PDA

View Full Version : Khí số Kỷ thổ.



lesoi
02-02-18, 02:10
Khí số Kỷ thổ.

Quyết viết:
Kỷ thổ hàn thấp Bính vi tôn,
Thìn Tuất thổ hậu Giáp khả sơ.
Nhị nguyệt dụng Giáp nhưng kỵ hợp,
Tam Hạ tam Thu nghi Quý Bính.
Càn tạo: Canh Dần - Quý Mùi - Kỷ Dậu - Tân Mùi. (Mệnh này là Tổng thống ở Đài Loan).
Sinh ngày 13/7/1950, giờ Mùi DL, nhằm ngày 29/5 âm lịch năm Canh Dần. Sinh sau tiết Tiểu Thử 5 ngày.
Ba năm trước, một vị bạn ở Đài Loan cầm bát tự này thử trình độ của tôi, bát tự này vô phương vô cục, hiển nhiên là không dùng phép khí thế xem. Biện pháp của tôi là, phép khí thế không được thì dùng phép khí số để phân tích. Kỷ thổ tháng 6 thấu ra là Nhật nguyên, là vật nắm lệnh vượng, Quý thủy là khí số của nó, tất cả đều xoay quanh thân chủ Kỷ thổ và khí số Quý thủy để xem. Quý thủy ở địa chi không có căn khí, tất cần có Canh Tân kim để sinh trợ, vừa đúng Canh kim kề bên trụ Quý thủy, Canh kim là một thanh khí. Kỷ thổ nắm lệnh thiên vượng, Dần mộc có thể khai động Mùi thổ, Dần mộc cũng là thanh khí, nhưng Canh tọa Dần là tuyệt địa, Canh kim thiếu lực, vừa đúng tọa dưới Dậu kim, giờ thấu Tân kim là đắc lộc, bang trợ Canh kim sinh Quý thủy, Tân Dậu kim lại là một luồng thanh khí. Nguyệt lệnh Mùi thổ bị ảnh hưởng chi năm, giờ, khắc tiết có chút hơi quá, vừa đúng sinh ở giờ Mùi, bổ túc thân chủ, chi giờ còn là một luồng thanh khí. Thanh khí đầy cục, khiến cho tôi có cảm giác ra khí số chủ nhân của bát tự này phi phàm, quyết không thể nào là tạo mệnh của người bàn thường. Tôi khẳng định mà nói "Bát tự này không phải là bạn." Đối phương nói: "Dựa vào cái gì mà khẳng định?" "Bát tự này có tầng lớp rất cao, nếu như là bát tự bản thân của bạn, tuyệt sẽ không thăm dò người khác như vậy." Tôi phải nói cho bạn biết, rốt cuộc bát tự này là ai, hắn nói là một nhân vật trọng yếu làm chính trị, còn hỏi: "Hắn ở năm gần đây có thể làm đến vị trí nào?" Tôi nói trong vòng 3 năm tất làm đến quân vương, về sau hắn nói cho tôi biết, đây là bát tự của Mã Anh Cửu ở Đài Loan. Quả nhiên sau đó Mã Anh Cửu thăng lên làm tổng thống, hắn thường điện thoại đến, mà còn tham gia lớp học tập mệnh lý do tôi giảng dạy.
+ Có thể xem tiểu sử của Mã Anh Cửu, qua link:
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A3_Anh_C%E1%BB%ADu

lesoi
02-02-18, 02:13
Kỷ thổ rất linh hoạt, lúc dày nặng, lực tranh hỏa thổ thành công, có thể thành đống lương; lúc thiên nhược, cũng có thể trồng trọt. Khí số của Kỷ thổ và Mậu thổ thực ra là không có phân biệt quá lớn, đều là lấy Giáp Bính Quý làm khí số, tác dụng khí số cũng cùng Mậu thổ như nhau, không có Giáp bất linh, không có Bính không sinh, không có Quý không trưởng. Kỷ thổ sinh ở tháng Hợi, Tý, Sửu, Dần, khí trời hàn lạnh, hoặc gặp Thìn Sửu nhiều, lúc khí ẩm thấp quá nặng, thì Bính hỏa là khí số đệ nhất. Bởi vì giải hàn khử thấp là gấp, Bính hỏa là tôn quý nhất.
Sinh ở tháng tứ quý Thìn Tuất Sửu Mùi, đặc biệt là tháng Thìn Tuất, thì Kỷ thổ giống như Mậu thổ là dày nặng, thì Giáp mộc là khí số đệ nhất, nhưng cũng phải tham khảo Bính Quý. Nếu như Kỷ thổ cũng không thật dày, chỉ có thể nói là làm thổ điền viên mà dùng, thổ điền viên chủ yếu là dùng để trồng trọt, nếu bỏ qua ánh Thái dương và mưa móc, làm sao thu hoạch?
Kỷ thổ tháng Mão khá là phức tạp, bởi vì tháng 2 khí trời dần ấm, ranh giới vạn vật xuất thổ, phá thổ là vị trí thứ nhất, cho nên Kỷ thổ tháng 2 khí số đệ nhất là Giáp mộc. Không có Giáp, Ất cũng được. Kỷ gặp Giáp, rất dễ dàng hình thành Giáp Kỷ hợp, rõ ràng tháng 2 mộc vượng, cỏ dại cũng nhiều, Giáp Kỷ hợp tất là không hóa, lúc này, không chỉ không thể phá thổ, còn có khả năng khiến cho thổ càng dày thêm. Cho nên, Kỷ thổ tháng 2 dụng Giáp nhưng kỵ Giáp Kỷ gần nhau.

