View Full Version : Bàn luận các phương pháp xem thứ tầng mệnh cục
Có hơn 50 vạn loại mệnh cục, không mệnh nào giống mệnh nào, thiết nghĩ phải có cách xem thứ tầng mệnh cục
Tôi được biết mấy cách sau:
- phép khí thế, khí số.
Khí thế có nhiều loại, như nguyên lưu sâu dày lưu thông, thiên nguyên nhất khí, can chi đắc lộc, tam hợp tam hội đều là khí thế. Nếu có khí thế thì không xem khí số. Thường thì khí thế xem ở địa chi, có người giải thích khí thế tức là nói về nơi tụ khí, mệnh cục có chỗ tụ khí thì có khí thế. Tụ khí đắc dụng thì tốt, không đắc dụng thì xấu.
Khí số dùng xem khi mệnh không có khí thế, khí số dùng cho cả 3 thiên can thấu và nhật chủ. Quý khí chân chính ở đâu lớn nhất thì lấy đó là thái cực luận mệnh. Mệnh đắc cả khí thế và khí số đều là mệnh thuộc thứ tầng cao.
- Cách cục thành bại cao thấp. Dựa trên nguyên lý, tứ cát thần thuận dụng, tứ hung thần nghịch dụng.
Chính quan cách cần tài và ấn và tài ấn không tương hại lẫn nhau.
Tài cách thích thương thực và Quan tinh hộ vệ, không thích tỷ kiếp, thương quan không gặp quan.
...
Đây cũng là một phương pháp cho thấy mệnh tốt, nhưng tôi thấy vẫn hơi ảo diệu. Vì nó không lý đến ngũ hành. Như chính quan hành kim phải khác hành thổ. Cùng thương quan sinh tài nhưng thổ sinh kim nó phải khác kim sinh thuỷ.
- Ẩn hiện, trong Trích Thiên Tuỷ có ghi, kị thần thấu can, dụng thần tàng chi thì đại cát, dụng thần thấu can, kị thần tàng chi thì đại kị. Tôi nghĩ ý này đúng. Hợp xung hình hại của địa chi rất là ảo diệu và khó luận, thiên can thì sinh khắc hợp dễ dàng hơn.
Có thiên can ngũ hợp:
Ất canh hợp kim
Bính tân hợp thuỷ
Đinh nhâm hợp mộc
Mậu quý hợp hoả
Giáp kỷ hợp thổ
Nó không rắc rối như địa chi. vD như xung, xung tứ chính khắc xung tứ mộ.
Rồi xung khử bì, xung khai khố. Hợp hoá, hợp không hoá, tam hợp thâu khí... Chính vì nó khó chế hoá như thế, nên thường dụng thần tàng chi khó bị ảnh hưởng bởi tuế vận hơn thiên can, nên có thể luận cát.
Tuy nhiên cái gì cũng có cái giá của nó, kị thần hiện trên can thì trước xấu sau mới tốt. Vì phải chờ tuế vận đến khắc khử kị thần.
- Nguyên lưu, tôi hiểu là dòng chảy của tứ trụ. Như nói ở phần khí thế, khí số, nguyên lưu dày đẹp, có nơi tụ khí đắc dụng thì mệnh rất tốt. Dừng ở thương thực tài tinh thì đại phú. Dừng ở quan sát ấn tinh thì đại quý. Vì chưa nghiên cứu phần này kỹ nên chưa bàn sâu thêm được.
- Trụ giờ là dụng thần. Trụ giờ là kết quả của đời người, là cung Thiên di, cũng là cung Tài Bạch.
Như trong phép lấy quẻ mai hoa theo năm tháng ngày giờ. Thì ngoại quái chỉ gồm năm tháng ngày, nội quái thì cộng thêm giờ sinh. Vậy có thể thấy trụ giờ là cái nhân tố quyết định phần lớn mệnh cục có đẹp hay không. Sinh bất phùng thời hay đắc chí cũng đều do trụ giờ quy định.
Người thành công bao giờ cũng có trụ giờ đẹp. Như sách của thầy trò Bành Khang Dân - Thái Tích Quỳnh luận tam trụ trước, xem hỷ nhất cái gì, khi đó xem trụ giờ. Nếu có thì đại cát. Cần táo thổ có táo thổ, cần căn thì có căn, cần hợp xung thì có hợp xung.
Hỷ nhất nơi tụ khí là Địa Chi trụ giờ, thể hiện có hậu phúc.
- Mệnh Thân, Thai Nguyên
Nhiều sách Manh Phái có đề cập, chỉ cần Mệnh Thân và Thai Nguyên có tình, có quý nhân lâm chiếu, nếu gặp lục hợp tam hợp thì càng cát.
Ngoài ra còn một số mệnh lý gia còn dùng mệnh cung để xem mua nhà cửa, giàu nghèo hay không.
Vd: địa chi mệnh cung là tài tinh của nhật chủ thì rất giàu nhưng bất chính...
Mời các bác tham gia bàn luận cho giới hậu học chúng tôi thêm hiểu biết.
Vài ví dụ về trụ giờ:
Mr lý gia thành:
Mậu Thìn - Kỷ Mùi - Canh Ngọ - Đinh Hợi
Canh kim tháng mùi là hoả viêm thổ táo, ngọ mùi hợp là có khí thế thổ nhiều vùi kim, cần mộc khắc khử thổ cứu kim, lại cần thuỷ để điều hậu. Cái cần nhất lại thấy ngay ở trụ giờ, chi giờ Hợi Thuỷ đáp ứng đầy đủ, có Giáp mộc trường sinh, có Nhâm Thuỷ khử viêm. Có hợi ngọ ám giảm thế hoả, có hợi mùi củng mộc chế thổ. Có tượng Đinh Nhâm tự hợp giảm thế Đinh hoả càn rỡ sinh thổ khắc kim trui rèn. Giờ Hợi là giờ đại cát nhất trong ngày Canh Ngọ này. Vận đi toàn đất thuỷ mộc, vừa giàu lại vừa thọ. 90 tuổi mới nghỉ hưu mà vẫn giữ vương vị.
Ngọ là thê cung, ngọ mùi hợp, trong mùi có ất là thê tinh, cung vị Mùi lại là chị em gái và là lão trạch. Biểu hiện lấy chị em họ trong nhà làm vợ (bà Trang Nguyệt Minh). Hihi manh phái thật là thi vị.
Bát tự Mao Trạch Đông:
quý tị - giáp tý - đinh dậu - giáp thìn
Đinh sinh tháng tý thấu quý là thất tiết. Nhật chủ đắc căn tại tị hoả, hỷ nhất chi giờ giáp thìn, thấp thổ bồi căn cho giáp mộc làm thân cường, bên trái sát sinh ấn, bên phải thấu ấn nên ấn là kị. Tự nhiên lại có dậu kim hợp thìn chế căn mộc. Là kị thần bị chế, có bệnh được thuốc nên là đại cát. Chỉ cần không vào vận thuỷ mộc sẽ công thành danh toại.
Vào vận tân dậu, hoạt động chính trị tốt, dành những thành tựu nhất định.
Vận canh thân, thân tý thìn hợp thuỷ cục. Mặc dù vẫn là vận kim nhưng thành bại thất thường, cuộc vạn lý trường chinh diễn ra trong vận này, tuy nhiên đây cũng là nền móng cho thành công về sau.
Bắt đầu vào vận nam phương, nếu luận đơn thuần thân vượng kị tỷ kiếp thì không xem được, thực tế vào vận này thuỷ mộc đều tù tử cả, thân vượng không nhờ vào sát ấn, mà nhờ vào tỷ kiếp, thấu thực thương nên dụng thần là nó. Dành thắng lợi đuổi anh Tưởng ra xứ Đài. Dụng thực thương nên tiến hành nhiều cuộc cách mạng, đúng hay sai thì tuỳ góc nhìn, nhưng không thể phủ nhận Mao Trạch Đông là một người Vĩ Đại.
Sát ấn tương sinh nên theo chính trị hợp cách.
Đây là dạng lá số ẩn hiện, kị thần thấu can, dụng thần tàng chi đó.
Thiên can đổ dồn thuận sinh vào nhật chủ đủ thể hiện bá cách.
Kị ấn mà 2 ấn 2 bên bảo sao lập cách mạng văn hoá đốt sạch sách với vở. Nhưng ông chỉ ghét đọc sách thôi, chứ thông minh lắm. Trụ Giờ là Thương Quan mà.
