PDA

View Full Version : Xin hỏi về nguyên lưu



sherly
22-02-18, 20:41
Trong chương Hà Chi Trương
Sao biết người thọ? Tính định nguyên thần dày (trích thiên tuỷ)
Có 1 VD
Kỷ dậu - ất hợi - bính dần - mậu tý
Canh ngọ /kỷ tị /mậu thìn/đinh mão /bính dần
Tạo này Dậu kim là nguyên đầu, sinh Hợi thủy, Hợi thủy hợp Dần mà sinh Bính
hỏa, Bính hỏa sinh Mậu thổ, nguyên thần đều dày. Xuất thân hương bảng, làm quan chức Quan Sát, là người khoan hậu chính trực, có 9 người con 24 người cháu, giàu có hơn trăm
vạn, thọ đến 120 tuổi, không bệnh mà chết.
Theo tôi tìm hiểu, thì nguyên đầu tức là vượng thần trong tứ trụ. Tuy nhiên Nhậm thị bình tạo này lấy dậu kim là nguyên đầu. Sinh tháng hợi, kim hưu mà không thấu. Sao nó lại là Vượng thần được?
Mong các bạn chỉ giúp. Xin cảm ơn

lesoi
23-02-18, 08:16
Theo tôi tìm hiểu, thì nguyên đầu tức là vượng thần trong tứ trụ. Tuy nhiên Nhậm thị bình tạo này lấy dậu kim là nguyên đầu. Sinh tháng hợi, kim hưu mà không thấu. Sao nó lại là Vượng thần được?

Bạn xem và có nhận định về ví dụ này rất sâu sắc. Đúng như bạn suy nghĩ, tôi cũng có nhận định như vậy.
Thông thường, vượng thần chính là thần Nguyệt lệnh nắm quyền, vì nó là thần được mùa nắm lệnh. Như VD trên, theo tôi Hợi Tý thuỷ nắm lệnh, là nguyên đầu. Thuỷ chảy từ nguyệt lệnh sinh mộc sinh hoả. Là tượng mộc hoả thông minh, mộc là Nhân, hoả là Lễ, nhân lễ đều có. Hành hậu vận chảy về phương mộc hoả, như vậy chứng tõ chỗ dừng ở đây là hoả, là nhật nguyên. Xét vượng suy, thì nhật chủ khí suy, đến cuối vận nhật nguyên sinh vượng, là mệnh thọ.
Còn theo lý luận của họ Nhậm, thì lại lấy nguyên đầu của thuỷ là kim để sinh thuỷ, nhưng lực kim không đủ mạnh làm nguyên đầu. Lý lẽ của bạn là đúng.

Tôi trích đoạn phân tích của Bành Khang dân tiên sinh luận Nguyên đầu như sau: (dùng để tham khảo)
Bành thị chú giải: Ngũ hành lưu chuyển tương sinh, gọi là hữu tình. Bát tự hữu tình hay vô tình, rất nhiều huyền cơ đã ám tàng ở trong quá trình lưu thông và gặp trở ngại. Lấy trụ năm đại biểu tổ thượng, trụ giờ đại biểu tử tôn, ngũ hành nếu từ năm thuận sinh đến giờ, hoặc từ giờ nghịch sinh đến năm, đều đoán là lưu chuyển hữu tình, đây là nói ý nghĩa quan trọng hàng đầu của Nguyên lưu. Ngũ hành lưu chuyển tất là bắt đầu từ vượng khí, vượng khí ở chỗ Nguyệt lệnh là có rất nhiều ở trong bát tự, cho nên tám cách luận mệnh, thường thủ Nguyệt lệnh vượng khí làm cách, lại xem hướng đi, để định tượng cục. Nhưng mà vượng khí không phải là một chữ địa chi Nguyệt lệnh là có thể xác định được, chẳng phải là đã nghe Đắc lệnh bất vượng, Thất thời bất suy hay sao? Cho nên Manh nhân chúng ta đoán mệnh phần đa trước tiên là đếm số ngũ hành, lại kiêm nhìn Nguyệt lệnh thì không có khó nhìn ra Nguyên đầu. Ngũ hành đã có Nguyên đầu, cũng có chỗ dừng, lại còn có con đường trung gian.
Nhưng Nguyên đầu thì dễ tìm, còn chỗ dừng là ở đâu? Ngũ hành tương sinh tức là lưu chuyển, không tiếp tục sinh tất là chỗ Dừng.
Bát tự khắp nơi đều là huyền cơ, nhưng chỗ dừng lại là huyền cơ lớn nhất. Chẳng phải nghe chỗ 《 Địa Chi phú 》nói: Rơi chỗ nào mà thành tượng, ở chỗ nào mà thăng thiên. Chỗ dừng Ngũ hành mà thành hình, thành tượng, tất có quý khí, hình tượng to lớn, là ở tầng lớp cao. Chỗ dừng Ngũ hành gặp hình xung khí tán, tự nhiên hình tượng phá tổn, khó mà có phú quý. Chỗ dừng ở năm tháng mà thành hình, thì tổ thượng cùng gia đình phát vượng, chỗ dừng ở ngày giờ mà thành hình, tất là tay trắng lập nghiệp hoặc là con cái phát đạt. Chỗ dừng là Tài, thân chủ phải vượng mà có thể đảm nhận, ít nhất là cũng có lấy phú, chỗ dừng là Quan, phải cùng nhật chủ là có tình, tương sinh tương hợp, phú quý vị cao cũng có chia cho ta một chén canh để ăn.
Tóm lại, chỗ dừng như có phong thủy kết huyệt, khí không có tán, hình không có loạn. Nếu không, nhìn như là có tình, nhưng thực tế là vô dụng.