lesoi
02-02-18, 02:14
VD như, Càn tạo: Giáp Dần - Đinh Mão - Kỷ Hợi - Canh Ngọ.
Giáp mộc thấu ra, Kỷ Đinh đắc lộc, cũng là một mệnh tạo khí số phi phàm. Nếu như sinh ở giờ Giáp Tuất hoặc là Giáp Tý, Giáp Kỷ hợp mà không hóa, tất nhiên cả đời thụ khốn.
Kỷ thổ ở 3 tháng mùa Hạ, trồng lúa ở ruộng, thích nhất là nước ngọt tràn đầy. Thủ Quý là trọng yếu, thứ là dụng Bính hỏa. Mùa Hạ không có Thái dương, cây trồng không sinh trưởng, cho nên không có Quý viết là Hạn điền, không có Bính viết là Cô Âm. Hoặc cùng thấu Bính Quý, lại thêm Tân kim sinh Quý, cách này là phú quý, danh là Thủy Hỏa ký tế, người làm đế vương, nhưng kỵ Mậu Quý hóa hợp. Có Bính không có Quý, Nhâm thủy cũng được, nhưng không đại phát. Nếu như Bính hỏa quá nhiều, Thái dương chiếu mãnh liệt, cây trồng khô héo, mệnh này là cô khổ. Bính hỏa trùng trùng, không có vận thủy cứu, tất là cô bần đến già. Như có Nhâm thủy, lại thấy Canh Tân, chỗ này thì không lấy cô âm xem, nhưng lo sợ bệnh tật về mắt, tim, thận, can tạng; nếu Nhâm thủy có căn, Tân kim đắc địa, lại không luận như vậy. Hoặc là Nhâm Quý cùng xuất, phá hỏa nhuận thổ, người này thông minh siêu quần, trong phú thủ quý, lại chuyển họa thành phúc. Bởi do yêu cầu điều hậu, Kỷ thổ mùa hạ, Quý thủy là khí số đệ nhất, Bính Giáp thì cần tham khảo thêm tình huống cục diện mà định.

lesoi
02-02-18, 02:14
Kỷ thổ mùa thu, ranh giới vạn vật thu tàng, ngoài hư trong thực, hàn khí dần thăng, cần có Bính hỏa ấm áp, Quý thủy tư nhuận. Mùa thu kim vượng, Quý có thể tiết kim, Bính có thể chế kim, bổ túc tinh thần cho thổ, thì vật sinh mùa thu tự nhiên xanh tốt, Quý trước Bính sau. Bính Quý cùng thấu, tất nhiên tinh thần Kỷ thổ sung túc, nhạn tháp đề danh; không có Quý, có 2 Bính thấu, hiển đạt dị đồ, hoặc là vũ chức quyền cao; có Bính hỏa, không thấy Nhâm Quý, là theo đường văn nhân, cuối cùng không thành thực; có Nhâm Quý không có Bính, cơm áo sung túc, tài năng mà thôi. Hoặc chi thành kim cục, Quý thấu có căn, trong phú thủ quý. Hoặc chi có tứ khố, Giáp thấu là phú, thiếu Giáp là cô bần; hoặc Giáp xuất, không có quý, thiếu kim, tích đức khả toàn khoa giáp; hoặc có hội hỏa cục, không có thủy cứu, là kẻ đại gian đại ác. Hoặc Bính thấu Quý tàng, gặp kim, rất có tuyển cử; thêm một Nhâm phụ tá, phú quý khảng khái, có tiếng hiền tài; thấy Mậu thấu, chủ gặp hung ách, mà bần. Tháng 8 thành kim cục, không có Bính Đinh xuất cứu, người này linh đinh cô khổ; như được Bính thấu Đinh tàng, nguyên thần sinh Kỷ, người này là danh khôi thiên hạ, ngũ phúc đầy đủ. Tóm lại, Kỷ thổ mùa thu, trước Quý sau Bính, thủ Tân phụ Quý. Tháng 9 thổ thịnh, cần Giáp mộc khai thông. Giáp Kỷ hợp dễ hóa, gặp Tân trảm căn Giáp, tất quý hiển cao môn.

lesoi
02-02-18, 02:15
Cổ nhân viết: Câu Trần toàn bị, Nhuận hạ, khách lao lục bôn ba; thổ ngưng thủy kiệt, kẻ ly hương bối tỉnh.
Có thơ viết:
Câu Trần đắc vị hội Tài Quan,
Không xung không phá tất nhiên đoan;
Giáp Tý bắc phương Dần Mão mộc,
Quản giáo vòng khuyên mang kim quan.

lesoi
02-02-18, 02:15
Khí thế Kỷ thổ.

