PDA

View Full Version : Chú giải Phong thủy kinh điển 《 Thanh Ô kinh 》



lesoi
29-11-17, 08:16
Chú giải Phong thủy kinh điển 《 Thanh Ô kinh 》

Nguyên tác: Thanh Ô Tử [ Nhà Hán ]
Chỉnh lý: Trần Ích Phong

Thanh Ô kinh, tương truyền là do Thanh Ô Tử sáng tác《 Sách Tướng Mộ phần 》, sau đó sáng tác thành Thanh Ô kinh gọi tên chung ở trong Kham Dư học.

http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=409&stc=1http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=426&stc=1

lesoi
29-11-17, 08:21
《 24 bài nan giải》, hỏi: Táng, là đại sự vậy. Học tất có cội nguồn, tông chỉ tất có kinh, truyền lại cho nhân thế, lời nói không đồng nhất, sách vở quá nhiều, cái nào là trọng yếu?
Chú giải: Mai táng là chuyện đại sự. Lý lẽ Phong thủy học nhất định phải có cội nguồn, tôn kính nhất định cũng có kinh điển, hiện tại trên thế gian lưu truyền tri thức phong thủy, thuyết pháp phân loạn, xuất bản sách vở liên quan cũng rất nhiều, ai nói giá trị phải đi học tập chứ?

Đáp: Các kinh văn《 Hồ Thủ 》, 《 Thanh Ô 》, đã có từ lâu, không biết làm sao thay thế văn tự. Truyền dạy đã lâu, nhiều đường sai lầm. Họ Quách có công sáng tác 《 Táng thư 》, vốn đã chỉ rõ.
Chú giải:《 Hồ Thủ 》, 《 Thanh Ô 》 mấy quyển sách địa lý này vốn có từ lâu, không biết xuất xứ từ niên đại nào. Bởi vì niên đại quá xa, khó tránh có sai sót và tu bổ sai lầm. Quách Phác 《 Táng thư 》 chủ yếu chính là dựa vào hai quyển sách này làm tôn chỉ mà viết ra.

Bàn Cổ hồn luân, khí manh đại phác,
Phân âm phân dương, là thanh là trọc,
Sinh lão bệnh tử, thùy thực chủ chi.
Chú giải: Bàn Cổ hỗn độn, khí manh nha cường tráng, phân ra khí âm khí dương, có thanh có trọc, sinh lão bệnh tử, ai chủ đại quyền sinh sát?

lesoi
29-11-17, 08:23
Vô kỳ thủy dã, vô kỳ nghị yên,
Bất năng vô dã, cát hung hình yên.
Hạt như kỳ vô, hà ác vu hữu,
Tàng vu yểu minh, thực quan hưu cữu,
Dĩ ngôn dụ chi, tự nhược phi thị, kỳ vu mạt dã.
Nhược vô ngoại thử, kỳ nhược khả hốt,
Hà giả vu dư, từ chi bàng hĩ, lý vô việt tư.
Chú giải: Nếu như không có khí mạch đến, như vậy khẳng định là không kết huyệt, chỗ này không cần phải tranh luận. Có khí mạch đến thì không thể không kết huyệt. Về phần cát hung như thế nào, thì phải xem xung quanh Huyệt tràng hình thế tinh thần là có phù hợp phép tắc hay không, thủy đến đi là có nạp cát hay không. Nếu như không có khí mạch đến, thì làm sao có thể kết huyệt chứ? Khí mạch là ẩn tàng ở trong xa xôi mù mịt không thể thấy được, có được huyệt và không được huyệt là quan hệ đến vấn đề cát hung, vốn dĩ có thể dùng văn tự để giải thích cho hậu nhân biết, làm sao ở trong núi non trùng điệp tìm ra phương pháp khí bay lơ lững lúc có lúc không, tức là phương pháp Tầm Long điểm Huyệt, nhưng cuối cùng xem xét đến thiên cơ không thể để cho kẻ phàm tục biết được, cho nên, ở đây thì không nói rõ, ngoại trừ chỗ này, thì không còn có nguyên nhân nào khác, nếu như có thể bỏ qua (tiết lộ thiên cơ) không quan tâm, ta lại tội gì không nói cho các ngươi biết chứ? Tinh tế hiểu ra, thì đạo lý là ở chỗ này.