VD 1, Tân Dậu, Quý Tị, Mậu Thân, Đinh Tị,
Bành thị chú giải: Tạo này ngũ hành khuyết mộc, ít thủy, theo Nguyệt lệnh Tị hỏa là vượng khí, Mậu thổ đắc lộc ở Tị, kim nhiều tiết thổ, nhưng có ở vượng khí, Mậu thổ là con đường không vượng cũng không suy, khí ngũ hành, từ hỏa chảy hướng thổ, lại hướng kim, đến phương thủy là dừng. Quý thủy là chỗ dừng, Quý thủy cùng nhật nguyên Mậu, tương hợp hữu tình. Hữu tình biểu hiện ở Mậu Quý hợp có thể bổ sung chỗ nhu nhật nguyên, hơn nữa đường đi không tổn thương. Vượng khí tụ ở Nguyệt lệnh, chủ gia đình hoặc đơn vị phát đạt, cùng nhật nguyên hữu tình, liền tới mệnh chủ là được đứng đầu phát đạt. Tất nhiên không mất phú quý.

sherly
23-02-18, 09:23
Cảm ơn anh lesoi đã trả lời.
Xin hỏi anh có còn tài liệu nào về nguyên lưu nữa không. Tôi thấy phần này rất hay, liên quan rất nhiều đến khí tượng nhưng tài liệu ít quá. Nếu có mong anh chia sẻ lên diễn đàn để cùng học hỏi.
Chúc anh năm mới sức khoẻ và thành công.

lesoi
23-02-18, 16:24
Xin hỏi anh có còn tài liệu nào về nguyên lưu nữa không. Tôi thấy phần này rất hay, liên quan rất nhiều đến khí tượng nhưng tài liệu ít quá. Nếu có mong anh chia sẻ lên diễn đàn để cùng học hỏi.
Tài liệu thì có nhiều, nhưng tôi vẫn chú trọng cách luận của Bành Khang Dân tiên sinh, ông luận theo manh phái. Tôi sẽ cố tìm lại để đưa lên đây cho các bạn tham khảo thêm. Chúc các bạn năm mới dồi dào sức khoẻ và thành đạt.

nquytran
24-02-18, 17:08
Các bác cho cháu hỏi càn tạo của cháu có gọi là nguyên lưu không.
Tính từ Thân kim sinh Nhâm thủy sinh Dần mộc sinh Ngọ hỏa sinh Mậu thổ cuối cùng.

Càn tạo : Nhâm Thân- Nhâm Dần-Mậu Dần-Mậu Ngọ.