《 Trích Thiên Tủy 》 nói:
Kỷ thổ ti thấp,
Trung chính súc tàng.
Bất sầu mộc thịnh,
Bất úy thủy cuồng.
Hỏa thiếu hỏa hối,
Kim đa kim quang.
Nhược yếu vật vượng,
Nghi trợ nghi bang.
Kỷ thổ là can âm, là thổ ẩm thấp, ám tàng có kim mộc thủy hỏa. Kỷ thổ mặc dù là hộ cá thể ở trong thổ, nhưng có tính bao dung mạnh mẽ. Kỷ thổ có bản tính súc tàng trung chính, giỏi về quan sát sắc mặt, để bảo toàn bản thân, trong bát tự có một loại khí thế ngũ hành rất hưng thịnh thì nó thuận theo với loại ngũ hành đó, thuận thế mà làm là ưu điểm lớn nhất của nó. Thấy hỏa sinh trợ là đắc khí, sinh ở tháng tứ quý thổ chính là vừa đắc khí lại vừa đắc thế. Đối mặt khí và thế, nói chung Kỷ thổ trước tiên là chọn thế, tổng thể khí thế Kỷ thổ thuận theo thế hoặc là tòng thế, loại thái độ này của nó là cơ động linh hoạt là đạo sinh tồn của người Kỷ thổ.

lesoi
02-02-18, 02:16
Chính là bởi vì bản lĩnh của nó có tòng thế hoặc là thuận thế, trí tuệ linh hoạt cơ động, cho nên mới có "Bất sầu mộc thịnh, bất úy thủy cuồng." Kỷ thổ ở trên trời là mây, là tay cừ khôi che phủ ánh thái dương, năng lực làm hối hỏa sinh kim mạnh hơn so với Mậu thổ, kim càng nhiều, Kỷ thổ càng sinh kim.
Mặc dù Kỷ thổ là không lo mộc thịnh, không sợ thủy cuồng, nhưng Kỷ thổ cũng có vật lo sợ, đó chính là Kỷ thổ sợ ẩm thấp. Kỷ thổ sợ thấp, thực tiễn mệnh lý, trung y luận chứng đều có độ chuẩn xác là tương đương nhau. Dạ dày thích ẩm thấp, còn tỳ lại thích khô táo. Kỷ thổ sợ thấp, thể hiện chủ yếu ở Kỷ thổ là gặp Sửu thổ hoặc Thìn thổ, đơn thuần thủy vượng nó cũng không sợ, bởi vì nó có thể tòng thế. Kỷ thổ gặp đến một khối Sửu Thìn thấp thổ chính là một bãi bùn nhão, lúc này thì Kỷ thổ làm trọc thủy, hối hỏa, thảm thực bì cây cỏ ở trên bề mặt của nó cũng không thể nào sinh trưởng.
VD 1, Càn tạo: Tân Mão - Canh Dần - Kỷ Sửu - Mậu Thìn.
Tạo này sớm có vận mệnh như thế nào? Vận sau này như thế nào? Dụng Kỷ thổ hỉ táo sợ thấp, thì có thể đoán ra cái tổng thể. Dụng lý luận trước đây phân tích tạo này, Kỷ thổ không nắm lệnh, chỉ có thể làm thổ điền viên, thổ điền viên quý ở có người canh tác trồng trọt, hai trụ phía trước có kim có mộc, tựa như là ở cày cấy. Tiếc là, kim ở trên mà mộc ở dưới, giống như đem cái cày đưa ngược lên trời mà hoạt động, cấy cày thuần túy là một cách thức. Đương nhiên tệ hơn vẫn là gặp đến Sửu Thìn thấp thổ, hạn sớm ở trên Canh Dần Tân Mão, có táo khí, có nạp có giải thấp khí. Trung niên tiến vào vận Kỷ Sửu Mậu Thìn, một khối thấp thổ, Kỷ thổ không có sức sống, đạo lý là có yên mà không bị hãm vào vũng bùn hay sao chứ?. Người này vận đầu quý, vận về sau không vững bền.
Kỷ thổ sợ thấp, nếu như gặp đến tượng một khối thấp thổ ở trên như vậy, làm sao bây giờ? Biện pháp duy nhất chính là phải đi khử thấp, gia tăng khí khô táo, bát tự có giải thấp là tốt nhất, bát tự không có giải thần, đại vận nếu có giải, hiệu quả cũng không là rất rõ ràng.