Bát tự Vua Càn Long:
tân mão - đinh dậu - canh ngọ- bính tý
Tháng dậu, kim vượng thuỷ tướng.
Dậu xung mão, mão bại, can tháng đinh hoả có lộc tại Ngọ. Hỷ nhất giờ Bính Tý, xung ngọ là khử hoả tồn thổ, làm thân nhược trở thành cường, đắc quan sát, đắc tài, là đại phú đại quý.
Bắt đầu từ 24 trở đi vào vận mộc hoả, nắm quyền đến 60 năm, thọ hơn 80 tuổi. Đây là trường hợp điển hình của thân vượng đắc cả tài lẫn quan. Nguyên cục không có điểm yếu. Cũng là nhờ chi giờ.
Thực tế những năm cuối đời bước vào vận kỷ sửu, là thấp thổ, tý sửu hợp hoá thổ sinh kim vượng là phản cục. Có những thất bại, VD như thua quân Tây Sơn của chúng ta đó.
Mệnh đẹp, vận đẹp không làm vua thì là gì. Hihi. Đúng là người có số cả các bác ạ
Nhân đây tôi cũng chia sẻ một chút về cái mà gọi là cùng một tứ trụ, sao vận mệnh khác nhau. Nó cũng liên quan rất nhiều đến mệnh cục.
Đó là sự Lựa Chọn, có thể nói đó là lựa chọn của bản thân ta, hoặc có thể là lựa chọn của tạo hoá cho ta.
Như VD của ông Lý Gia Thành, kị ấn mà quan ấn giáp thân nên ông không có bằng cấp. Nhưng nếu ông có bằng cấp thì sao? Thì cái ấn tinh trong mệnh của ông sẽ càng cường vượng, kị thần sẽ lên ngôi, độ phú quý sẽ giảm đi rất nhiều, có khi chỉ ở cấp làng, xã.
Theo lời kể của ông, năm 16 tuổi cha mất, phải bỏ học để đi làm nuôi mẹ và các em. Vậy đây là trường hợp bắt buộc, hay số phận của ông đã định sẵn cho ông con đường như thế, và theo con đường đó là vương vị 35 tỷ đô la.
đó là cái phúc phần của người hưởng số, như bát tự một người rất thọ, nhưng phúc phần người đó lại chết sớm thì chỉ đến đó thôi. Bát tự ứng 100% dành cho những người có thông tin lục thân, hình dáng, tính cách giống với bát tự 100%, đó là tương tác giữa bát tự và con người.
Lâu lắm diễn đàn mới có bài luận kể từ khi vắng chị KC. Cảm ơn sherly!
Cảm ơn anh ThachMoc. Mời anh và các anh chị khác bàn luận thêm cho vui.
Tất cả vận mệnh con người đã được chú định trong bát tự, không phải ngẫu nhiên mà có được. Bát tự cũng là luật Nhân Quả mà ra, đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
Thực chất, nếu ai nghiên cứu qua bát tự nhiều năm rồi cũng sẽ nhận định như vậy. Mỗi lá số con người khi sinh ra đều ảnh hưởng bởi Thời Không mà ra, cho nên cùng một lá số nhưng người ở phương tây khác người ở phương đông. Trong một làng xã (trong một nhà) cũng vậy, không có chuyện người sinh cùng ngày giờ mà vận mệnh như nhau được.
số cháu với bạn cháu . Chỉ khác nhau mỗi giới tính . có những điểm giống nhau , có những điểm khác nhau !!... Giờ sinh chính xác . cháu vẫn hay chát face với bạn ý :)
Giống nhau : đều xa quê hương từ bé .Học hành đều có bằng cấp cao ,gia đình khá giả,dáng người nhỏ bé ,có bệnh đường ruột,không được đẹp trai hay sinh gái .Cả 2 đều lận đận tình duyên,Thích đọc và nghiên cứu sách vở .
Khác nhau : gia đình 1 người không toàn vẹn .cháu khuyết tật bẩm sinh , hiện tại cháu kinh doanh cùng mẹ ,còn bạn ý vẫn đang tiếp tục học thạc sĩ ở Thái .
Cháu : Càn Tạo : Nhâm Thân - Nhâm Dần - Mậu Dần - Mậu Ngọ .
Bạn ý : Khôn tạo : Nhâm Thân - Nhâm Dần - Mậu Dần - Mậu Ngọ .
cháu xin góp vui ,cho các bác đàm đạo :).
MT.
Bạn nguytran nên mang bát tự sang bên nhờ xem tử bình, sẽ có nhiều người giúp bạn hơn đó.
(Tiếp)
Nhất mộ, nhì phòng, tam bát tự
Người Trung Quốc cực kỳ tin điều này và thực tế chứng minh họ đúng, phong thuỷ âm trạch chiếm một phần rất lớn thành công đời người. Các truyền thuyết từ xưa đến nay của cả người Trung Quốc và Việt Nam đều có một phần kể về phần mộ tổ tiên của các vị vua, vị danh tướng. Như Hàn Tín, như Lưu Bang,...
Trước tiên, xem cung Phúc Đức trong tứ trụ. Cung này là chi năm, phúc hỷ nhất quý nhân lâm, không hình xung khắc hại, được hộ vệ và thanh thuần thì làm gì cũng thuận lợi, tai nào cũng khỏi nạn nào cũng qua. Chi năm là Thái Tuế, không nên xung hình nó, là chủ thể định danh của một năm. Như nói năm Dậu, năm tý chứ không ai nói năm Canh, năm Bính cả.
Qua đây ta thấy bát tự lưu truyền rộng rãi trong nhân gian như thế nào. Như hay truyền tai nhau câu Phúc Đức tại Mẫu, trùng hợp làm sao, chi năm chính là cung Mẹ. Hay người thành đạt thường nhiều con gái, chi giờ chính là cung con gái... Càng đi sâu vào bát tự càng thấy ý nghĩa nhân sinh thật xâu sắc.
Phép định thứ tầng còn xem ở dụng thần. Dụng thần vượng, đắc vị đắc thế, cần thấu thì thấu, cần tàng nên tàng, có hộ vệ nguyên thần đầy đủ thì không phú cũng quý, thứ tầng rất cao.
Ngoài ra còn dùng thêm Nạp Âm.
Như sách đã giới thiệu một trường hợp. Năm giờ thuộc cặp thoát thể hoá thần, siêu phàm nhập thánh thì cũng làm tăng bậc của mệnh cục.
- Cách chọn phối hôn cũng ảnh hưởng rất nhiều đến thành tựu ở đời, chính vì cung phúc đức (là cung quan trọng nhất, là nền móng) là chi năm, thế nên quan niệm dân gian phải tránh xung khắc hình hại là cấm có sai, nói chung nếu có thể chọn, thì nên chọn lục hợp, tam hợp, được sinh.
Nhất mộ, nhì phòng, tam bát tự
Thực tế câu này cũng cần phải xem lại. Muốn lập hướng nhà, muốn lập hướng mộ, tất cả đều phải biết giờ sinh năm tháng bát tự mà ra. Cũng là một hướng mộ nhưng người trong cùng một nhà không phải ai cũng đều giàu có. Cũng cùng hướng tốt đến một chỗ phong thủy tốt nhất, nhưng không phải ai cũng giàu có, ai cũng làm quan, đây là thực tế.
Muốn có một bát tự tốt, thì đời cha ông phải có tu dưỡng tích đức hành thiện, nó thể hiện ngay ở cung trụ năm.
Còn nói chi năm là mẹ theo tôi là không đúng, năm là cung tổ tiên, cung phúc đức, là nơi di truyền gen của thế hệ cha ông để lại. Cung tháng mới là cung cha mẹ, anh chị em, can ngày là bản thân, chi ngày là cung phối ngẫu, trụ năm là cung con cháu, thế hệ sau và cũng là cuộc đời về sau của bát tự.
Trong một cung vị, bất kể trụ nào, đều có sự phối hợp giữa can và chi. Người xưa nói chi là Thái Tuế, là quyết định năm hạn, nhưng theo tôi cũng chưa hẳn như vậy. Bởi vì pháp xưa lập trụ can chi đều có nguyên nhân của nó, trời chiếu đất, đất tải vật, đó là nguyên lý muôn đời. Sự tương tác giữa can và chi luôn gắn bó với nhau, thiếu một thì không thể hình thành Thiên Địa Nhân được.