MT.

lesoi
24-02-18, 18:12
@nguytran: Không được, bởi vì kim sinh tháng Dần là Tử địa không có lực sinh thủy. Bạn phải xuất phát từ nguyệt lệnh Dần mộc. Nguyên lưu chảy từ mộc sang hỏa, hỏa sinh thổ sinh kim sinh thủy, nguồn tương sinh bất tận, dừng lại nơi Nhâm thủy. Lấy Tài tinh quyết định bản mệnh.

lesoi
24-02-18, 18:14
Xin trích nguyên văn Bành Thị giải thích TTT, chương 19 Nguyên Lưu:

Bành Khang Dân chú giải 《 Trích Thiên Tủy 》
Chương 19: Nguyên Lưu
Tác giả: Thái Tích Quỳnh

Căn nguyên khởi ở đâu? Chảy đến phương nào dừng? Mấu chốt cầu ở đây, biết đến cũng biết đi.
Nguyên chú: Bất tất luận nắm lệnh hay không nắm lệnh, chỉ luận lấy tối đa và tối vượng, mà tổ tông có năng lực là cục thỏa mãn, gọi là Nguyên Đầu vậy. Xem Nguyên Đầu này, chảy đến phương nào, nơi chảy tới, là chỗ hỉ thần, tức là dừng lại ở đây, chính là có được đường về.
Như: Tân Dậu, Quý Tị, Mậu Thân, Đinh Tị. Lấy hỏa là Nguyên đầu, chảy đến phương kim thủy là dừng, cho nên là đứng đầu phú quý, nếu tiếp tục chảy đến đất mộc, là khí tiết, là loạn. Như chưa từng chảy đến phương cát, tức là ở giữa gặp phải trở ngại, xem thần gây trở ngại là thần nào, để đoán cát hung; đất dừng chảy là đất nào, để biết địa vị.
Như: Quý Sửu, Nhâm Tuất, Quý Sửu, Nhâm Tý, lấy thổ làm Nguyên đầu, dừng phương thủy, chỉ sống được một người, còn khí hỏa thổ ở trong Tuất, được theo dẫn trợ, cho nên là căm ghét vậy.
Bành thị chú giải: Ngũ hành lưu chuyển tương sinh, gọi là hữu tình. Bát tự hữu tình hay vô tình, rất nhiều huyền cơ đã ám tàng ở trong quá trình lưu thông và gặp trở ngại. Lấy trụ năm đại biểu tổ thượng, trụ giờ đại biểu tử tôn, ngũ hành nếu từ năm thuận sinh đến giờ, hoặc từ giờ nghịch sinh đến năm, đều đoán là lưu chuyển hữu tình, đây là nói ý nghĩa quan trọng hàng đầu của Nguyên lưu. Ngũ hành lưu chuyển tất là bắt đầu từ vượng khí, vượng khí ở chỗ Nguyệt lệnh là có rất nhiều ở trong bát tự, cho nên tám cách luận mệnh, thường thủ Nguyệt lệnh vượng khí làm cách, lại xem hướng đi, để định tượng cục. Nhưng mà vượng khí không phải là một chữ địa chi Nguyệt lệnh là có thể xác định được, chẳng phải là đã nghe Đắc lệnh bất vượng, Thất thời bất suy hay sao? Cho nên Manh nhân chúng ta đoán mệnh phần đa trước tiên là đếm số ngũ hành, lại kiêm nhìn Nguyệt lệnh thì không có khó nhìn ra Nguyên đầu. Ngũ hành đã có Nguyên đầu, cũng có chỗ dừng, lại còn có con đường trung gian.

lesoi
24-02-18, 18:17
Hỏi: Nguyên đầu dễ tìm, còn chỗ dừng là ở đâu?
Thầy đáp: Ngũ hành tương sinh tức là lưu chuyển, không tiếp tục sinh tất là chỗ dừng.
Hỏi: Biết chỗ dừng thì lại phải sắp xếp như thế nào?
Thầy đáp: Bát tự khắp nơi đều là huyền cơ, nhưng chỗ dừng lại là huyền cơ lớn nhất. Chẳng phải nghe chỗ 《 Địa Chi phú 》nói rơi chỗ nào mà thành tượng, ở chỗ nào mà thăng thiên. Chỗ dừng Ngũ hành mà thành hình, thành tượng, tất có quý khí, hình tượng to lớn, là ở tầng thứ cao. Chỗ dừng Ngũ hành gặp hình xung khí tán, tự nhiên hình tượng phá tổn, khó mà có phú quý. Chỗ dừng ở năm tháng mà thành hình, thì tổ thượng cùng gia đình phát vượng, chỗ dừng ở ngày giờ mà thành hình, tất là tay trắng lập nghiệp hoặc là con cái phát đạt. Chỗ dừng là Tài, thân chủ phải vượng mà có thể đảm nhận, ít nhất là cũng có lấy phú, chỗ dừng là Quan, phải cùng nhật chủ là có tình, tương sinh tương hợp, phú quý vị cao cũng có chia cho ta một chén canh để ăn.
Tóm lại, chỗ dừng như có phong thủy kết huyệt, khí không có tán, hình không có loạn. Nếu không, nhìn như là có tình, nhưng thực tế là vô dụng.