Sơn xuyên dung kết, trì lưu bất tuyệt,
Song mâu nhược vô, ô hồ kỳ biệt.
Chú giải: Khí mạch núi sông dung kết, thượng nguồn sánh đôi mà chảy dài không dứt, giao hợp ở Thủy khẩu, tất thành bảo địa phong thủy, nhưng nếu như không có con mắt thông minh, thì làm sao có thể phân biệt chỗ nào là Chân Long, kết huyệt ở chỗ nào chứ?

lesoi
29-11-17, 08:24
Phúc hậu chi địa, ung dung bất bách,
Tứ hợp chu cố, biện kỳ Chủ Khách.
Chú giải: Đất phong thủy phúc hậu, Minh Đường rộng lớn, khí thế không nhỏ hẹp. Tứ hợp, tức là phép Hợp Long, Huyệt pháp, Sa pháp và Thủy pháp, tức là yêu cầu chân Long huyệt, Tiêu sa nạp thủy phù hợp phép tắc, mà xung quanh tinh thần đều nhìn vòng quanh triều huyệt, phân biệt Khách Chủ, tôn ti có thứ tự.

Sơn dục kỳ ngưng, thủy dục kỳ rừng,
Sơn lai thủy hồi, bức quý phong tài.
Sơn chỉ thủy lưu, lỗ vương tù hầu.
Chú giải: Sơn vốn yên tĩnh, muốn động, Thủy vốn động, muốn yên tĩnh, tiếp cận quý, thì quý đến nhanh vậy. Phong tài, là tài tích dầy vậy. Ý là: Sơn phải ngưng tụ, tàng phong tụ khí, thủy phải uốn quanh dừng tụ. Hình thành một chỗ ứng với núi đều hướng về Huyệt tràng triều củng, núi bị nước bao quanh Đường cục còn thủy lại lượn vòng dừng tụ triều Huyệt, thì chủ ứng với thọ cao mà tài lộc dồi dào. Nếu như triều sơn cao to ở phương hưu tù, thủy lại chảy thẳng vô tình, thì vương hầu đều làm tù binh.

lesoi
29-11-17, 08:25
Sơn đốn thủy khúc, tử tôn thiên ức.
Sơn tẩu thủy trực, tòng nhân ký thực.
Thủy quá đông tây, tài bảo vô cùng.
Tam hoành tứ trực, quan chức di sùng.
Cửu khúc ủy xà, chuẩn nghĩ sa đê.
Trọng trọng giao tỏa, cực phẩm quan tư.

Chú giải: Tam hoành tứ trực, là chỉ nhiều đường thủy, ở đây là chỉ bát phương hội tụ.
Sơn đã dừng lại, mà Thủy chảy uốn quanh hữu tình, phong thủy bảo địa như vậy tất là có trăm con nghìn cháu. Sơn không dừng mà thủy chảy thẳng vô tình, khẳng định làm người hầu mà ăn nhờ ở đậu. Thủy cuộn qua Đường hữu tình, tất là phát tài bảo vô số. Thủy ở bát phương hội tụ, tất định quan chức cư cao. Thủy có 9 khúc uốn lượn như Xà bò đi, thì là đất Tể tướng. Thủy khẩu trùng điệp giao tỏa, tất xuất ra quan viên cực phẩm và tài bảo vô số.

lesoi
29-11-17, 08:26
Khí thừa phong tán, mạch ngộ thủy chỉ,
Tàng ẩn uyển diên, phú quý chi địa.
Chú giải: Khí gặp gió thì phân tán, mạch gặp thủy thì dừng, khí mạch ẩn tàng uốn khúc hữu tình, tất là đất phú quý.