Manh nhân chia cung vị rất rõ ràng, nó thể hiện niên hạn, đồng thời cũng dùng để phân biệt tính Nhân Quả trong bát tự. Năm, tháng là Nhân, ngày giờ là Quả; tứ trụ là Nhân, tuế vận là Quả. Can là khí, Chi là hình; khí theo hình, hình tải vật. Can bên ngoài, Chi bên trong; tàng can trong chi là Nhân nguyên, là nguồn gốc luận sự vật. Cho nên Can thì đơn giản còn Chi thì phức tạp giống như sự vật vậy.
Ở Manh nhân khi đoán âm trạch mộ phần là để nói lên gen di truyền từ đời cha ông để lại, xem mộ phần tốt xấu là xem trụ năm. Xem Dương trạch thì xem trụ tháng, bởi vì nó là môn hộ. Rất nhiều điều để nói ở trong bát tự, nó thể hiện toàn bộ nhân sinh cuộc đời khi người đó sinh ra, ứng với Thời không nơi sinh ra bản thân đều tụ về trong bát tự. Có Tiên thiên bát tự rất tốt, nhưng tuế vận lại không ủng hộ, gọi là mệnh không gặp thời. Có bát tự Tiên thiên không quá tốt, nhưng có tuế vận ủng hộ mà thăng thiên, gọi là mệnh gặp thời.
Cùng một bát tự, nhưng khi sinh ra ở hai nhà khác nhau, hoặc ở trong cùng một nhà, nhưng vận mệnh khác nhau. Vì sao? Bởi vì người sinh đôi khi ở cùng cha mẹ thì còn ảnh hưởng nhưng khi lập nghiệp ra ngoài thì không còn ảnh hưởng trường khí ở đó nữa, thì vận mệnh cũng sẽ khác nhau. Vậy thì mộ phần phong thủy có tốt, nhưng vì sao hai người sinh đôi ấy lại không cùng làm vua, không cùng giàu có? Trái lại một trong hai người, thường là trái ngược nhau.
Cho nên câu trên người xưa nói cần phải xem lại! Những điều tôi nói ở trên, chúng ta còn phải nghiên cứu thực tiễn nhiều thêm mới đoán định. Không nhất thiết tất cả đều phải rập khuôn máy móc.
bác sherly này chắc truyền nhân của Shirley Dương và Hồ Bát Nhất, do hay "đổ đấu" nên am hiểu mệnh lý ghê kk. Em đùa tí :)). Thấy bác nói cùng (gần như) 1 tứ trụ nhưng khác nhau do Lựa Chọn em thấy cũng khá đúng :)
Luận thứ tầng bát tự đầu tiên vẫn là xem cách cục, thứ đến là xem khí số, khí thế (trong đó phép khí số được ưu tiên hơn bởi những điểm mạnh, yếu phát huy ra được đều xem ở thiên can thấu lộ), cuối cùng mệnh bình dân bá tánh (hay gọi là tạp mệnh) chủ yếu là đoán tượng. Tất nhiên thành hay bại còn phải xem ở tuế vận.
Bát tự có nhiều chỗ ảo diệu nhưng không thể bao trùm hết cuộc đời của mỗi con người: sự kiện xảy ra, mâu thuẫn nội tại, môi trường phát triển...; số mệnh có thể thay đổi bởi sự vận động chính bản thân con người đó, hay rõ ràng hơn là tính cách con người, nó quyết định bạn sẽ lựa chọn ai hay muốn cái gì. Tính cách được hình thành khi con người ta sinh ra và lớn lên nhưng không chỉ bởi tự nhiên (Tiên thiên) mà có, nó còn chịu ảnh hưởng nhiều từ nền giáo dục và tác động của yếu tố môi trường (Hậu thiên). Sự vượt qua bản thân, vượt qua sự lôi kéo của hoàn cảnh không phải chuyện dễ dàng do vậy mới đề cập đến hai từ "số mệnh", còn nếu đã vượt qua thì đó là sự tu dưỡng, xa hơn là sự tu luyện. Và đã bước đến sự tu luyện (hay còn gọi là hiểu Đạo) thì không còn muốn nhìn cuộc sống qua lăng kính bát tự nữa mà chỉ chú trọng đến bản thân, làm sao đi từ Hậu thiên để trở lại Tiên thiên.
Giống nhau : đều xa quê hương từ bé .Học hành đều có bằng cấp cao ,gia đình khá giả,dáng người nhỏ bé ,có bệnh đường ruột,không được đẹp trai hay sinh gái .Cả 2 đều lận đận tình duyên,Thích đọc và nghiên cứu sách vở .
Khác nhau : gia đình 1 người không toàn vẹn .cháu khuyết tật bẩm sinh , hiện tại cháu kinh doanh cùng mẹ ,còn bạn ý vẫn đang tiếp tục học thạc sĩ ở Thái .
Cháu : Càn Tạo : Nhâm Thân - Nhâm Dần - Mậu Dần - Mậu Ngọ .
Bạn ý : Khôn tạo : Nhâm Thân - Nhâm Dần - Mậu Dần - Mậu Ngọ .
@nguytran: Lá số nam nữ khác nhau thì thấy rõ ràng, bởi vì đại vận nam nữ đã khác nhau rồi; nếu cùng là nam, hoặc cùng là nữ thì mới khó luận.
số cháu với bạn cháu . Chỉ khác nhau mỗi giới tính . có những điểm giống nhau , có những điểm khác nhau !!... Giờ sinh chính xác . cháu vẫn hay chát face với bạn ý :)
Giống nhau : đều xa quê hương từ bé .Học hành đều có bằng cấp cao ,gia đình khá giả,dáng người nhỏ bé ,có bệnh đường ruột,không được đẹp trai hay sinh gái .Cả 2 đều lận đận tình duyên,Thích đọc và nghiên cứu sách vở .
Khác nhau : gia đình 1 người không toàn vẹn .cháu khuyết tật bẩm sinh , hiện tại cháu kinh doanh cùng mẹ ,còn bạn ý vẫn đang tiếp tục học thạc sĩ ở Thái .
Cháu : Càn Tạo : Nhâm Thân - Nhâm Dần - Mậu Dần - Mậu Ngọ .
Bạn ý : Khôn tạo : Nhâm Thân - Nhâm Dần - Mậu Dần - Mậu Ngọ .
cháu xin góp vui ,cho các bác đàm đạo :).
MT.
Bạn nguytran cho mình hỏi số lượng anh em của bạn và bạn kia có giống nhau không?:^d:^d
- kị thần bị chế cũng là một phương pháp xem thứ tầng của mệnh cục. Manh phái đã thể hiện rất rõ điều này.
Ngũ ngôn độc bộ nói:
hữu bệnh phương vi quý
Vô thương bất thị kỳ
Cách trung nhược khử bệnh
Tài lộc lưỡng tương tuỳ
Bát tự phải có bệnh và được chữa thì mới quý, không có thì chỉ là người bình thường.
Vd mệnh aristotle onassis:
Ất tị - kỷ sửu - kỷ mùi - canh ngọ.
Nguyên cục khí thế tòng thổ, hỷ nhất giờ Canh ngọ, tị ngọ mùi hội hoả, Canh kim hợp ất mộc là kị thần của mệnh. Dụng hoả thổ kim. Đây là cách có bệnh được thuốc, và thuốc nằm ngay trụ giờ. Chỉ cần không vào vận thuỷ mộc liền phát phú quý và điều này đã đúng trong thực tế. Ông ta chết vào năm Ất Mão.
Mệnh này còn có một ảo diệu khác.
Tị Sửu củng Kim, Ngọ Mùi củng hoả. Hoả kim tương chiến mộc gặp Tai Ương, thêm ngọ mùi hợp bế mộc khố, canh thấu hợp chặt ất. Thế nên đây là mệnh mà kị thần 3 lần gặp chế, đẳng cấp rất cao.
Bát tự Bạc Nhất Ba:
Mậu Thân - Giáp Dần - Tân Mão - Quý Tị
Ất mão/ bính thìn / đinh tị/mậu ngọ / kỷ mùi / canh thân / tân dậu
Nhật can Tân kim sinh tháng Dần là tử Địa, tự toạ Mão mộc. Khí thế mộc cường vượng, nhật can Tân kim ý muốn tòng theo thế mộc. Hỷ giờ Tị hoả, hình thành tam hình dần - tị - thân, mộc hoả cường vượng kim bị khử. Cách cục chuyển thanh, kị thần bị chế thành cách tòng tài.