lesoi
24-02-18, 18:18
Nhâm thị viết: Nguyên Đầu, tức là vượng thần ở trong tứ trụ vậy, bất luận là loại Tài, Quan, Ấn thụ, Thực Thương Tỉ kiếp, đều có thể là Nguyên đầu vậy. Cuối cùng là lưu thông sinh hóa, cục nhận được đẹp là tốt. Hoặc là khởi từ Tỉ Kiếp, dừng ở Tài Quan là hỉ; hoặc khởi ở Tài Quan, dừng ở Tỉ Kiếp thì nhớ là kị. Như Sơn xuyên phát mạch lai long, nhận khí ở Đại Phụ Mẫu, thì xem tinh tôn quí; nhận khí ở chân Tử Tức, thì xem tinh chủ; nhận khí ở phương Giao Cấu, thì xem tinh Thai Phục; nhận khí ở thành Thai Dục, thì xem tinh Thai Tức; nhận khí ở Hóa Sát thành quyền, thì xem Giải tinh; nhận khí ở Tuyệt xứ phùng Sinh, thì xem Ấn tinh.
Nhận nguyên khí mà lấy Thế, nhận lưu khí mà lấy Tình. Cho nên Nguyên Đầu chỗ dừng lại, tức là chỗ Sơn xuyên kết huyệt vậy, không thể không lấy mà nghiên cứu; Nguyên Đầu gặp chỗ trở ngại, tức ý là Lai Long phá tổn cách tuyệt vậy, không thể không xem xét. Xem chỗ Nguyên Đầu dừng chảy là chỗ nào, để biết ai hưng ai suy; xem thần gây trở ngại là thần nào, để luận cát hung là ở đâu.
+ Như Nguyên Đầu khởi ở năm tháng là Thực Ấn, dừng lại ở ngày giờ là Tài Quan, thì nhận ở trên sự che chỡ của tổ phụ, nhận ở dưới phúc đức của con cháu; hoặc là khởi ở tháng là Quan, dừng ở ngày giờ là Thương Kiếp, thì phá bại tổ nghiệp, hình thê khắc tử, nếu như khởi ở ngày đúng là Tài Quan, dừng ở năm tháng là Thực Ấn, thì ở trên tổ phụ địa vị là vẻ vang, ở dưới là cùng với con cháu lập nghiệp; hoặc khởi ở ngày giờ là Tài Quan, dừng lại ở năm tháng là Thương Kiếp, thì khó mà hưởng tổ nghiệp, bản thân tự nghĩ ra sự đổi mới, dừng chảy ở năm là Quan Ấn, biết tổ thượng là thanh cao; là Thương Kiếp thì biết tổ thượng hàn vi. Dừng chảy ở tháng là Tài Quan, thì biết cha mẹ gây dựng cơ đồ sự nghiệp; là Thương động, thì biết cha mẹ bị phá bại. Dừng chảy ở ngày giờ là Tài Quan Thực Ấn, nhất định là tay trắng lập nghiệp, hoặc là vợ hiền con quý. Dừng chảy ở ngày giờ là Thương Kiếp Kiêu Nhận, nhất định là vợ xấu con kém, hoặc là do vợ mà gây ra họa, phá gia mà chịu nhục. Nhưng lại phải xem nhật chủ hỉ kỵ mà quyết định, là không có không ứng nghiệm vậy.