http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=410&stc=1

lesoi
29-11-17, 08:27
Bất súc chi huyệt, thị vị hủ cốt.
Bất cập chi huyệt, chủ nhân tuyệt diệt.
Đằng lậu chi huyệt, phiên quan bại quách.
Bối tù chi huyệt, hàn tuyền tích lịch.
Kỳ vi khả úy, khả bất thận hồ.
Chú giải: Bất súc, tức là núi không có che đậy, án táng bị mục xương; Bất cập, tức là núi không có triều sơn đối diện, chôn cất chủ nhân tuyệt diệt. Đằng lậu, tức là Thanh Long hoặc Bạch Hổ có trống khuyết, chôn cất sẽ bị lật quan bại quách. Bối tù, tức là núi âm u không có ánh sang chiếu, đất huyệt hàn lạnh nước suối kêu róc rách, huyệt như vậy đều không thể chôn cất vậy. Kỳ thực là chỗ đáng sợ, không thể không thận trọng.

Bách niên huyễn hóa, ly hình quy chân,
Tinh thần nhập môn, cốt hài phản căn,
Cát khí cảm ứng, quỷ thần cập nhân.
Chú giải: Con người bách niên quy thọ, sau khi an táng thì xác thịt sẽ thối rữa, chỉ có hài cốt có thể giữ lại, tinh thần con người chủ yếu tụ lại ở trong hài cốt. Nếu như những hài cốt này sau khi an táng ở trong huyệt cát có sinh khí, hài cốt nhận được sinh khí che chở bảo hộ, người chết được bình an, thế hệ con cháu người chết sau này sẽ cảm ứng nhận được những loại sinh khí cát tường này, đồng thời những loại sinh khí này cũng có thể cảm ứng đến quỷ thần, khiến quỷ thần phù hộ cho đời sau con cháu người chết. Quách thị dẫn kinh viết: Quỷ thần cập nhân, tông kỳ loại nhĩ.

lesoi
29-11-17, 08:28
Đông sơn khởi diễm, Tây sơn khởi vân,
Huyệt cát nhi ôn, phú quý miên duyên,
Kỳ hoặc phản thị, tử tôn cô bần.
Chú giải: Âm Dương phối hợp thủy hỏa giao hợp, nhị khí chưng mùi hương mà thành huyệt, hài cốt người chết nhận sinh khí cát tường che chở mà trở nên ôn ái, con cháu nhận lấy cảm ứng mà phú quý lâu dài, nếu như tình huống tương phản, thì không toán là cát huyệt, con cháu sẽ cô bần.

Đồng Đoạn dữ thạch, Quá Độc Bức Trắc,
Năng sinh tân hung, năng tiêu dĩ phúc.
Chú giải: Cây cỏ không sinh trưởng viết là Đồng, sụp đổ vào trong hố viết là Đoạn. Khí đã sinh hòa, Đồng sơn (núi trọc) không có chỗ tựa, Đồng sơn là nơi không nên an táng; Khí vì đến Hình, Đoạn sơn (Núi đứt đoạn) vô khí, Đoạn sơn không thể an táng; Khí theo thổ mà đi, thạch thì thổ không sinh, Thạch sơn không thể an táng; Khí lấy thế mà dừng, đi qua thì thế không trụ, Quá sơn thì không thể an táng; Độc sơn thì không có đủ Thư Hùng, Bức sơn thì không có Minh Đường. Trắc sơn thì nghiêng tà mà không chính. Phạm 7 chỗ này thì sẽ phát sinh hung, có thể làm tiêu tan thì có thể nhận được phúc.

lesoi
29-11-17, 08:29
Quý khí tương tư, bản nguyên bất thoát.
Tiền hậu khu vệ, hữu chủ hữu khách.
Thủy lưu bất hành, ngoại hiệp nội khoát.
Chú giải: Quý khí được thông, bản nguyên không thoát khí, huyệt quý chân khí liên tiếp nhau, trước sau có Sa hộ vệ, có Chủ có Khách. Thủy chảy dừng tụ, thế thủy không chảy đi, Minh Đường mở rộng, mà Thủy khẩu nhỏ hẹp cản trở.