lesoi
02-02-18, 02:17
VD 2, Càn tạo: Giáp Ngọ - Mậu Thìn - Kỷ Sửu - Quý Dậu.
Tạo này cùng tạo ở trên là giống nhau có nhật can là Kỷ Sửu, cũng là một khối thấp thổ. Nhưng mà khác nhau là năm Ngọ hỏa, giờ Dậu kim, đặc biệt là Dậu kim cùng Sửu Thìn đều có hợp. Kim chủ khí khô táo, Ngọ hỏa là làm ấm Thìn, khí khô táo vẫn rất đầy đủ. Địa chi dàn xếp ổn thỏa lại xem thiên can, Kỷ thấy sắc thái Mậu, Mậu thổ tọa Thìn, đắc Ngọ hỏa tương sinh, xu thế hiển nhiên thịnh vượng. Mậu Quý Giáp Kỷ cũng có tượng hợp, vật hợp hóa hoàn toàn là trợ giúp Kỷ thổ. Cho dù về già hành vận thân suy, Kỷ thổ là thổ điền viên, can có mộc, chi có kim, cùng có đủ hai vật, cùng tạo trên tuyệt đối có khá biệt. Quả nhiên, người này quý là Thiên Tử.
Can dương dễ dàng tòng khí nhưng khó tòng thế, can âm tòng thế vô tình nghĩa. Kỷ thổ cũng không ngoại lệ, kim vượng tòng kim, thủy vượng tòng Tài, mộc vượng tòng Quan Sát, kim thủy mộc cùng vượng thì Tòng Nhược. Bật luận tòng là chân hay giả, một khi hành đến vận trợ thân, thì có khả năng trở mặt không nhận, giống như trời đang nắng chuyển sang mây đen, trong khoảnh khắc trời bỗng mưa lớn khiến cho bạn tránh mưa không kịp.

lesoi
02-02-18, 02:18
VD 3, Càn tạo: Nhâm Dần - Quý Mão - Kỷ Tị - Ất Hợi.
Tạo này, can có mộc, chi có tàng kim, người này có năng lực không tệ, chính là quá âm hiểm, khuôn mặt có đầu nhọn, hành động dao động như gió. Tọa dưới có Tị hỏa, đắc khí thông căn, không phải là toàn tâm toàn ý mà tòng thế; Hợi xung Tị, hỏa lực không đủ, lại không thể không tòng thế; ngũ hành mâu thuẫn tạo thành tư duy mệnh chủ mâu thuẫn, chả trách là một tiểu nhân gian trá. 10 năm Bính Ngọ gặp Quý nhân phát tài, sau đó không nhận lục thân. Cùng người quan hệ, trước mặt nói khác sau mặt nói khác.
Kỷ thổ là cá thể ở trong quần thể, chỉ cần không nắm lệnh, không thành thế vượng, thì nó phải lấy tòng thế là cát. Tòng càng chân, tính nhân phẩm càng tốt, sự nghiệp thành tựu cũng càng lớn. Ngoại trừ hỏa thổ thành công, thì lấy đại cách mà xem, còn lại Kỷ thổ đều là thổ điền viên, thổ điền viên tất phải cần hai vật kim mộc, có hai vật này, Kỷ thổ dù có nhược, tất cũng có thành tựu.

lesoi
02-02-18, 02:18
Kỷ thổ hóa tượng.

Trước đây ở trong bài Giáp mộc hóa tượng nói qua Giáp tòng Kỷ hợp hóa tượng, chủ yếu là dựa vào đoạn nói dưới đây:
Giáp tòng Kỷ hợp, dựa thổ hóa sinh.
Gặp Ất hề thê tài ám tổn,
Phùng Đinh hề y lộc thành không.
Quý hiển cao môn, bởi được Tân kim trợ lực;
Gia ân đại phú, đều vì có công Mậu thổ.
Kiến Quý hề bình sinh phát phúc,
Phùng Nhâm hề nhất thế phiêu bồng.
Nguyệt ngộ Canh kim, gia đồ tứ bích;
Thời phùng Bính hỏa, lộc hưởng thiên chung.

lesoi
02-02-18, 02:25
Trong trụ Giáp Kỷ gặp nhau, lúc Giáp mộc nhược mà hỏa thổ cường vượng, thông thường đều lấy Giáp tòng Kỷ hợp mà luận. Điều kiện Giáp tòng Kỷ hợp là Kỷ thổ cường vượng, Giáp mộc tốt nhất là vô căn, thổ càng cường vượng thì hóa tượng càng chân. Đây chính là ý nói "Giáp tòng Kỷ hợp, dựa thổ hóa sinh". Ở lúc Giáp tòng Kỷ hợp, trong trụ thiên can thấu ra Ất mộc, đa số là khắc thổ, phá cục, hóa tượng không chân. Phùng Đinh hỏa mặc dù nói là sinh thổ, nhưng chuyện tốt đa số là không hiện thực. Nếu muốn thăng quan, tốt nhất gặp đến niên vận Tân kim. Nếu muốn phát phú, tốt nhất là ở tuế vận Mậu thổ thành vượng. Gặp Quý thủy có thể phát phúc, phùng Nhâm thủy thì bôn ba lao khổ.
"Nguyệt ngộ Canh kim, gia đồ tứ bích; Thời phùng Bính hỏa, lộc hưởng thiên chung."
Tại sao Giáp Kỷ hóa thổ, phùng Tân có thể quý hiển, gặp Canh lại gia bần, chỗ này hoàn toàn là chỗ tạo thành hiệu quả tương phản Canh Tân kim tác dụng với Giáp mộc, ở đây lý lẽ quá thâm áo, đành phải để trong phần luận bài Canh kim.

