nhi khấp là tai.
Chú giải: Đông đông động động là nói tiếng trống, thủy thanh như tiếng trống vỗ trong trẻo vang dội là chủ quý. Tiếng nước kêu vang như kích động thê thảm bi ai, chủ tai họa triền miên.
Nhưng có âm thanh không bằng không có, Minh củng không bằng Ám củng.
Chú giải: Nhưng mà nước chảy tốt nhất là không có âm thanh, là yếu pháp tầm sơn vậy, đa số giảng thuật hình thế là sa thủy hiện ra mà dễ thấy, nhưng bên trong không thấy quan hệ rất nặng, phúc trạch xa gần, phát vượt lớn nhỏ, tất là vĩnh hằng. Cho nên nói Minh củng không bằng Ám củng, lại nói không quý chỗ thấy, mà quý chỗ không thấy vậy.
Một đến một đi, có phúc có họa; Một nhanh một chậm, có lợi có hại.
Chú giải: Nước chảy đến và đi, có quan hệ phúc họa, Long mạch nhanh chậm, có đủ cát hung.
Chú ý xung quanh, chậm rãi mà leo.
Nhị thập tứ sơn, sơn danh thái tạp;
Tam thập lục huyệt, huyệt pháp ở đâu?
Chú giải: Chú ý quan sát hình thế xung quanh huyệt vị, từ từ kiểm tra xem xung quanh, chỉ cần hình thế hợp cát hung, không nên câu nệ chỗ tên gọi 24 sơn và 36 huyệt phức tạp.
Tổ tông Thủy pháp làm người lầm,
Sơn vận ngũ hành có đúng chuẩn.
Chú giải: Tổ tông Thủy pháp tức là Thủy pháp Hồng Phạm ngũ hành. Nội dung Thủy pháp chủ yếu là vận dụng Phép toán mệnh thập nhị cung Trường Sinh luận phong thủy, đây là chỗ người lầm lẫn. Lấy phép chính ngũ hành khởi khí vận Mộ địa có chuẩn xác.
Nghịch thủy Lai triều, Nội đường không được tiết khí;
Phiên thân tác huyệt, thiết cần từ bên ngoài quay đầu lại.
Chú giải: Nghịch thủy Lai triều vốn là cát, nhưng Nội Đường tiết khí là hung. Phiên thân tác huyệt, bản thân đa số không có Long Hổ, cho nên cần từ bên ngoài sinh ra một ngọn núi quay đầu lại để bảo hộ che chở.
Chỗ quý quan tàng, rất sợ trống khuyết.
Cách thủy là Hộ, ngại gì bày ra như tấm bình phong;
Thân liền sinh Án, cần phải quay đầu như khuỷu cánh tay.
Chớ có bạn không bằng mình, nên tìm Triều sơn đặc dị;
Đồng khí sau đó mà cầu, hà tất thập phần Hậu lũng.
Chú giải: Núi đối diện không bì kịp Chủ sơn, nên tìm Triều sơn đặc dị; Cùng Tổ sơn đến gọi là Đồng khí, chỉ cầu có tình, bất tất phải cầu hậu sơn.
Núi nhọn tú xuất, chỉ cần một ngọn hai ngọn;
Thủy cong đến triều, bất luận sông lớn sông nhỏ.
Chú giải: Đỉnh núi tú mỹ, chỉ cần có một hai là được, chỉ cần thủy uốn cong đến triều, bất luận lớn hay nhỏ đều là hữu dụng.
Chúng thủy thuận lưu mà tán mạn, không cần phí công;
Tứ sơn thẳng đứng mà thô tạp, sao nhọc suy nghĩ.
Chú giải: Chúng thủy thuận lưu mà tán mạn, tứ sơn thẳng đứng mà thô tạp, đều không có phong thủy tốt.
Sơn không triều thế dời đổi chiều,
Thủy có lúc dời đồi đổi huyệt.
Chú giải: Hình thể thế núi vĩnh viễn sẽ không biến đổi, mà nước chảy thì có thể sẽ có chỗ biến thiên di dời. Lăng thiên Cốc biến, là thành ngữ Hán ngữ, giải thích là ẩn dụ giống như thế sự biến thiên, cao thấp dịch vị.