Đại địa bình dương, yểu mang mạc trắc,
Chiểu chỉ trì hồ, Chân Long khế tức,
Tình đương nội cầu, thận vật ngoại mịch,
Hình thế loan xu, sinh hưởng dụng phúc.
Chú giải: Long ở đất bằng khởi phục không lớn, giống như tấm thảm trải ra, hành tẩu Quá hạp lúc ẩn lúc hiện, không rõ tung tích, càng không có cách nào phân biệt hình thế đến và đi. Cần quan sát nước chảy đến và đi, dựa theo thủy quan sát Long mà biết hình thế đến và đi, từ đó phán đoán thế Long đi ở đất bình dương. Nếu như gặp đầm lầy hoặc ao hồ, vậy thì có thể khẳng định là chỗ Chân Long dừng nghỉ, căn cứ tình thế trong cục, có thể định làm huyệt ở trong đó, không được tìm huyệt ở bên ngoài. Nếu hình thế uốn lượn, chính là nơi phúc địa.

lesoi
29-11-17, 08:29
Thế dừng hình ngẩng, trước suối sau đồi, chức vị đến Hầu vương,
Hình dừng thế tụ, uốn lượn trước Án, kim cốc bích ngọc.
Chú giải: Thế núi Long đến đã dừng lại, nếu hình thế ngẩng cao, mà trước có suối sau có gò đồi, đây là cát huyệt, định xuất Công hầu Vương gia. Thế hình núi dừng tụ, trước mặt có ôm vòng quanh Án, chỗ này là Long huyệt, chỉ qua là giàu có nghìn chung mà thôi.

Sơn tùy Thủy trứ, điều điều lai lộ,
Ấp nhi chú chi, huyệt tu hồi cố.
Chú giải: Sơn đi kèm theo Thủy, xa xa mà đến, hội tụ đổ vào ở trước Huyệt, tất cần Sơn Thủy quan tâm đến Huyệt mới tính là cát huyệt.

Thiên quang hạ lâm, bách xuyên đồng quy,
Chân Long sở bạc, thục biện nguyên vi.
Chú giải: Thiên tâm bằng phẳng, được Tinh phong Tam cát Lục tú chiếu lâm, nhiều nhánh thủy lộ hội tụ hợp lại chảy đến một nơi, đây là nơi Chân Long lưu lại, làm sao phân biệt được huyền vi ở trong đó mới có thể nhận được cát huyệt?

lesoi
29-11-17, 08:30
Hà Mô Lão Bạng, thị tỉnh nhân yên,
Ẩn ẩn long long, thục tham kỳ nguyên.
Chú giải: Đối với đất Hà mô Lão bạng, cùng khí mạch Long ở đất bình dương phố xá chỗ ở của mọi nhà, từ không mà có, lúc ẩn lúc hiện, làm sao mà suy xét được căn nguyên?

Đoạn nhi phục tục, khứ nhi phục lưu.
Kỳ hình dị tương, thiên kim nan cầu,
Chiết ngẫu quán ti, chân ky mạc lạc,
Lâm huyệt thản nhiên, hình nan môn độ,
Chướng không bổ khuyết, thiên tạo địa thiết,
Lưu dữ chí nhân, Tiền hiền nan thuyết.
Chú giải: Nếu như Lai Long sau khi đứt ngã Long lại tiếp tục đi, sau khi Long đi lại tiếp tục lưu lại, xuất hiện kỳ hình dị tướng, đây là đất bảo địa nghìn năm khó tìm. Nơi kết huyệt chân chính, Lai Long giống như ngó sen bị đứt nối liền sợi tơ kéo, khí mạch sẽ không lạc không, lúc đến huyệt thì lại bày ra, nhưng hình thái khó mà ước đoán, xung quanh Huyệt tràng, Tam cát Lục tú Tham Vũ Cự Phụ cao chót vót, còn Phá Lộc Liêm Văn thì trống khuyết, thì giống như thiên tạo địa lập, lưu lại cho người có phúc hưởng dụng, trước đây Quốc sư cũng rất khó nắm loại cảm giác này để mà mô tả.