lesoi
02-02-18, 02:26
Dưới đây là《 Thập Đoạn cẩm 》luận Kỷ và Giáp hợp, lý cũng như nhau.
Kỷ năng hóa Giáp, tú tại vu Dần;
Phùng Đinh hề tha nhân lăng nhục,
Ngộ Ất hề tự kỷ tao truân;
Dương thủy trùng trùng, khách bôn tẩu hồng trần;
Thu kim sắc nhọn, người bạch ốc cô hàn.
Bính nội tàng Tân, tất đắc kỳ quý;
Mậu lý tàng Quý, bất chí vu bần.
Nhược yếu quan chức vinh thiên, tiên tu kiến Quý;
Gia ân cự phú, vụ yếu phùng Tân.
Trong trụ Giáp Kỷ gặp nhau, đầu tiên phải xem xét chính là Kỷ có hóa Giáp hay không. Có thể hóa hay không, mấu chốt là ở Kỷ thổ vượng hay suy, Kỷ thổ đắc lệnh là vượng, thì Kỷ thổ có thể hóa Giáp. Dần ở đây là chỉ phương Cấn, đại biểu đất có núi cao, thổ dày. Cũng có tiên sinh cho rằng "Tú ở Thìn", lý do là, Giáp Kỷ hóa khí thiên tinh ở vị trí sao Giác và sao Chẩn, mà sao Giác ở Thìn, sao Chẩn ở Tị, ở trụ có Giáp Kỷ, hơn nữa người sinh ở giờ Thìn Tị, Kỷ có thể hóa Giáp.

lesoi
02-02-18, 02:27
Có một bài thơ có liên quan với Giáp Kỷ hợp:
Giáp Kỷ trung ương hóa thổ thần,
Thời phùng Thìn Tị thoát trần ai;
Cục trung tuế nguyệt xu hỏa địa,
Mới hiển công danh phú quý nhân.
Còn có thơ viết:
Giáp Kỷ can đầu sinh ngộ xuân,
Bình sinh tác sự mạn lao thần;
Bách bàn cơ xảo phiên thành chuyết,
Cô khổ linh đình tẩu bất đình.
Từ chỗ này có thể biết, "Tú ở Dần", ý nói Dần tuyệt đối không phải là chỉ sinh ở tháng Dần mùa xuân, càng không phải là thích phương đông mộc.
Sau khi Kỷ hóa Giáp là chân thổ, lại gặp Giáp Ất đều không tốt, trong đó Ất càng xấu, Ất mộc khắc thổ vô tình, đối với hóa tượng là phá hư cực lớn. Gặp đến Tân kim giống như dụng cái cuốc làm cỏ, không đứt căn khí Giáp mộc, mới là dấu hiệu đại cát. Phùng Đinh Nhâm cũng không cát, bởi vì Đinh Nhâm hợp hóa mộc. Mùa thu kim sắc nhọn là chỉ Canh kim, Ất và Canh ở trong hóa khí là một tính chất, khiến cho Canh kim cùng, khiến cho Ất mộc khốn. Đây bởi vì Canh kim là khí, không phải là kim thành khí, tối đa khiến cho cành nhánh Giáp Ất giảm thiểu, nhưng chỉ là giảm thiểu cành lá, căn khí Giáp mộc vẫn còn, nếu Giáp gặp Canh Giáp càng vượng (Đây là tính đặc thù của Canh kim, tiết sau sẽ nói), đối với Kỷ thổ hóa Giáp rất là bất lợi.
Thấy Bính khá tốt, bởi vì Bính hỏa còn có thể sinh trợ hóa thần, Bính hỏa còn có thể hợp Tân kim (tức là trong Bính có tàng Tân). Kỷ thấy Mậu mặc dù là Kiếp tài, nhưng ở lúc Kỷ Giáp hợp hóa, Mậu thổ có thể bang trợ hóa thần, Mậu thổ có thể đến hợp Quý thủy (tức là trong Mậu tàng Quý), có Mậu thì không đến nỗi bần cùng. Ở dưới tình huống Kỷ có thể hóa Giáp, thấy Quý giống như thấy hỏa, bởi vì Mậu Quý hợp hóa hỏa, cho nên có thuyết pháp "Nhược yếu quan chức vinh thiên, tiên tu kiến Quý; gia ân đại phú, vụ yếu phùng Tân.".