lesoi
24-02-18, 18:18
+ Như Nguyên Đầu ở đất chưa dừng chảy, có thần gây trở ngại ngăn chặn, là Thiên Chính Ấn thụ, tất là họa ở trưởng bối; trong trụ có Tài tinh tương chế, tất được trợ giúp của vợ hiền. Như có Tỉ Kiếp hóa, hoặc được huynh đệ tương phù; như trở ngại là Tỉ Kiếp, tất gặp liên lụy anh em, hoặc là bất hòa. Trong trụ có Quan tinh tương chế, tất được quý nhân giải cứu; như có Thực Thương hóa, có thể là được con cháu trợ giúp. Như âm tiết là Tài tinh, tất thê thiếp gặp họa; trong trụ có Tỉ Kiếp tương chế, tất được huynh đệ trợ giúp, hoặc huynh đệ yêu kính. Như có Quan tinh hóa, hoặc được người hiền tài nâng đỡ; như trở ngại là Thực Thương, tất con cháu bị liên lụy, trụ có Ấn thụ tương chế, tất được ngậm phúc của trưởng bối, hoặc là thân trưởng đề bạt; có Tài tinh hóa, tất được vợ đẹp, hoặc nhiều tài năng. Như trở ngại là Quan Sát, tất gặp họa quan hình; trong trụ có Thực Thương tương chế, tất được con cháu giúp sức. Có Ấn thụ hóa, tất nhận trợ giúp của trưởng bối, nhưng lại cần xem dụng thần mà luận hỉ kỵ, không có không ứng vậy.
+ Như Nguyên đầu dừng chảy là Quan tinh, lại là dụng thần của nhật chủ, thì thanh danh quý hiển, 10 là có 8, 9; Như là Tài tinh, lại là dụng thần của nhật chủ, thì lợi phát tài, 10 là có 8,9; Như là Ấn tinh, lại là dụng thần của nhật chủ, có văn chương mà lại thanh cao, 10 là có 8,9; Như là Thực Thương, lại là dụng thần của nhật chủ, là tài tử xinh đẹp, 10 là có 8,9. Như nhật chủ lấy Quan tinh là kỵ thần, làm quan có gặp họa khuynh gia; như nhật chủ lấy Tài tinh là kỵ thần, là vì Tài mà tang thân thảm bại danh tiết; như nhật chủ lấy Ấn tinh là kỵ thần, ít học mà con trưởng còn bị hại; như nhật chủ lấy Thực Thương là kỵ thần, là con cháu bị liên lụy mà tuyệt tự. Chỗ này đúng lẽ vốn là cùng cực không giống như Liêu luận sách Cốc vậy.

lesoi
24-02-18, 18:18
VD 1, ví dụ trong nguyên chú:
Tân Dậu, Quý Tị, Mậu Thân, Đinh Tị,
Bành thị chú giải: Tạo này ngũ hành khuyết mộc, ít thủy, theo Nguyệt lệnh Tị hỏa là vượng khí, Mậu thổ đắc lộc ở Tị, kim nhiều tiết thổ, nhưng có ở vượng khí, Mậu thổ là con đường không vượng cũng không suy, khí ngũ hành, từ hỏa chảy hướng thổ, lại hướng kim, đến phương thủy là dừng. Quý thủy là chỗ dừng, Quý thủy cùng nhật nguyên Mậu, tương hợp hữu tình. Hữu tình biểu hiện ở Mậu Quý hợp có thể bổ sung chỗ nhu nhật nguyên, hơn nữa đường đi không tổn thương. Vượng khí tụ ở Nguyệt lệnh, chủ gia đình hoặc đơn vị phát đạt, cùng nhật nguyên hữu tình, liền tới mệnh chủ là được đứng đầu phát đạt. Tất nhiên không mất phú quý.
VD 2, ví dụ thời nay:
Khôn tạo: Mậu Tuất, Canh Thân, Quý Hợi, Đinh Tị
Tạo này Quan Ấn một đường đến sinh, tự xem hữu tình. Vượng khí trước tiên chảy hướng nhật nguyên cùng tọa dưới Hợi, Quý Hợi không phải là chỗ dừng, một là trong Hợi có Giáp, hai là Hợi cùng Tị xung, nếu như khí ở Giáp mộc, Thân xuyên Hợi, thương hại Giáp, nếu như khí dừng ở Hợi, Tị đến xung, cuối cùng là chỗ dừng gặp phải hình, tượng khí tán. Cho nên không có phú quý, là người bình thường mà thôi.

lesoi
24-02-18, 18:19
VD 3, ví dụ xưa:
Càn tạo: Nhâm Thân, Nhâm Tý, Mậu Ngọ, Ất Mão