lesoi
30-11-17, 08:36
Thảo mộc úc mậu, cát khí tương tùy,
Nội ngoại biểu lý, hoặc nhiên hoặc vi.
Chú giải: Chung quanh Huyệt tràng, chịu ảnh hưởng mang theo cát khí, cây cỏ xanh tốt. Nếu như chỗ kề gần Huyệt tràng hoặc cự ly Huyệt tràng khá xa có thấp lõm khuyết hãm hoặc là trống khuyết, thì sẽ sản sinh Kiếp Sát, có thể thông qua bởi vì gieo trồng cây cối, sau này cây cối xanh tốt che lấp chỗ chưa đủ, ngăn cản Kiếp Sát, như vậy hung huyệt có Kiếp Sát sẽ biến thành cát huyệt.

Tam cương toàn khí, bát phương hội thế,
Tiền già hậu ủng, chư tường tất chí.
Chú giải: Long khí đến đủ thì thế Long không thoát ra, thế núi bát phương hội tụ, Sơn Thủy hữu tình. Tiền già, là Khách có tình nghênh tiếp tham bái; Hậu ủng, là Sa tống nhiều hộ vệ nhiều, chủ cao quý; Táng phải loại cát địa này, thì từng loại phúc khí sẽ đua nhau cùng đến.

Địa quý bình di, thổ quý hữu chi,
Huyệt thủ an chỉ, thủy thủ điều đệ.
Chú giải: Nơi kết huyệt, Minh Đường phải bằng phẳng ngay ngắn, có Sa hộ vệ, phải tàng phong tụ khí, tức là điểm huyệt nơi sơn mạch dừng tụ, thủy phải xa mà có nguồn, tức là thủy đến phải dài, thủy đi ngắn, Thủy khẩu có thành lan ngăn cản.

Hướng định âm dương, thiết mạc quai lệ,
Soa chi hào ly, mậu dĩ thiên lý.
Chú giải: Lập hướng là căn cứ thuộc tính ngũ hành âm dương của Sơn mà xác định, chớ nên tính sai, sai một ly, là đi nghìn dặm.

Trạch thuật chi thiện, kiến đô lập huyền,
Nhất hoặc phi nghi, lập chủ bần tiện.
Chú giải: Phương pháp chọn lựa phải nắm thật tốt, an táng được cát huyệt, thì tài đinh quý đều vượng, an táng phải hung địa, thì rất nhanh sẽ bần tiện. Dương trạch lập đô lập huyện cùng nơi dân cư phổ thông cũng giống vậy, có một không phù hợp, kiến lập thì chủ bần tiện.

lesoi
30-11-17, 08:37
Công hầu chi địa, Long Mã đằng khởi,
Diện đối Ngọc Khuê, tiểu nhi thủ duệ,
Canh quá bản phương, bất học nhi chí.
Chú giải: Ngọc Khuê, là chỉ hình trạng viên đá ngọc phần trên bén nhọn phần dưới bằng phẳng.
Long huyệt xuất ra Công hầu, Lai Long tựa như vạn mã phi nhanh, khí thế hào hùng, phía trước mặt có Ngọc Khuê làm Án, nhỏ mà tinh xảo, càng phải có Tinh phong đắc vị, đều thủ bản phương (Như Mã sơn ở Nam phương, gọi là Đắc vị). Hai bên núi nhỏ giống như trẻ em đi học là lập tức nghe theo.