lesoi
02-02-18, 02:28
Dưới đây là chuyển tải một đoạn 《 Luận Vận hóa khí 》có nội dung tương quan, để cung cấp tham khảo:
Nói về ngũ vận hóa khí:
Giáp Kỷ hóa thổ Ất Canh kim,
Đinh Nhâm hóa mộc tẫn thành lâm,
Bính Tân hóa thủy phân thanh trọc,
Mậu Quý nam phương hỏa diễm xâm.
Giáp Kỷ hóa thổ, hợp trung chính,
Thìn Tuất Sửu Mùi toàn viết Giá Sắc, Câu Trần đắc vị.
Ất Canh hóa kim, hợp nhân nghĩa, Tị Dậu Sửu toàn viết Tòng Cách.
Mậu Quý hóa hỏa, hợp vô tình, đắc hỏa cục viết Viêm Thượng.
Bính Tân hóa thủy, được Thân Tý Thìn thủy cục viết Nhuận Hạ.
Đinh Nhâm hóa mộc; đắc Hợi Mão Mùi toàn viết Khúc Trực nhân thọ.
Thiên can hóa hợp là tú khí; Địa chi hợp cục là phúc đức.
Hóa là chân, danh công cự khanh;
Hóa là giả, cô nhi dị tính.
Phùng Long tức hóa, biến làm Rồng bay trên trời, lợi kiến đại nhân.
Nguyệt lệnh sinh vượng, nơi Dưỡng Khố Lâm quan là hóa.
Âm Dương đắc hợp, phu phụ thất phối,
Khí trung hòa mà hóa, thái quá bất cập đều không thể hóa.
Có Phu tòng Thê hóa, Thê tòng Phu hóa, Chính hóa, Thiên hóa, nhật hạ tự hóa. Chuyển giác hóa, là Mùi Khôn Thân, Sửu Cấn Dần.

lesoi
02-02-18, 02:28
Kinh nói: Đông bắc tang bạn, Tây bắc gặp bạn.
Ngày Giáp thấy Kỷ tự hóa thổ, Kỷ kiến Giáp cũng vậy, là hóa chân, gọi là chính hóa.
Hóa chân, danh công cự khanh, là cách phú quý.
Hóa giả, cô nhi dị tính, hoặc là tăng đạo. Thập can hiệu quả chỗ này mà suy.
Nhưng Mậu Quý hóa hỏa, nam không hóa Ngọ, bắc không hóa Tý. Ngọ là Thiếu Âm vua hỏa, cho nên không hóa. Dần Thân là hỏa Thiếu Dương, là hóa.
Kinh nói: Hóa cách cục, trong huyền lại huyền, trong diệu càng diệu, không thể miêu thuật. Lúc xem Thiên nguyên 《 Thần Thú bát pháp 》tử tế suy tường: Phản, Chiếu, Quỷ, Phục, Loại, Chúc, Tòng, Hóa.

lesoi
02-02-18, 02:30
Thể tượng Kỷ thổ.

Nói đến thể tượng của Kỷ thổ, thể tượng tức là tổng thể tượng cơ bản, từ trong thể tượng chúng ta có thể cầm nhìn ra phép dụng trọng yếu của Kỷ thổ. Có thơ viết:
Kỷ thổ điền viên thuộc tứ duy,
Khôn thâm có làm cơ vạn vật;
Thủy kim vượng xứ thân vẫn nhược,
Thổ hỏa thành công cục tối kỳ.
Thất lệnh sao có vùi kiếm kích,
Đắc thời mới thể dụng tư cơ.
Khoe đầy Ấn vượng kiêm đa hợp,
Không gặp hình xung tổng bất nghi.
Kỷ thổ thuộc loại đất cát bùn ở ruộng vườn, phân tán ở 4 góc Thìn Tuất Sửu Mùi, không phải vật thuần ở tứ chính Chấn Đoài Khảm Ly, nhưng có bao hàm kim mộc thủy hỏa. Kỷ thổ là nền tảng vạn vật, vạn vật sinh trưởng tiến hóa không có ly khai khỏi Kỷ thổ. Thì giống như tỳ tạng của động vật, có thể thu hút chuyển hóa khe nước tinh hoa ở trong tự nhiên. Mọi người có thể nhìn thấy khe nước tinh hoa này ở trong dinh dưỡng nuôi thân thể, nhưng rất ít người quan tâm đến con đường trọng yếu của việc thu hút tinh hoa này, cho nên Kỷ thổ và Mậu thổ cũng có đặc điểm giống nhau, đó là nhìn qua rất bình thường, rất phổ thông, lực lao động cá thể. Ai không biết, trước hết là có nhiều cá thể, mới có thể tổ thành một quần thể khả quan.