Thủy bất loạn Loan, Loan thì Khí toàn;
Sơn bất loạn Tụ, Tụ thì Hình chỉ.
Chú giải: Thủy không sợ vòng cong, vòng cong thì tụ khí. Sơn không sợ hội tụ, sơn mạch hội tụ thì Long mạch dừng đi.
Thiển bạc thì xuất nhân thiển bạc,
Khoan bình thì xuất nhân khoan bình.
Chú giải: Địa thế thiển bạc (nông cạn) thì xuất nhân thiển bạc, khoan bình (rộng bằng) thì xuất nhân khoan bình.
Chích chích Sơn tiêm xạ, chỗ khởi tử phải tai;
Nguyên nguyên Thủy tà lưu, còn lại không đủ xem vậy.
Chú giải: Sơn tiêm xạ, Thủy tà lưu đều không thể chọn chỉ điểm huyệt.
Hậu sơn không nên dựng thẳng, thủy đi rất sợ chảy thẳng.
Càng lo đến đoản đi dài, thiết kỵ tả hữu xiết nhanh.
Chú giải: Núi phía sau Huyệt vị không thể vượt qua thẳng đứng cao vút, Thủy khẩu đi không nên chảy thẳng mà không có tường thành ngăn chặn. Nước đến Thủy khẩu nhỏ mà ngắn, nước đi mạnh mà rộng, hai bên chảy xiết đều là không cát.
Lưu thần xiết chảy tuy uốn khúc mà chợt phát chợt suy;
Thành tường Thủy khẩu không trùng điệp mà dễ thành dễ bại.
Chú giải: Nước chảy xiết gấp rút, cho dù phát phúc cũng là chợt bỗng suy bại. Sa Thủy khẩu đóng cửa không nghiêm mật, cho dù thành công, nhưng thất bại cũng nhanh.
Hoặc có thế như dâng sóng, không cần đỉnh núi dựng thẳng;
Mạch nếu liền nhau, hà tất cần gò đất ngẩng cao.
Chú giải: Nếu như Lai Long như vạn mã bôn chạy, như sóng cuộn ba đào, liên miên không ngừng, không nhất định cần có đình núi ngẩng cao kỳ dị.
Liền nhau quý tiếp tục mà không đứt,
Dâng cao cần trùng trọng điệp mới là kỳ.
Chú giải: Lai Long liên miên không đứt, tốt nhất là sơn mạch liền nhau mà không nên đứt đoạn. Lai Long tựa như sóng cuộn ba đào, tốt nhất là sơn mạch trùng điệp nhau mới tốt.
Mạch có đồng Can dị Chi, Chi non kéo dây leo;
Thế có hồi Long cố Tổ, Tổ không che cao.
Sát kỳ lão nộn tinh thô, thẩm kỳ sinh vượng hưu phế.
Chú giải: Long mạch tốt nhất là một Can Long phân ra nhiều chi mạch, chi mạch trong trẻo kéo dài bất tuyệt. Hình thế Chi Long sau khi ly khai Tổ Long quay đầu trở về nhìn Tổ, Tổ Long không sợ cao vút. Quan sát Nộn, Tinh, Thô, Sinh, Vượng, Hưu, Phế, Lão Long, để quyết định vị trí điểm huyệt.
19, Luận Dương trạch
Nếu nói Dương trạch khác Âm cung chỗ nào,
Rất cần địa thế rộng bằng phẳng,
Đường Cục không nên hẹp áp bức.
Nếu ở sơn cốc, rất sợ lõm sợ gió;
Nếu ở đồng bằng, trước tiên phải được thủy.
Chú giải: Phong thủy Dương Trạch và Âm trạch khác biệt nhau, chính là Dương trạch yêu cầu địa thế rộng mà bằng phẳng, Đường Cục không nên nhỏ hẹp. Dương trạch ở trên sơn cốc phải chú ý Ao Phong sát, nếu như ở nơi đồng bằng, tốt nhất là gần nơi nước chảy.
Thổ có dư, nên ích thì ích;
Sơn không đủ, nên bồi thì bồi.
Chú giải: Xung quanh đất quá nhiều, phải bên đào hết thì đào hết, nếu như Sa hình không đủ, cần phải bồi đất thì bồi đất.
Tiên Trạch Hậu Phần, Phần tất hưng mà Trạch tất bại;
Tiên Phần hậu Trạch, Trạch vừa thịnh mà Phần tự suy.