Tể tướng chi địa, tú đôn y nhĩ,
Đại thủy dương triều, vô cực chi quý.
Không khoát bình di, sinh khí tú lệ.
Chú giải: Long huyệt xuất Tể tướng, ở gần nơi trước mặt có ngọn núi cẩm tú làm Án, lại có song to nước lớn triều đến, đây là đất quý vô cực, hơn nữa còn có Minh Đường trống rộng bằng phẳng, sinh khí sung túc, cảnh sắc tú lệ.

lesoi
30-11-17, 08:37
Ngoại Thai chi địa, hãn môn cao trì,
Truân quân bài nghênh, chu hồi sổ lý,
Bút đại hoành chuyên, túc phán sinh tử.
Thử đê bỉ ngang, thành nan mô nghĩ.
Chú giải: Ngoại Thai là Lan Thai, Bí thư là Nội các, Thai, Các là một vậy, thời triều Hán, trong Hoàng cung có thấy thạch thất Tàng thư, làm thanh kho tài liệu điển tịch ở trung ương, xưng là Lan Thai, do Trung thừa Ngự Sử cai quản, lập ra Lan Thai lệnh sử, Quan chép sử viết lịch sử ở đây. Người đời sau suy ra từ đó, điển tịch trong Cung đình thu giữ trong kho, là nơi quan Ngự Sử và Sử quan làm việc, đều được xưng là Lan Thai. Do đó cũng có thể mượn làm bằng chứng Thanh Ô Tử là người nhà Hán.
Long huyệt xuất ra Vũ chức, Thủy khẩu có Hãn Môn kỳ sơn, xung quanh vài dặm có thiên quân vạn mã đứng ra nghênh tiếp, bờ bên phải có Hoành sơn, xếp ở chỗ thấp, tựa như là đại bút phán sinh tử con người, nhưng loại Long huyệt này tất cần phải ngang nhiên độc tôn, nếu không, núi ngang thấp thì tạo ra núi ám đao, thực sự khó mà mô tả.

Quan quý chi địa, văn chương Sáp Nhĩ,
Ngư Đại song liên, canh kim chi vị,
Nam hỏa đông mộc, bắc thủy bỉ kỹ.
Chú giải: Long huyệt xuất ra quan quý bình thường, hai bên huyệt núi Giáp Nhĩ phải khởi cao, hai viên núi Sa Ngư đại liền nhau (gần kề Thủy khẩu, có hai ngọn núi một lớn một nhỏ, gọi là Ngư Đại). Tinh phong phải đắc vị, như Canh phong, thuộc kim, đỉnh núi tròn trịa, thì chủ xuất quý; nếu Canh phong nhọn thẳng, thuộc hỏa, hỏa khắc kim, chủ xuất ra người làm y học thầy mo; nếu Canh phong dài gầy, thì thuộc mộc, kim khắc mộc, nếu Canh phong khởi gợn sóng, thì thuộc thủy, kim sinh thủy, nhưng kim sinh thủy là có giới hạn, chủ xuất ra người dâm đãng tạp kỹ.

lesoi
30-11-17, 08:38
Địa hữu giai khí, tùy thổ sở sinh,
Sơn hữu cát khí, nhân phương nhi chỉ.
Chú giải: Địa có khí lành, là theo thổ mà sinh. Long mạch cũng có cát khí, cát khí này tất cần phải được các Tinh phong Tham Vũ Cự Phụ chiếu lâm, hơn nữa còn có phía trước giới thủy dừng lại bên trong, mới có thể thành huyệt.

Văn sĩ chi địa, bút tiêm nhi tế,
Chư thủy bất tùy, hư trì danh dự.
Chú giải: Long huyệt xuất ra Văn nhân, đỉnh núi Văn bút nhọn mà nhỏ mịn, nhưng nếu như chư thủy không theo nhau, thì có thanh danh hư ảo. Bút này không bì kịp với Bút Thai bên ngoài phán sinh tử, thị vệ không theo hầu, thuyết minh là tước vị không cao, cho nên, khí cát lành không bằng ở trước, chỉ giữ danh dự hư hoa mà thôi.