lesoi
02-02-18, 02:30
Đối mặt người Kỷ thổ, muốn làm cho thành tài, trước tiên phải khiến cho hắn cần mẫn, không ngừng khai thác tài năng của hắn, thì cũng như đối mặt với ruộng vườn của nhà mình, tất cần phải qua đổi mới hàng ngày, cần cù mà cày cấy, mới có thành quả lớn lao. Cày cấy ruộng đồng, không ly khai khỏi cày bừa, ngũ hành mộc là cái bừa, ngũ hành kim chính là lưỡi cày hoặc là răng cày. Thông thường mà nói, người Kỷ thổ, tất phải cần hai vật kim mộc, chỉ cần có hai vật kim mộc, tự nhiên sẽ có bản lĩnh sinh tồn. Nhất là người Kỷ thổ thuộc về thân thiên nhược, hai vật kim mộc mặc dù là Thực Thương và Quan Sát của Kỷ thổ, nhưng Kỷ thổ cùng những can khác có chút phân biệt, ở Kỷ thổ muốn có thành tựu, thì không thể ly khai kim mộc, hơn nữa còn yêu cầu có đủ hai vật, có cày không có lưỡi, hoặc có lưỡi mà không có cày, cộng thêm thân nhược, khởi có thành tựu thì rất khó. Lúc nào thì Kỷ thổ thuộc về thiên nhược? Có đạo là: Thủy kim vượng xứ thân hoàn nhược. Tứ chính ngoại trừ phương Ly ra, còn lại 3 phương đều là thân nhược. Phương Chấn hỏa được sinh khí, mặc dù Kỷ thổ nhược, nhưng có thể dựa vào khí hỏa. Nhưng mà, Kỷ thổ phải vượng, phải sinh ở đất Thìn Tuất Sửu Mùi. Nếu như chỉ được phương Ly Ngọ hỏa, cũng không nhất định có thể cấu thành kỳ cục hỏa thổ công thành.
Trên có nói qua, tính tố chất Kỷ thổ rất mạnh, lúc nhược có thể là đất ruộng vườn, lúc vượng cũng có thể xây thành tường kiên cố. Kỷ thổ sinh ở tháng tứ quý, lại có hỏa làm chỗ dựa, thì có trở thành bản lĩnh đại khí hậu.

lesoi
02-02-18, 02:31
VD 1, Càn tạo: Đinh Mùi - Bính Ngọ - Kỷ Mùi - Bính Dần.
Đại vận: Ất Tị, Giáp Thìn, Quý Mão, Nhâm Dần, Tân Sửu, Canh Tý.
6 tuổi vào vận.
Nhìn sơ qua tựa như là hỏa thổ thành công, thực ra không phải. Nguyên nhân là Kỷ sinh tháng Ngọ, Đinh hỏa nắm lệnh, cộng thêm thấu ra 3 Bính Đinh hỏa, chỉ có thể lấy hỏa nhiều hỏa vượng xem. Mặc dù Kỷ thổ nỗ lực hối hỏa, nhưng khó đối địch Dần mộc sinh hỏa. Đã luận hỏa, Dần Ngọ khuyết Tuất, Ngọ Mùi khuyết Tị, hỏa không thành phương cũng không thành cục, hỏa thổ đều không thành cách. Người đi học thông minh, học lịch cũng là chính quy, chính là hơn phân nửa sinh phiêu phù bất định, không có thủy cứu hỏa, Kỷ thổ cháy khét vậy. Vận Nhâm Quý, thủy thái khinh, chẳng tích sự gì, chẳng thấm vào đâu, dẫn đến không có vợ con, hơn cả nửa đời người. Suy xét hậu vận can kim thủy, có lực cứu hỏa, có hi vọng sinh Tài, còn có thể có tiền đồ. Người này là một tiên sinh toán mệnh xử sự lễ phép, văn nhân hoa nhã.
VD 2, Càn tạo: Bính Ngọ - Ất Mùi - Kỷ Tị - Đinh Mão.
Đại vận: Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Canh Tý, Tân Sửu.
10 tuổi khởi vận.
Tạo này cùng tạo ở trên khác nhau là Kỷ sinh tháng Mùi, bản khí Kỷ thổ nắm lệnh, thấu hỏa tất là sinh thổ, đây mới là bát tự hỏa thổ thành công. Thiên can Ất mộc mặc dù không thể khiến cho Kỷ thổ trở thành chuyên vượng cách truyền thống, nhưng địa chi ám tàng Canh kim, chính là mộc ở trên, kim ở dưới, có đủ cày và lưỡi. Lúc thân nhược, có thể làm thổ điền viên, để trồng trọt; lúc thân vượng, có thể trở thành vật kiến trúc to cao. Ất mộc quy Lộc, tiến thoái đều hợp. Mệnh này bất phàm, người này quả nhiên là đại quý, 42 tuổi đã là nhân thần.