Chú giải: Một cái huyệt vị, trước làm nhà ở, sau đó lại làm phần mộ trước mặt, phần mộ sẽ hưng vượng, mà nhà ở sẽ hội suy bại. Một cái huyệt vị, trước làm mộ phần, sau đó lại làm chỗ ở trước mặt, chỗ ở sẽ hưng vượng, còn phần mộ sẽ suy bại.
Minh Đường bằng rộng, vạn tượng dày đặc;
Chúng Thủy quy triều, chư sơn tụ hội.
Chú giải: Minh Đường độ sâu bằng phẳng, các loại hình tượng bày ra tới tấp; vài dòng nước chảy đến, đất chúng sơn tụ hội.
Thảo thịnh mộc phồn, thủy thâm thổ hậu.
Tường viên ly tiệm, câu yếu hồi hoàn;
Thủy quyến trì đường, tổng nghi triều ấp.
Chú giải: Xung quanh chỗ ở tốt nhất là có cây cối xanh tốt, nước sâu tường đất dầy, tường thấp, rào tre, chiến hào, sộng hộ thành đều cần phải quanh co uốn khúc; dòng suối, kênh mương ruộng đồng, bể nước (trì đường) … nước chảy đều phải triều bái.
Nói cùng Thiết Lô, Du Trá, Thủy Đối, Ngưu Xa,
Lập tất biện phương, nên làm theo pháp.
Chú giải: Sa Thủy như Thiết Lô, Du Trá, Thủy Đối, Ngưu Xa đều tất cần phải theo nguyên tắc phong thủy, dựa vào phương vị bố trí sắp đặt.
Thủy rất liên quan ở họa phúc,
Huyệt nên thích hợp ở Kinh đồ.
Chú giải: Thủy có quan hệ phong thủy rất lớn, tuyển chọn Huyệt vị phải phù hợp với Kinh đồ cổ truyền.
Chỗ kỵ là thủy vĩ nguyên đầu,
Chỗ giới là Thần tiền Phật hậu.
Chú giải: Chỗ ở không nên tuyển chỉ vị trí ở đầu nguồn nước hoặc là ở hạ lưu Thủy khẩu, cũng không nên tuyển chỉ ở trước sau thần miếu.
Đàn miếu tất cư Thủy khẩu,
La tinh kỵ thấy đương Đường.
Chú giải: Thần miếu là nơi tế đàn tốt nhất ở vị trí Thủy khẩu thôn trang, còn viên sơn gò đất gọi là La tinh, thích ở nơi Thủy khẩu, không nên ở nơi làm bế tắc Minh Đường.
Hình Cục nhỏ, không nên thương tàn, tấc đất quý như tấc vàng;
Viên Cục rộng, ngại gì rộng rải, nghìn nhà nhận ở nghìn năm.
Chú giải: Địa thế nền đất nhỏ hẹp, không nên xây nhiều nhà ở, đối với thân thể thực thi đào móc quá nhiều, bảo hộ đối với tầng đất thì càng trọng yếu. Hình thế đất nền rộng lớn, không nên xây nhiều nhà ở, thích hợp chỗ ở rất nhiều năm, gia vận lâu dài.
Nhất Sơn nhất Thủy hữu tình, chỗ tiểu nhân dừng lại;
Thế lớn Hình lớn nhập cục, chỗ quân tử ở.
Chú giải: Xung quanh chỗ nhà ở một chút hình thế hợp với cát hung, chỉ qua là phong thủy nhỏ. Nếu như hình thế lớn phong thủy tốt, mới là bảo địa phong thủy.
Lộc Thái Sơn có thủy giao lưu, khổng lâm rất tốt;
Giữa Long Hổ sơn gió bất động, cảnh Tiên trường xuân.
Chú giải: Dưới chân núi Thái Sơn, chư thủy, tứ thủy hội ở phía trước, chỗ tập trung linh tú, Khổng thánh nhân chọn mộ ở nơi này, che chở lâu dài, con cháu phồn hưng. Giang Tây Long Hổ sơn núi sống gắn bó, cục không lộ phong, rất là đông người, cho nên Trương Chân nhân chọn ở, phát phúc lâu dài, cha truyền con nối.
(Hết)
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.