Đây không phải là thái nhược có căn mà ý hướng thiên nhược. Nguyên do tam trụ năm tháng ngày đã có sẵn dần thân tương xung, là ý muốn khử Thân kim.
Tòng tài cách, hỷ thuỷ, mộc, hoả. Tất cả đều nằm ở trụ giờ. Tị hoả hợp chế thân kim, quý thuỷ hợp chế Mậu thổ nhàn thần.
Tuy nhiên, đây là tượng giả tòng, thế nên sẽ có thay đổi rất lớn nếu lưu niên tuế vận đặc biệt tiến nhập mệnh cục.
Mệnh mark zuckerberg:
Giáp tý - kỷ tị - mậu thân - bính thìn
Nguyên cục mậu sinh tháng tị, là đắc lộc thấu kỷ bính, thân vượng. Hỷ nhất giờ thìn.
Nguyên lai:
Thìn là thấp thổ, khử hao táo khí mùa hè.
Thân tý thìn hợp tài cục,
"Tứ trụ không có tài mà ám hợp thành tài cục là mệnh giàu có"
Thân vượng mà có tiết có hao.
Có tài cục, có sát hợp nhận, có thân mượn thế thuỷ hình tị hoả. Thân vượng tự cân bằng.
Là dương nam hành vận đất kim thuỷ, giàu đến già.
Khởi phát từ đầu vận nhâm quý (là điều kiện tiên quyết để ám hợp tài cục thành).
Sự lựa chọn của tạo hoá: thân vượng mà bính hoả ấn tinh kề sát thân là không có bằng cấp. Tứ trụ quả là không sai đến 1 ly. Tạo hoá đã không cho anh ta có bằng cấp, mà thay vào đó đứng vào hàng ngũ ông chủ của những ông chủ. Giàu có số cả rồi.
Năm nay mậu Tuất, đại vận nhâm thân. Thìn thân hợp tiến nhập mệnh cục. Tuất xung thìn với khí thế của kim, với nhâm thuỷ đại vận thấu xuất dẫn khố, mộ thuỷ mở. Khí quý thuỷ hữu dụng, can mậu lưu niên hợp quý, là tỷ kiếp đoạt tài. Vì thế năm nay phá tài là phải. Thực tế là đã mất cả chục tỷ dollar vốn hoá vì bê bối lộ thông tin người dùng.
Trong các loại hình, dần tị thân là hình Vô Ơn. Ở đây thân kim hình tị hoả, tị hoả là ấn tinh của nhật chủ, biểu hiện của trưởng bối, người giúp đỡ... Thế nên nhiều bạn bè anh ta thời mới khởi nghiệp đã không tiếc lời nói anh ta là kẻ lợi dụng, ăn cháo đá bát. Sau khi thành công rồi thì phủi tay tất cả công lao của những người khác, một mình chiếm hưởng. Đó là tâm tính của hình trong tứ trụ này.
Phép khí số:
Mậu thổ sinh tháng tị là đất kiến lộc. Vì thế chính nó là trạng thái cương kiện nhất. Lấy mậu xét khí số.
Mậu thổ tháng 4 không rời Giáp Bính Quý. Giáp thấu, Bính thấu. Quý là Tý, lại gặp tam hợp thuỷ cục. Khí số là kiện toàn.
Mệnh đắc cả khí số lẫn có khí thế, tầng lớp mệnh cục là hết sức cao.
Giờ sinh cát, thiên can là kị, địa chi là hỷ, là cái lý ẩn hiện hữu dụng.
P/s: nhiều diễn đàn cho rằng giờ sinh là kỷ mùi. Tôi khẳng định, tất cả những vĩ nhân, doanh nhân có một sự nghiệp để đời như thế này, phải là sinh phùng thời, tức trụ giờ phải đắc dụng.
Với trụ giờ không đắc dụng, thì cũng có một thời gian phát, tuy nhiên không lớn, chụp giật, dùng thủ đoạn, và cái kết thường không có hậu như phá sản, tù tội hoặc bệnh yểu.
Luận thử bát tự anh Mark theo Manh phái:
Càn : giáp tý - kỷ tị - mậu thân - bính thìn
Tài nhiều sát ít, giáp tý là một nhà, tượng tài sát tương liên. Lấy sát thống tài xem, sát là tài rồi. Sát là tài thì tài phú hết sức cao. Giáp kỷ hợp là tài bị chế rồi, kỷ toạ tị, tị hợp thân kim nhật trụ, là có liên quan đến mình. Nhật chủ đắc tài lợi lớn.
Còn một đại tượng khác.
Hoả thổ thành thế, muốn dồn kim thuỷ. Tị thân hợp là Kim bị chế rồi, thìn tý hợp cũng là chế, tuy nhiên chế không hết. Chế tài cùng tài nguyên thần là phát đại tài.
Vận đi đất kim thuỷ, là bộ thần gặp tặc thần, đại cát.
Lâu lâu có hứng với manh phái, mấy bác thấy sao? Hihi
Các tác phẩm manh phái của ông Đoàn Kiến Nghiệp thực ra cũng không ngoài truyền thống.
Như bộ thần, tặc thần thì cũng là một dạng của bệnh, dược.
Như tặc thần tàng chi, chế không hết thì vận hỷ thấu ra can.
Như tặc thần thấu can, chế không hết thì vận hỷ bộ thần thấu can.
Các phương pháp luận của Manh Phái hết sức đáng tham khảo.
tuy nhiên cái phần quan trọng nhất là tượng pháp thì giấu nhẹm hoặc ám ngữ, thi thoảng mới thấy dùng. Vì thế nếu không là đệ tử ruột chân truyền thì không thể xem được vận hạn xảy ra chuyện gì, chỉ đoán chung chung được thôi. Còn lại là do kinh nghiệm của người đoán.
Với lại manh phái cũng có nhiều nhánh, với tôi thì thích manh phái của bành lão nhân gia, vì đó là tử bình vượng suy nâng cao, tiết lộ một số kỹ pháp của tử bình.
Trong quyển sách "Mệnh lý Trân bảo" của ĐKN viết nói rất rõ về khái niệm "Bộ thần", "Tặc thần", tố công như thế nào.
Về phần tượng pháp của ĐKN viết ở trong sách "Thực chiến Tượng pháp can chi nghề nghiệp" cũng nói qua rất hay, đáng giá trị tham khảo. Nhưng chủ yếu vẫn là kỹ xảo vận dụng Tượng của anh ta, khi luận tổ hợp tượng pháp nó biến đổi vô song, nhưng anh ta nắm rất vững.
Bành Khang Dân tiền bối truyền khẩu cho Thái Tích Quỳnh tiên sinh viết ra sách để lại cho hậu nhân, nhất là tượng nạp âm luận số anh chị em, song thai, thai đầu là nam hay nữ. Kĩ xảo luận rất tốt, nhưng các phái Manh phái khác cũng không thua kém gì. Cứ mỗi môn phái ta học một ít sẽ góp nhặt tinh hoa rất nhiều, và nó dùng để bổ sung cho nhau rất tốt.
Có phương pháp nào luận cách cục cao thấp để biết người này ước lượng có bao nhiêu tài sản không?:^d
Có phương pháp nào luận cách cục cao thấp để biết người này ước lượng có bao nhiêu tài sản không?:^d
Cùng câu hỏi với bác này vì em cũng đang rất mê tiền hehehe.
Theo em thấy khái niệm thế nào là giàu có khá mơ hồ nếu không định lượng được.
Ví như ở nước mình tài sản tầm chục tỷ thì xem là khá giàu rồi, nhưng ở những nước Tây Phương thì người bình thường làm ngót nghét vài chục năm ai cũng có.
Có phương pháp nào luận cách cục cao thấp để biết người này ước lượng có bao nhiêu tài sản không?:^d
Điều này khẳng định là có, trong TTT có luận "Tài khí thông môn hộ", còn con số thì Manh phái luận rất hay, họ lấy số cung vị Hà đồ luận con số, lấy Lạc Thư luận phương hướng. Tùy theo Tài tinh vượng hay suy mà luận số lớn, số nhỏ. Chẳng qua chúng ta chưa trải nghiệm qua cho nên chưa nói lên con số này đúng hay sai mà thôi.
Số lượng thì không ai đoán được. còn tầng lớp dĩ nhiên là đoán được, đại phú quý, tiểu phú quý, không phú không quý...