lesoi
02-02-18, 02:31
VD 3, Khôn tạo: Mậu Tuất - Mậu Ngọ - Kỷ Tị - Bính Dần.
Tạo này cùng VD 1 khác nhau là hỏa được Dần Ngọ Tuất, hỏa biến thuần, không giống như VD 1 thì là quá khô táo. Thiên can còn có 3 thổ, cũng ức chế hỏa quá viêm. Chỉ lấy thân chủ mà luận, Kỷ thổ được Canh kim ám tàng ở trong, chi giờ Dần mộc, đều có đủ hai vật kim mộc. Người này trước 33 tuổi chỉ là văn minh chất phác, có tướng tài, thẳng đến chữ hạn Kỷ lúc 33 tuổi bắt đầu phát đạt. Bởi vì sinh ở tháng Ngọ, ngọn lửa bay lơ lững, cho nên tiền đồ sự nghiệp có nhiều phong ba, cùng VD 2 là khác nhau khá xa.
Chúng ta tiếp tục nghiên cứu 4 câu sau trong bài thơ Thể tượng. Thổ đa kim mai, là nói ngũ hành kim bị đại hoạn, nhưng mà Kỷ thổ không đắc lệnh, hoặc là lúc nhược thì không cần xem xét có họa vùi kim. Ở lúc Kỷ thổ thất lệnh cũng không dễ dàng sinh trợ Canh Tân kim, cũng chỉ có lúc Kỷ thổ nắm lệnh nó mới có bản lĩnh sinh kim. Thất lệnh sao có thể chôn vùi kiếm kích, đắc thời mới có thể dụng tư cơ. Ở lúc xem bát tự Kỷ thổ vượng suy, trước tiên trọng điểm chú ý là Kỷ thổ có nắm lệnh hay không, sinh ở Thìn Tuất Sửu Mùi cũng phải xem nhân nguyên thổ chủ sự hay không. Khởi lúc vùi được kim mới có thể khởi sinh được kim. Lúc nào thì thuộc về chôn kim? Lúc nào thì thuộc về sinh kim? Lại phải dựa vào kim nhiều ít mà xác định.
VD 4, Càn tạo: Mậu Thìn - Kỷ Mùi - Tân Dậu - Nhâm Thìn.
Kỷ thổ nắm lệnh, thổ nhiều hơn kim, tức là Thổ đa mai Kim.
VD 5, Mậu Thìn - Kỷ Mùi - Tân Mão - Canh Dần.
Cũng là Kỷ thổ đương lệnh, nhưng thiên can thổ kim đều cùng trọng, kết quả là thổ sinh kim, mà không phải là chôn kim.

lesoi
02-02-18, 02:31
Hai câu cuối cùng: Khoe đầy Ấn vượng kiêm đa hợp, Không gặp hình xung tổng bất nghi. Ấn tinh Kỷ thổ là ngũ hành hỏa, Kỷ thổ gặp đến hỏa thổ thành công, tất là mệnh phi phàm. Nhưng mà chỉ là Ấn vượng, thổ không nắm lệnh, cũng đừng tùy tiện đem nó xem là hỏa thổ thành công. Kỷ thổ phùng Giáp tất có Giáp Kỷ hợp hóa tượng, Kỷ ngộ Giáp hợp, xu thế vẫn là hóa thổ, hợp hóa là dựa vào thổ hóa sinh, thổ không nắm lệnh, thì hóa tượng không chân. Lúc này thì làm sao xử lý? Câu cuối cùng nói cho ta biết là có một biện pháp hữu hiệu, đó chính là gặp xung gặp hình, trong trụ gặp niên vận có chữ hình hoặc chữ xung thì có thể phát. Hình hoặc xung ở đây trái lại là một loại khó được cát tượng, chỗ gặp xung có thể giải trừ hợp mà không có hóa, gặp hình chính là đem Kỷ thổ tiến hành lặp lại. Gặp hình khó bảo toàn những nhân sự vật khác không phát sinh hung sự, nhưng vì Kỷ thổ gặp hình xung đa số là có chuyện tốt, xu thế có bội thu từ phá cái cũ xây dựng cái mới. Trong hiện thực thấy nhiều người thân qua đời, bản thân năm ấy trái lại là thăng quan phát tài.
VD 6, Càn tạo: Ất Tị - Bính Tuất - Kỷ Hợi - Giáp Tý.
Kỷ sinh tháng Tuất, thổ đúng đang vượng. Can có mộc, chi có ám tàng Canh Tân kim, quyết định tạo này Kỷ thổ có cường có nhược. Lúc vượng có thể trợ Giáp Kỷ hóa thổ, lúc nhược thì có lưỡi cày trồng trọt. Cả đời người này bình thuận, quan chức một mực thăng thiên. Trụ có Tị Hợi tương xung, bản thân cũng rất là nỗ lực, khắc khổ học tập nghiệp dư, tư tưởng tri thức đều có thể theo đuổi tình thế. Công việc gia đình con cái đều khá là bình thuận, nhất là gặp năm xung, năm thân nhân bất thuận, cá nhân lại có khởi sắc lớn.