Đại phú chi địa, viên phong kim quỹ,
Bối bảo đạp lai, như xuyên chi chí.
Tiểu tú thanh quý, viên trọng phú hậu.
Chú giải: Long huyệt đại phú, đỉnh núi trước mặt giống như Kim Quỹ (vàng bạc quý giá), tức là chỗ nói bên trái kho bên phải khố. Đất đại phú như vậy, tiền tài báu vật giống như song nước, trùng trùng điệp điệp mà đến. Nếu như núi nhỏ phía trước, thì chủ tiểu phú quý; nếu như đỉnh núi trước mắt tròn trịa mà dầy nặng, thì chủ đại phú.

Bần tiện chi địa, loạn như tán tiễn,
Đạt nhân đại quan, như kỳ chư chỉ.
Chú giải: Đất bần tiện, đỉnh núi tán loạn giống như tài tán, trong mạch tán loạn, triếu đối diện không rõ. Người hiền nhân thông đạt có thể thì lập tức nhìn ra.

Âm u chi cung, thần linh sở chủ.
Chú giải: Phong thủy cát địa, đều có thần linh thủ hộ, thông thường đối với bảo địa phong thủy, cũng cần người có tích đức mới có được.

Táng bất trảm thảo, danh viết Đạo táng.
Chú giải: Lúc Táng địa thì phải phạt cỏ mở đất, cũng cần phải cúng tế Long thần, nếu như không làm như vậy, thì xưng là Đạo táng.

lesoi
30-11-17, 08:39
Táng cận tổ phần, ương cập tử tôn.
Chú giải: Không thể chôn gần hai bên Tổ phần, làm như vậy sẽ xuất hiện phúc chưa đến mà hoạ đến trước.

Nhất phần vinh thịnh, Thập phần cô bần.
Chú giải: Phương pháp điểm huyệt giống như điểm huyệt trên thân thể, trong một Đường cục phong thủy chỉ có một cái Long huyệt là chân, những chỗ huyệt khác đều là hư giả. Cho nên, chúng ta thường sẽ thấy, trên một chân núi có rất nhiều phần mộ, nhưng chân chính được Long khí cát tường chỉ có một cái, chỉ có mộ phần này là có hậu nhân hung thịnh, còn lại đại đa số mộ phần đều có hậu nhân cô đơn bần khốn.

Huyệt cát Táng hung, dữ khí thi đồng,
Âm dương hợp phù, thiên địa giao thông.
Chú giải: Huyệt vốn là cát, nhưng nếu như sẽ không an táng, tức là sẽ không tiêu phong nạp thủy mà lập sai hướng, hoặc là quá sâu hoặc là quá cạn, hoặc là thiên tả hoặc là thiên hữu, thì sẽ biến thành Táng hung, chỗ này thì giống như vứt xác chết ở ngoài hoang dã. Phong thủy, là giảng cứu âm dương cân bằng, nếu như âm dương phối nhau, được chính khí trời đất, tức là trời đất thông nhau, thì vạn sự đều thông, chỗ này gọi là Thiên Địa Nhân hòa.

Nội khí manh sinh,
Ngoại khí thành hình,
Nội ngoại tương thừa,
Phong thủy tự thành.
Sát dĩ nhãn giới,
Hội dĩ tình tính,
Nhược năng ngộ thử,
Thiên hạ hoành hành.
Chú giải: Táng được huyệt cát, nội khí manh sinh mà khiến cho hài cốt người chết trở nên ấm áp, chịu sự che chở mà sinh vạn vật; xung quanh Huyệt tràng chịu Tinh phong Tham Vũ Cự Phụ chiếu lâm, cùng được Tam cát Lục tú thủy triều ủng, đây chính là chỗ nói Ngoại khí thành Hình. Bên trong có cát khí che chở bảo hộ, bên ngoài có cát tinh chiếu, cát thủy triều ủng, chính là chỗ nói Nội Ngoại tương thừa, Phong thủy tự thành. Cho nên phải quan sát cẩn thận, lĩnh hội tình tính sơn thủy, nếu như có đủ lĩnh ngộ một điểm này, thì có thể hoành hành thiên hạ mà không phải lo.

(Hết)
------------------------------------------