Nhân anh lesoi có nhắc đến tài khí thông môn hộ. Tôi xin trích lại:
Sao biết người giàu? Tài khí thông môn hộ.
Nguyên chú : Tài vượng thân cường, Quan tinh hộ Tài, kỵ Ấn mà Tài có thể phá Ấn, hỉ Ấn mà Tài có thể sinh Quan, Thương quan trọng mặt Tài thần lưu thông, Tài thần trọng mà Thương quan có hạn, không có Tài mà ám thành Tài cục, Tài lộ mà Thương quan cũng lộ, chỗ này đều là Tài khí thông môn hộ, cho nên giàu vậy. Nói phép luận Tài và luận thê, có thể tương thông vậy, nhưng có vợ hiền mà tài suy, cũng có tài phú mà có hại vợ, xem hình xung hội hợp. Nếu Tài thần thanh mà thân vượng thì vợ đẹp, Tài thần trọc mà thân vượng là nhà giàu.
Câu nào khó hiểu tôi xin đưa ra chủ kiến:
1. Thương quan trọng mà tài thần lưu thông. Có 2 ý hiểu
- tòng nhi cách, nhi hỷ thấy nhi tức có tài tinh.
- thương quan trọng dễ khắc quan, có tài tinh thông quan.
2. Tài thần trọng mà thương quan có hạn: tránh thân nhược tài vượng.
3. Không có tài mà ám hợp tài cục: tứ trụ không có tài thấu mà có tam hợp, tam hội, bán hợp tài tinh. Đến vận thấu tài (là điều kiện của hợp hoá) thì phát tài. Là điển hình của mệnh mark zuckerberg, dĩ nhiên yêu cầu thân cường, tài là dụng thần.
4. tài lộ mà thương quan cũng lộ, thương quan sinh tài cách.
Tài thần thanh, trọc. Theo ý hiểu của tôi, thanh có nghĩa là lợi khí. Ví dụ thân nhược, có sát mà tài lại sinh sát thì là trọc, thân vượng tài sinh sát lại là thanh.
Thương quan kiến quan có tài thì tài thanh, thực thần chế sát có tài thì tài trọc.
https://i.imgur.com/zRR6JUr.png
bác Sherly , cháu mới mày mò tìm hiểu tử bình. Nhưng đọc phần Quan -Sát hỗn tạp có tài sinh nữa thì xấu lắm phải không ạ. Mong bác chỉ dẫn về bác tự của cháu ạ
Uchiha Itachi lừng lẫy cũng đi coi số hử : ))) Just 4 fun!
https://i.imgur.com/zRR6JUr.png
bác Sherly , cháu mới mày mò tìm hiểu tử bình. Nhưng đọc phần Quan -Sát hỗn tạp có tài sinh nữa thì xấu lắm phải không ạ. Mong bác chỉ dẫn về bác tự của cháu ạ
theo Gemini thì mệnh Itachi rất khác của Gemini vì Năm-Tháng-Ngày 3 trụ là thể, trụ ngày là dụng thì dù thể giống nhau nhưng công năng Nhâm Thìn và Quý Tỵ đã rất khác nhau rồi.
Bính ưa dụng Nhâm, Nhâm toa thìn -khố thủy, Thìn một mặt là thấp thổ có thể sinh kim, mặc khác giup quan-sát có căn nên dụng thần sẽ có lực. Itachi dụng được Nhâm-Canh-Quý vào đại vận hoặc lưu niên thì có thể mọi việc thuận lợi-tốt đẹp hơn ?
Càn tạo: Vio bên lyso.vn 14/7/1972 DL giờ thìn
Nhâm Tý - Đinh Mùi - Bính Ngọ - Nhâm Thìn
Tháng 7 năm 1980 khởi vận
1980-Mậu Thân // 1990-Kỷ Dậu // 2000-Canh Tuất // 2010-Tân Hợi // 2020-Nhâm Tý
Năm 1996 : Được vào làm một công ty của Úc lương tốt
Năm 1997 lấy vợ, năm 1999 sinh cháu đầu trai. năm 2003 sinh cháu trai tiếp theo.
Năm 1998-1999: làm giám đốc KD, kiếm được nhiều tiền (so với sinh viên chân đất ra trường)
Năm 2000: mua nhà Hà Nội và chuyển về Hà Nội, sang một cty khác làm giám đốc kinh doanh.
Cuối năm 2003 ra ngoài làm riêng
Năm 2004: cty phá sản và mất khoảng 700 cây
Năm 2005-2006: đi học cao học
Năm 2007: về làm Giám đốc 1 cty sx thép.
Năm 2007-2008: kiếm được nhiều tiền.
Năm 2009: làm tổng GĐ thuê cho 1 tập đoàn. Năm này thành lập cty hiện đang vận hành, nhưng để anh em đứng tên.
Năm 2011 ra hẳn ngoài và làm việc đến nay.
Năm 2014: dính vụ nợ ngần 100 tỷ.
Năm 2016 bị cháy Vp.
Năm nay 2017 thấy thuận lợi.
Tại sao năm 2004 Giáp Thân đại vận Canh Tuất bị phá sản, đâu là nguyên nhân? :^d:^d
Góp ý:
@Gemini:
theo Gemini thì mệnh Itachi rất khác của Gemini vì Năm-Tháng-Ngày 3 trụ là thể, trụ ngày là dụng thì dù thể giống nhau nhưng công năng Nhâm Thìn và Quý Tỵ đã rất khác nhau rồi.
Gemini xem lại, nếu luận Thể Dụng thì không phải như vậy. Thể Dụng, Chủ Khách thì abn5 nên xem cách luận của ĐKN, anh ta giải thích chỗ này là đúng, ở các thuật đoán mệnh như Mai Hoa dịch số, Kỳ Môn, Lục Nhâm đều có nói:
Chủ
Khách
Nhật chủ
Can chi khác
Trụ ngày
Trụ năm, tháng, giờ
Trụ ngày, giờ
Trụ năm, tháng
Bát tự tứ trụ
Đại vận và Lưu niên
Thể là cái gì? Thể là bản thân của ta cùng công cụ của ta sử dụng, hoặc là nói công cụ của ta thao túng, giống như lúc bạn làm việc nói chung là phải nắm công cụ mới làm, ví dụ như nhật chủ, Ấn, Lộc đều là Thể.
Như vậy là Dụng cái gì? Dụng là mục đích của ta, là truy cầu của ta, cũng chính là ta phải có vật dùng, ví dụ như Tài, Quan là Dụng, là vật mà chúng ta truy cầu.
Càn tạo: Vio bên lyso.vn 14/7/1972 DL giờ thìn
Nhâm Tý - Đinh Mùi - Bính Ngọ - Nhâm Thìn
Tháng 7 năm 1980 khởi vận
1980-Mậu Thân // 1990-Kỷ Dậu // 2000-Canh Tuất // 2010-Tân Hợi // 2020-Nhâm Tý
Năm 1996 : Được vào làm một công ty của Úc lương tốt
Năm 1997 lấy vợ, năm 1999 sinh cháu đầu trai. năm 2003 sinh cháu trai tiếp theo.
Năm 1998-1999: làm giám đốc KD, kiếm được nhiều tiền (so với sinh viên chân đất ra trường)
Năm 2000: mua nhà Hà Nội và chuyển về Hà Nội, sang một cty khác làm giám đốc kinh doanh.
Cuối năm 2003 ra ngoài làm riêng
Năm 2004: cty phá sản và mất khoảng 700 cây
Năm 2005-2006: đi học cao học
Năm 2007: về làm Giám đốc 1 cty sx thép.
Năm 2007-2008: kiếm được nhiều tiền.
Năm 2009: làm tổng GĐ thuê cho 1 tập đoàn. Năm này thành lập cty hiện đang vận hành, nhưng để anh em đứng tên.
Năm 2011 ra hẳn ngoài và làm việc đến nay.
Năm 2014: dính vụ nợ ngần 100 tỷ.
Năm 2016 bị cháy Vp.
Năm nay 2017 thấy thuận lợi.
Tại sao năm 2004 Giáp Thân đại vận Canh Tuất bị phá sản, đâu là nguyên nhân? :^d:^d
Theo bạn, vì sao như vậy? Tôi thấy bạn có vẻ giống một người trước đây tôi có gặp qua, hỏi xong thì cười :^d!
Theo tôi biết anh chàng Vio ở bên lýo.vn cũng là cao thủ mà mọi người ở bên ấy coi anh ta như thần tượng.