Tạo này kim mộc thủy hỏa thổ ngũ hành không khuyết, vượng khí là thủy, tự xem ngũ hành lưu thông không trở ngại, cũng không chỗ dừng, thực tế vượng khí ở nguyệt lệnh Nhâm Tý, Mậu thổ có tượng thủy khố, chỉ có thủy khố mới có thể giữ được dòng vượng khí này. Ất là thảm thực vật ở trên khố, bang trợ Mậu thổ khống chế dừng vượng thủy không chảy tràn lan thành họa, khí quy về nguyệt lệnh, tượng nhật chủ rơi, quý mệnh là Tham Chính.
VD 4, Nguyên là ví dụ của Nhâm thị:



Tứ trụ
Đại vận


Tân Dậu
Canh Tý
Bính Dần
Quý Tị
Kỷ Hợi
Mậu Tuất
Đinh Dậu
Bính Thân
Ất Mùi
Giáp Ngọ



Nhâm thị chú giải: Chỗ này lấy kim làm Nguyên đầu, chảy đến Dần mộc, Ấn thụ sinh thân càng hay. Giờ Tị đắc Lộc, Tài lại phùng sinh, Quan tinh thấu lộ, thanh có tinh thần, trung hòa thuần túy, khởi chỗ cũng tốt, quy cục càng đẹp, xuất thân Từ lâm , làm quan Thông Chính, cả đời không gặp hiểm, danh lợi song huy.
Bành thị chú giải: Tạo này Nhâm thị giải thích rất hay. Dậu sinh Tý cũng phá Tý, Tý thủy cũng không phải Nguyên đầu. Thiên can Canh Tân âm dương cùng thấu, địa chi phùng Dậu, kim là Nguyên đầu, Nhâm thị nói mộc là chỗ dừng. Tại sao không nói hỏa là chỗ dừng? Nói hỏa là chỗ dừng tất nhiên là có lý, nhưng chỗ dừng là ở Bính mà không ở Tị, nguyên nhân là vượng thủy cái đầu, hỏa tính chỉ viêm thượng. Dần mộc khí vượng tướng ngũ hành thuận lợi lưu thông đến chỗ nhật nguyên. Thư viết: Dần cung không sợ thủy nguyên thâm, chỗ này có Dần mộc cũng không lo thiên can Quý thủy. Nếu là ngày Bính Tý, không có thổ lộ tích ở vượng thủy, tất có lo thủy hỏa giao chiến. Phú viết: thủy hỏa giao chiến nhiều thị phi. Nếu là ngày Bính Tý, mặc dù tòng Sát, có dấu hiệu là đại quý, nhưng cả đời khó tránh gợn sóng mạo hiểm. Tạo này được 1 Dần kề thân, vượng khí dừng ở Bính Dần, bát tự không có thổ rõ làm mờ hỏa, lại không có hình xung. Ấn thụ sinh thân, Tài Quan Ấn một đường tương sinh đến thân chủ, đường đi thông sướng, quá trình xuất thân cùng cả đời đều cát. Chỉ là tượng không quá lớn, cho nên cả đời không có nguy hiểm, danh lợi song huy, cũng chỉ qua là một mệnh Thông Chính (Thông Chính tức là quan sứ giả, cao nhất là tam phẩm, thấp nhất là không có phẩm).

lesoi
24-02-18, 18:19
VD 5, Vốn là ví dụ của Nhâm thị:



Tứ trụ
Đại vận


Tân Sửu
Quý Tị
Mậu Thân
Bính Thìn
Nhâm Thìn
Tân Mão
Canh Dần
Kỷ Sửu
Mậu Tý
Đinh Hợi



Nhâm thị chú giải: Chỗ này lấy hỏa làm Nguyên Đầu, chảy đến phương thủy thì dừng, càng hay ở tháng và giờ, gốc của hai hỏa, đều được lưu thông, đến kim thủy thì quy về cục, cho nên giàu có bách vạn, làm quan đến nhất phẩm, trọn cả đời không có nguy hiểm, chỗ nói là giúp lấy phúc lớn, mọi người ngưỡng mộ; đóa hoa thêm gấm, nhìn thấy Ngũ phúc.
( Kinh Thi chia ra ngũ phúc là: (1) Giàu có; (2) Yên lành; (3) Thọ ; (4) Có đức tốt; (5) Vui hết tuổi trời)

Bành Thị chú giải: Tạo này cùng ví dụ ở trên là tương tự. Chỗ khác nhau là, một trụ Bính Thìn, Mậu mượn lực thổ của Bính Thìn, nắm trong tay vượng khí càng có lực mạnh.

lesoi
24-02-18, 18:19
VD 6, Vốn là ví dụ của Nhâm thị:



Tứ trụ
Đại vận


Tân Mão
Tân Mão
Bính Tý
Giáp Ngọ
Canh Dần
Kỷ Sửu
Mậu Tý
Đinh Hợi
Bính Tuất
Ất Dậu



Nhâm Thị chú giải: Tạo này lấy mộc làm Nguyên Đầu, ngũ hành không có thổ, không thể chảy đến kim; Tài Quan lại cách tuyệt, xung mà gặp tiết, không có tình sinh hóa. Vận đầu Canh Dần, ngậm phúc bề trên; vận Kỷ Sửu hợp Tý, tiết hỏa sinh kim tài phúc cùng đạt; Mậu Tý thổ hư thủy vượng, ám trợ mộc thần, hình háo đa đoan; Đinh Hợi khắc kim hội mộc, phá gia người mất.
Bành thị chú giải: Tạo này lấy mộc làm Nguyên Đầu, thiên can thấu Giáp, đến hỏa là dừng. Bởi vì bát tự không có thổ, vượng khí không có cách nào lưu thông đến kim, năm tháng đều là Tân kim, không được vượng khí tương sinh, tất nhiên là vô vị, không động không vật. Nhưng mà, nhật chủ tham hợp Tân kim, lại thêm Biến dã Đào Hoa, rất là phong lưu. Tệ hơn là Tý Ngọ tương xung, vượng khí đến gặp tán mất. Vận Kỷ Sửu bởi vì hợp trụ Tý thủy, thông quan hỏa ở kim, mới có được tài phúc; vận Tý xung Ngọ, chính là mùa khí tán. Vận Đinh Hợi, Tân kim bị thương, người cứu mệnh đều mất. Thảo nào ứng có phá gia người mất.

lesoi
24-02-18, 18:20
VD 7, Vốn là ví dụ của Nhâm thị:



Tứ trụ
Đại vận


Canh Dần
Nhâm Ngọ
Mậu Ngọ
Đinh Tị
Quý Mùi
Giáp Thân
Ất Dậu
Bính Tuất
Đinh Hợi
Mậu Tý



Nhâm thị chú giải: Tạo này lấy hỏa làm Nguyên Đầu, chi năm Dần mộc chủ bị tiết, can tháng Nhâm thủy ngăn cách, không thể chảy đến kim. Vận đầu đất thổ kim, xung hóa thần cản trở tiết khí, sự nghiệp giống như nước mắt mùa Thu hoa Xuân hưng thịnh, người được ân huện của năm Nghiêu tháng Thuấn; một lúc giao Bính Tuất, chi hội hỏa cục, Kiêu thần đoạt Thực, phá hao dị thường, lại hình khắc một thê hai thiếp bốn con; đến vận Đinh Hợi, can chi đều hợp hóa mộc, cô đơn một mình, bơ vơ chịu không thấu, bèn quy y thành tăng.
Bành thị chú giải: Tạo này hỏa nhiều gặp Dần, khuyết một chữ Tuất, hỏa không thu vào, tượng vô tình tán hỏa. Hoàn toàn dựa vào thiên can kim thủy ức chế hỏa vượng khí, tiếc là kim thủy thái nhược, địa chi không có thổ kim tiết hỏa thông quan, kim thủy không đến được vượng khí bồi dưỡng, hỉ dụng cả hai đều bị thương. Tạo này ức chế vượng hỏa là khẩn yếu nhất, thủy là dụng, kim là hỉ. Dần mộc là bệnh. Hợi vận, Hợi tham sinh hợp mà vong khắc, thế hỏa không giảm, dụng thần Lộc tinh bị hợp thương. Dần dần nhập vào tuyệt cảnh.

lesoi
24-02-18, 18:20
Tổng kết:
Nhâm thị viết: Phàm phú quý, không có không theo Nguyên Đầu vậy. Phân ra quý tiện, hoàn toàn là ở một chữ thu cục mà định. Ta mất trọc khí, ta làm Hỉ thần, không quý cũng phú; ta mất thanh khí, ta làm kỵ thần, không bần cũng tiện. Học giả nên xem xét cẩn thận.