Tạo này dụng hỏa thổ - Đinh Mùi Bính Ngọ
Kị thần - Nhâm Tý Nhâm Thìn
Nghành nghề của tạo này là kinh doanh thép kim loại.
Lúc đầu mình nghĩ tạo này dụng kim : Hỏa thổ cùng thủy tương chiến dùng kim
thông quan Hỏa Thổ Kim Thủy. Nhưng kim không phải là dụng hỉ là nhàn thần.
Cách cục cao thấp
Tạo này thân không vượng cũng không nhược, chi thìn có công năng thu hỏa khí
mạnh, tý thủy lại trợ lực, mộc khuyết làm hỏa không có nguồn chiều hướng hỏa đang
thoái khí. Nên cần mộc hỏa trợ thân.
Ngọ hợp mùi hại tí phá kị thần, riêng thìn là không có chế cũng không phá dụng chỉ
làm thể nhật chủ thoái khí hỏa. Đinh và nhâm hợp trói khiến cho kị thần mất ý hướng
không khắc thể Bính.
Dụng và thể của tạo này tốt, thần dụng sự đắc dụng, nên tạo này cách cục khá cao.
Hành vận kị thần Tân Hợi mà vẫn phát tài dụng thần của tạo này rất tốt.
Năm Giáp Thân vận Canh Tuất vì sao phá sản
Ý tưởng Động và tĩnh mời mọi người nghiên cứu:
Lưu niên Giáp Thân là động cũng là dẫn động
Thân Tý Thìn hội tam hợp thủy vượng là tĩnh
Thân dẫn động Tý và Thìn động
Thân dẫn động Canh
1- Thân dẫn động Canh chuyển hướng khắc Giáp ( Canh - Giáp - Thân) mộc tổn
thương vì kim và mộc đều động khắc nhau
2-Thìn động hối hỏa sinh Thân kim, chuyển hướng Canh Nhâm tương sinh, kim sinh
thủy, thủy vượng lại được kim sinh lực tăng mạnh. (Canh Tuất, Tuất gặp thủy vượng
tuất bị nhuận thổ sinh kim, tuất vốn phá thìn nhưng năm này chuyển hướng Thìn phá
Tuất)
Kết luận hỏa bị thìn tiết khí mạnh (Nhâm Thìn là thủy thâm nhập vào thìn khố, thìn
xung tuất khai khố thủy kị thần phát tán) Thân dẫn động Tý xung Ngọ, may là chữ
Ngọ không động chỉ động 1 chiều nên không hung họa lớn)
Năm Mậu Tí vận Canh Tuất mất mẹ mà vẫn phát tài.
Lưu niên Mậu Tí động và dẫn động
Mậu tương liên Tuất - Mậu Nhâm khắc thủy, Mậu Tí mậu khắc thủy
Tý khả dẫn động Nhâm (lực khác tính yếu, lực đồng tính mạnh hơn)
Tý xung động Ngọ, Ngọ động
Tý bán hợp dẫn động thìn
Năm này tuất động mạnh, năm giáp thân tuất không động
Năm này cho thấy thổ động khắc thủy mạnh mẽ nên tài vận rất tốt. Năm này Tuất
phá Thìn khố xung khai khố hỏa.
Còn vì sao mẹ mất, vì mùi là tinh của mẹ cũng là cung vị phụ mẫu.
Tuất hình Mùi, Tí hại Mùi chủ yếu là cung vị bị phá.
Luận cách cục cao thấp của mình chỉ phân tích :Thể (nhật can) , Dụng (dụng thần) và
Thần dụng sự nguyệt lệnh)
Luận lưu niên thì dùng Động Tĩnh.
Các bạn nghiên cứu động tĩnh của lưu niên sẽ thấy được chữ nào trong bát tự bị tổn thương như vậy rất dễ dàng nghiên cứu không bị ngộ nhận, lầm lẫn giữa kị và dụng. Nhiều bạn không hiểu được sự tác động của bát tự nên không phân biệt được dụng kị của tầng năm rồi cho cho là dụng thần biến hóa.
Càn : nhâm tý - đinh mùi - bính ngọ - nhâm thìn
Ngọ mùi cùng nam phương hoả địa, thân bính hoả vượng. Hỷ giờ Thìn, khử hao táo khí tháng 6, bồi căn cho Nhâm Thuỷ.
Bính ở đất mùi có khí. Lấy bính xét khí số. Bính hoả tứ quý giai hỷ Nhâm. Vậy khí số là kiện toàn.
Thân vượng, dụng Thổ kim.
Vận thuận : mậu thân/kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi.
Tuy nhiên sắp tới vào vận Nhâm tý rất nguy hiểm. Tý thìn hợp nhập mệnh cục, thuỷ thế càn rỡ xung ngọ nhận, hại mùi. Nguyên cục bị đảo lộn, vận này có rất nhiều điều để nói.
Và tôi không cho rằng có tồn tại một mệnh cục mà Không Vượng cũng không nhược. Mệnh này ở trạng thái là Thiên Vượng.
Còn để luận về lục thân mất, trừ khi chết trẻ. Còn thường lý luận người già thì chết, như một số nhánh phái tử vi có Trung Châu Phái của ông Vương Đình Chi không luận hạn chết với người già.
Trước đây tôi có đọc một bài dịch, là 36 vượng suy đồ của Tôn Hải Nghĩa.
Trong đó có 1 dạng:
Căn nhật chủ xuất hiện ở nhật chi, gặp tả hữu 2 bên tiết, lấy tòng cách luận mệnh, nếu bản khí thấu xuất lấy giả tòng cách.
Vậy lá số này thuộc cách giả tòng nhi. Giả tòng nhi kị thuỷ, dụng hoả - thổ - kim. Đây cũng là một hướng để suy nghĩ.
Bạn Thanhien cho rằng:
Tạo này dụng hỏa thổ - Đinh Mùi Bính Ngọ
Kị thần - Nhâm Tý Nhâm Thìn
Còn bạn Sherly cho rằng:
Vậy lá số này thuộc cách giả tòng nhi. Giả tòng nhi kị thuỷ, dụng hoả - thổ - kim.
Mệnh này: nhật nguyên Bính Ngọ, lâm tháng Mùi, sau tiết Tiểu thử 7 ngày Đinh hỏa nắm lệnh lại thấu can, hỏa cực vượng. May mắn có thủy điều hậu. Nhưng tiếc là mệnh cục Canh Tân kim không có.
Các bạn lại luận trái nghịch chiều với nhau.
Thấy rất rõ ở các vận Canh Tân kim thấu ra, Tài tinh đắc lực cho nên mới có kinh doanh thuận lợi. Nhưng các bạn biết là đại vận 10 năm, chia ra can quản 5 năm, chi quản 5 năm nên mới có nhấp nhô như vậy.
Nhưng các bạn lại luận khác chiều!
Còn các bạn khác luận như thế nào?
Vậy so với tạo của Gemini, tạo của Itachi. Thì Tạo của Itachi vận trình đi từ đông lên bắc sang tây thì, nhập vận Canh Dần, Kỷ Sửu, Mậu Tý càng thuận lợi. Đại vận Canh Dần tăng thế ở chi Dần, dụng thần Nhâm-Quý có hỷ Thần Canh-Tân sẽ thuận cho việc kinh doanh không anh Lesoi ? . Theo Gemini tạo của anh Vio Dinh hoả thấu thì hoả thế mạnh hơn của Gemini và Itachi.
Không phải là tôi cho là thế anh lesoi à. Mà đó là một cách nhìn khác về vượng suy. Cái này có trong sách Mệnh Lý Quá Tam Quan của Tôn Hải Nghĩa, chắc anh đã dịch.
Còn mệnh này thì dụng kim, thổ thậm chí là thuỷ. Nhưng chỉ quý và hợi thuỷ. Nhâm và tý không dùng được. Hoả ở đây là trạng thái đắc vị, thể hiện vợ có lực, giỏi giang mặc dù là ngày âm dương lệch - dương nhận, vì ngọ hợp mùi giải tý mùi hại. Bính hoả sợ thổ dày tiết khí, mình ngọ hoả cán đán công việc gồng gánh vừa giải hại, vừa trợ hoả. Đây là cái thuyết gần xa, chủ khách.
Như ở đây Nhâm trụ năm là đắc dụng, nhưng Nhâm trụ giờ không thế, vào vận thuỷ vượng không có chế hoá là khắc Bính ngay. Ngay sau quẻ Ký Tế là quẻ Vị Tế, không đơn giản. Thế mới nói, phép ẩn hiện, kị thần thiên can thì thích, kị thần tàng chi thì mệt.
Xem con cái, tôi chỉ biết cách của ông Thiệu Vỹ hoa.
Can giờ khắc can ngày thì là con trai.
Can giờ khắc can ngày thì là con trai.
Câu này chưa hẳn là vậy đâu Sherly. Nó phụ thuộc rất nhiều yếu tố, mệnh nam mệnh nữ, nhật can âm dương, ... sau này tôi sẽ post lên hết ở trong sách "Mệnh lý Manh phái bí điển", và đặc biệt là học trò của Manh sư Hạ Trọng Kỳ, nữ sĩ Hình Tú Phân luận rất hay. Tha hồ các bạn chứng nghiệm trong thực tế.
Gần đây nghiên cứu về nguyên lưu tôi bị chững lại, bị cản trở bởi nhiều thuật ngữ. Như khí thế trong tứ trụ không dễ nhận ra, trừ khi nó là đặc thù như tòng vượng, tòng nhược, lưỡng khí thành tượng.
Nguyên lưu cũng là một phép xem khí thế. Và nguyên lưu sâu dày là một trạng thái vô cùng tốt.
Như chương Luận Tiểu Nhi - TTT
Luận Tài luận Sát luận Tinh Thần
Tứ trụ bình hoà dễ nuôi dưỡng
Khí thế đi dài không đoạt mất
Vận hành cửa Sát chẳng hại thân
Suy rộng ra thì tứ trụ có nguyên lưu dày, nói theo cách cục thì có hộ vệ khắp nơi, là mệnh cực tốt, cuộc đời luôn gặp thuận lợi, kể cả vào vận xấu cũng không bị tuyệt đường.
Xem khí thế phải xem ý hướng của ngũ hành vượng nhất. Thuận ý là tốt, nghịch ý là hung.
Nếu không thuộc các cách tòng khí, tòng thế thì cần xem đường đi (dòng chảy) và tụ khí. Đặc biệt không được có hình xung khí tán, dễ bị khuyết tật.
Phép khí số chỉ dùng khi tứ trụ không có khí thế, tức có nguyên lưu quá ngắn, đường đi bị phá (do khuyết ngũ hành, xung khắc xa cách...) hoặc nơi tụ khí bị hình xung khí tán.
Phép này thì đặc điểm chung là tìm ra ý hướng của nhật can. Như Bính hoả thích Nhâm thuỷ, không cần phải hình tượng hoá mặt trời (bính) với sông hồ (Nhâm thuỷ) thì ta hiểu ngay là Bính hoả thích Sát (thiên quan). Đây có lẽ là tinh tuý mà tiền nhân đúc kết từ cách cục kết hợp ngũ hành mà ra. Ta hay nghe nói cùng một cách chính quan, nhưng chính quan mộc khác thuỷ, hoả khác thổ... Hoặc như Canh kim hỷ Đinh hoả có nghĩa Canh kim thích Quan tinh. Vậy người Bính hoả thích làm quản lý tiên phong những lĩnh vực mới lạ, tự do (Sát) còn tâm tính người Canh kim thì lại phù hợp với lĩnh vực mang tính truyền thống, quy củ nhiều hơn (quan tinh).
Như Steve jobs nhật can Bính hoả, một tay thay đổi nền công nghệ.
Như Lý Gia Thành, nhật can Canh kim, đi theo những ngành nghề truyền thống (không mới) như cảng biển, BĐS, bệnh viện.. Và mức độ thành công thế nào thì tôi không cần nói thêm.
Hầu hết những người thành công bát tự đều có khí thế, như Donald trump là hoá thổ tòng vượng cách, như lý gia thành khí thế thổ nhiều vùi kim, như Mao trạch đông là khí thế nguyên lưu sâu dày... Còn bát tự ngũ hành bình hoà, khí thế không có, khí số cũng không hoàn mỹ thì chỉ là người bình thường. Nhưng bù lại, người mang bát tự có khí thế thành công lớn thì trả giá cũng lớn, Mao Trạch Đông khắc hết người nọ đến người kia, vạn lý trường chinh gian khổ mới thành đại nghiệp, donald Trump phá sản đến 4 lần mới có vị thế, nổi tiếng từ trước khi trở thành người quyền lực nhất thế giới, Lý Gia Thành bỏ học đi làm công nhân, di cư gian khổ, đấu tranh không ngừng nghỉ mới có khối tài sản khổng lồ,... Đúng như người ta nói, một con người phi thường thì cũng phải có cuộc đời phi thường. Còn bát tự không có khí thế, khí số bị phá thì là người bình thường như 99% còn lại của thế giới.
Hầu hết những người thành công bát tự đều có khí thế, như Donald trump là hoá thổ tòng vượng cách, như lý gia thành khí thế thổ nhiều vùi kim, như Mao trạch đông là khí thế nguyên lưu sâu dày... Còn bát tự ngũ hành bình hoà, khí thế không có, khí số cũng không hoàn mỹ thì chỉ là người bình thường. Nhưng bù lại, người mang bát tự có khí thế thành công lớn thì trả giá cũng lớn, Mao Trạch Đông khắc hết người nọ đến người kia, vạn lý trường chinh gian khổ mới thành đại nghiệp, donald Trump phá sản đến 4 lần mới có vị thế, nổi tiếng từ trước khi trở thành người quyền lực nhất thế giới, Lý Gia Thành bỏ học đi làm công nhân, di cư gian khổ, đấu tranh không ngừng nghỉ mới có khối tài sản khổng lồ,... Đúng như người ta nói, một con người phi thường thì cũng phải có cuộc đời phi thường. Còn bát tự không có khí thế, khí số bị phá thì là người bình thường như 99% còn lại của thế giới.
Trước em đọc bên TVLS cũng có 1 anh khá giỏi có cùng quan điểm này như này.
Tạm trích:"Sức mạnh thiên bẩm của một người nằm ở nguyệt lệnh, nó lại được thể hiện ra ở Thiên can, lại được sinh phù thì không những được bộc lộ mà còn được phát huy. Lưu ý là cách cục càng Thiên lệch thì càng là bậc kỳ tài, nhưng không phải ai cũng đủ khả năng dụng nó. Còn cứ Cân bằng kiểu Á đông thì trăm năm cũng bình bình vậy thôi".
Càng thiên lệch khi và chỉ khi nó thuộc tòng cách thôi bạn. Khí thế có nhiều loại, không phải chỉ có tòng cách mặc dù xét về mặt nghĩa mà nói thì khí thế là dạng mệnh đặc thù, tức nó khác hẳn loại mệnh khác. Trong các dạng này, thì tòng cách là phổ biến hơn cả, người phi thường dạng tòng cách xã hội này nhiều, nhưng điểm yếu của tòng cách là đưa lên cao rồi xuống tận đáy, nó không được ổn định như Nguyên Lưu dày. Như ĐLT là mệnh tòng cách đấy. Còn Mao Trạch Đông là thuộc khí thế ngũ khí lưu chuyển, thế nên nhìn cuộc đời cụ Mao, đang bế tắc thì Nhật xâm lược làm củng cố quân đội của ông ta, bước nhảy vọt làm hàng chục triệu người chết vẫn yên ấm, chết rồi giờ người TQ vẫn tôn thờ Mao-ist. Đó là lợi thế của Nguyên Lưu.
Mệnh mark zuckerberg:
Giáp tý - kỷ tị - mậu thân - bính thìn
Nguyên cục mậu sinh tháng tị, là đắc lộc thấu kỷ bính, thân vượng. Hỷ nhất giờ thìn.
Nguyên lai:
Thìn là thấp thổ, khử hao táo khí mùa hè.
Thân tý thìn hợp tài cục,
"Tứ trụ không có tài mà ám hợp thành tài cục là mệnh giàu có"
Thân vượng mà có tiết có hao.
Có tài cục, có sát hợp nhận, có thân mượn thế thuỷ hình tị hoả. Thân vượng tự cân bằng.
Là dương nam hành vận đất kim thuỷ, giàu đến già.
Khởi phát từ đầu vận nhâm quý (là điều kiện tiên quyết để ám hợp tài cục thành).