Bành thị cho rằng, chỗ Nhâm thị nói rất đúng. Chỗ nguyên văn giảng Nguyên Lưu, vừa phải có vượng khí làm Nguyên Đầu, cũng phải có lưu thông làm đường đi, càng xem trọng chỗ vượng khí dừng lại. Chỗ vượng khí dừng lại thu vào được tốt, xác thực là có Chân Long kết mạch, đất bảo vật tàng phong tụ khí. Khí quy về Nguyệt lệnh, tượng rơi Nhật chủ, không có không phú quý vậy. Nhưng mà bát tự càng nhiều lại là chân khí khó tụ, hoặc là xung phá vô hình, hoặc là đường đi không thông, hoặc là gốc chi khô héo, chỗ khác tươi tốt. Mọi thứ huyền cơ, đều tàng ẩn hết ở trong Nguyên Lưu.
Tác giả dựa theo Nguyên Lưu cũng là dựa theo để hoàn thành ngũ hành sinh khắc, ngũ hành sinh khắc là chính lý, ngũ hành sinh khắc từ đâu mà bắt đầu, hẳn phải là ứng dụng trong Nguyên Lưu một đại bí quyết, bây giờ kèm theo một đoạn văn nhỏ, để cung cấp tham khảo.

nquytran
25-02-18, 08:36
@nguytran: Không được, bởi vì kim sinh tháng Dần là Tử địa không có lực sinh thủy. Bạn phải xuất phát từ nguyệt lệnh Dần mộc. Nguyên lưu chảy từ mộc sang hỏa, hỏa sinh thổ sinh kim sinh thủy, nguồn tương sinh bất tận, dừng lại nơi Nhâm thủy. Lấy Tài tinh quyết định bản mệnh.
Bác cho cháu hỏi nếu vậy Mậu thổ sinh được Thân kim không, vì Mậu bị ngăn cách Nhâm và Dần. Cháu đọc nguyên lưu đa phần thấy dòng chảy ngũ hành phải liền nhau.

MT.

lesoi
24-04-18, 19:02
Bác cho cháu hỏi nếu vậy Mậu thổ sinh được Thân kim không, vì Mậu bị ngăn cách Nhâm và Dần. Cháu đọc nguyên lưu đa phần thấy dòng chảy ngũ hành phải liền nhau.

MT.
Manh phái có một tuyệt chiêu bí truyền, đó là "Phùng xung thì hung". Dựa vào nguyên lý này, mỗi khi luận mệnh, Manh sư thường xem Nguyên lưu là rất trọng yếu. Bất cứ dòng chảy nào nếu gặp cản trở thì mệnh xem như là hung. Lực xung mạnh, xuất hiện nhiều thì càng hung.

sherly
20-09-18, 22:49
Sách cụ Thiệu có ghi thế này:
Địa chi không tính sinh khắc, chỉ quan hệ hình xung hợp hại.
Ví dụ Tuất gặp hợi thì không luận tuất (thổ) khắc hợi thuỷ, gặp Tý cũng vậy.
Theo tôi hiểu ý cụ Thiệu sinh khắc ngũ hành trong tứ trụ chỉ xảy ra với Thập can. Với địa chi, thì việc hỗn tạp nhiều ngũ hành, vd với Tuất tàng Mậu Tân Đinh, Hợi tàng Nhâm Giáp, thì Mậu khắc Nhâm là bản khí, thì dư khí còn lại không biết giải quyết thế nào, vậy nên Địa chi không luận sinh khắc.
trong Manh phái Đoàn Kiến Nghiệp có 1 đoạn là kẹp khắc
Như tuất - hợi - tuất, là chế không hoàn toàn, trường hợp này muốn chế hợi chỉ có dùng Tị hoả xung Hợi.
Hợi có quan hệ tam hợp Mão Mùi
Có mão thì mão tuất hợp, có mùi thì tuất mùi hình, duy chỉ có Tị hoả không có quan hệ gì với Tuất nên xung thẳng Hợi.
1 dấu vết nữa: các địa chi tứ chính chỉ có 1 nhân nguyên (trừ ngọ hoả là hơi đặc biệt, có kỷ thổ), tồn tại thêm quan hệ phá, dậu phá tý là kim nhiều thuỷ đục, mão phá ngọ, là mộc nhiều hoả diệt, tuỳ điều kiện mà có cả ngọ phá dậu, là thổ nhiều vùi kim, còn các địa chi khác không có quan hệ này.
Các bạn có ý kiến thế nào?
Nếu điều này đúng thì nguyên lưu còn phải bàn nhiều, như Tuất gặp Thân kim thì cho rằng thổ sinh kim là không được rồi.