Sự lựa chọn của tạo hoá: thân vượng mà bính hoả ấn tinh kề sát thân là không có bằng cấp. Tứ trụ quả là không sai đến 1 ly. Tạo hoá đã không cho anh ta có bằng cấp, mà thay vào đó đứng vào hàng ngũ ông chủ của những ông chủ. Giàu có số cả rồi.
Năm nay mậu Tuất, đại vận nhâm thân. Thìn thân hợp tiến nhập mệnh cục. Tuất xung thìn với khí thế của kim, với nhâm thuỷ đại vận thấu xuất dẫn khố, mộ thuỷ mở. Khí quý thuỷ hữu dụng, can mậu lưu niên hợp quý, là tỷ kiếp đoạt tài. Vì thế năm nay phá tài là phải. Thực tế là đã mất cả chục tỷ dollar vốn hoá vì bê bối lộ thông tin người dùng.
Trong các loại hình, dần tị thân là hình Vô Ơn. Ở đây thân kim hình tị hoả, tị hoả là ấn tinh của nhật chủ, biểu hiện của trưởng bối, người giúp đỡ... Thế nên nhiều bạn bè anh ta thời mới khởi nghiệp đã không tiếc lời nói anh ta là kẻ lợi dụng, ăn cháo đá bát. Sau khi thành công rồi thì phủi tay tất cả công lao của những người khác, một mình chiếm hưởng. Đó là tâm tính của hình trong tứ trụ này.
Phép khí số:
Mậu thổ sinh tháng tị là đất kiến lộc. Vì thế chính nó là trạng thái cương kiện nhất. Lấy mậu xét khí số.
Mậu thổ tháng 4 không rời Giáp Bính Quý. Giáp thấu, Bính thấu. Quý là Tý, lại gặp tam hợp thuỷ cục. Khí số là kiện toàn.
Mệnh đắc cả khí số lẫn có khí thế, tầng lớp mệnh cục là hết sức cao.
Giờ sinh cát, thiên can là kị, địa chi là hỷ, là cái lý ẩn hiện hữu dụng.
P/s: nhiều diễn đàn cho rằng giờ sinh là kỷ mùi. Tôi khẳng định, tất cả những vĩ nhân, doanh nhân có một sự nghiệp để đời như thế này, phải là sinh phùng thời, tức trụ giờ phải đắc dụng.
Với trụ giờ không đắc dụng, thì cũng có một thời gian phát, tuy nhiên không lớn, chụp giật, dùng thủ đoạn, và cái kết thường không có hậu như phá sản, tù tội hoặc bệnh yểu.
Bạn luận hay quá! Tôi xin góp thêm một điểm về cái lẽ "Kỵ thần bị chế" của bạn nói trên kia: Kiến lộc nguyệt kiếp cách, tam hợp tài cục, liền lấy tài cách mà luận. Tài cách đại kỵ tỷ kiếp thấu can, nay Kỷ là bệnh gặp Giáp hợp chế là bệnh gặp thuốc nên quý.
Note: đại vận là sự dịch chuyển của lệnh tháng, vì thế khi xem đại vận phải chú ý đến phương. Ví dụ như vận thìn khác vận tuất, mặc dù cùng là thổ, nhưng vận thìn mộc vượng, vận tuất kim vượng.
Thìn là thổ tử
Tuất là thổ hưu
Sửu là thổ tù
Mùi là thổ vượng tướng
Sắp xếp tính thổ thì mùi - tuất - sửu - thìn theo chiều giảm dần. Dựa vào hỷ kị luận tốt xấu.
Có trường hợp đặc biệt là hình trì thế Tuất - Sửu - Mùi
Lúc này dựa vào lệnh tháng để luận hành nào thất khí, ví dụ sinh mùa thu thì kim khắc mộc, mộc thất khí, khi đó xem hỷ kị mà luận.
Còn lưu niên là sự tịnh tiến của năm sinh với sự lặp lại mỗi 60 năm (lục thập hoa giáp), với lý 1 đại vận quản 10 năm, thì lưu niên chủ quản 1 năm trong đại vận và xét vượng suy theo thiên can. Ví dụ năm quý tị và năm quý hợi đều là thuỷ vượng, tức nếu dụng thần là thuỷ, kị hoả thì cả 2 năm này đều tốt, tuy nhiên với quý hợi thì tốt nhất, quý tị kém hơn.
Đại vận nhìn chi, tiểu vận nhìn can là như vậy.
Nguyên mệnh - đại vận - lưu niên là không phân ly, tức phải xem cả 6 trụ nhưng phân biệt trước sau, lớn nhỏ như sách ông Thái Tích Quỳnh đã luận. Tôi xin tóm tắt lại:
Đại vận tiến nhập nguyên cục thì lưu niên mới có tín hiệu rõ ràng.
Các cách tiến nhập, trụ giờ là cửa ngõ, là cung Thiên Di. Thế nên khi đại vận có hợp xung hình hoặc dung hợp với trụ giờ thì đại vận đó tiến nhập mệnh cục, cuộc đời người đó sẽ có những thay đổi lớn lao ở 10 năm này.
Tuy nhiên có những vận không cần sự can thiệp vào trụ giờ mà nó tạo ra một khí thế lớn khác thường vào mệnh cục, như đại vận dẫn hoá thần của mệnh cục (mệnh có tị dậu, vận thấu canh tân), hoặc tam hình, tam hội, tam hợp hình thành không có nhân tố trụ giờ vẫn tiến nhập được mệnh cục.
*dung hợp: chi giống với chi trụ giờ như giờ thìn gặp vận sửu là dung hợp (cùng là thổ). Mời đọc thêm Mệnh lý huyền cơ tham bí.
Khí số trong tứ trụ góp phần không nhỏ đến thứ tầng. Điển hình là cuốn sách Cùng Thông Bảo Giám ( lan giang võng?) viết về ngũ hành tứ thời luận. Quan điểm khí số này là từ phương pháp điều hậu, bàn sâu về ngũ hành lạnh khô, nóng ẩm dựa vào nhật can và Nguyệt Lệnh.
Điểm chính yểu của nó là phân tích Quý Mệnh, xã hội thời xưa và ngay cả thời nay cũng vậy phân chia làm 2 giai cấp quan quý và thường dân. Cho dù anh có là chủ doanh nghiệp lớn, hay ca kịch sỹ nổi tiếng thế giới thì anh vẫn thuộc thường dân.
Chính vì điều này mà thầy đoán mệnh thời xưa rất đề cao phương pháp đoán mệnh này, chỉ cần có Quý tự nhiên sẽ tựu Phú, xã hội ngày nay đã bình đẳng hơn, dĩ nhiên chữ Sỹ vẫn đứng đầu, nhưng cả một đất nước gần trăm triệu người như nước ta, ai cũng đoạt chữ Sỹ là điều không thể, vì vậy vượng suy tân phái ra đời (chính xác là được xiển dương) với mục đích cao cả hơn đó là xem ứng kỳ cát hung.
Người đi xem mệnh chủ yếu xem thời gian nào họ được toại chí, quan thì xem lúc nào thăng chức, dân thì xem lúc nào kiếm được nhiều tiền, có thể nói vượng suy phái làm điều này rất tốt.
Phép luận đoán khí số ngày nay chỉ còn xem một cách bổ trợ, dĩ nhiên đắc khí số vẫn tốt hơn, lại thêm bát tự vào loại phú mệnh thì phú mà còn quý, nhưng xã hội cũng có (phần đông) phú mà không quý, đặc biệt giờ ở Trung Quốc Phú mà còn quý rất dễ bị sờ gáy, dễ bị vu làm quan tham nhũng.
thanh thì quý, trọc thì phú.
Trong nhân tướng học, cái mũi là thẩm biện quan xem về phú quý. Mũi dọc dừa, mũi thông thiên thuộc vào Thanh quý, thường là mũi của những người làm quan.
Mũi sư tử, mũi túi mật treo được xếp vào trọc phú, là mũi thường có của người giàu nhờ kinh doanh buôn bán.
Tứ trụ cũng vậy, quan thấu tài tàng Phúc hưng long. Thanh la thấu can, trọc là tàng chi.
nói chung phép xem khí số để thủ Quý, nhưng với xã hội nay thì điều đó không quá quan trọng, tài vượng có thể sinh quan. Xã hội kim tiền, thì tứ trụ cũng nên theo xu hướng kim tiền.
Nhất mộ, nhì phòng, tam bát tự.
Theo tôi nhất BÁT TỰ. Nó có thể chiếm 60-70% trong cuộc đời mỗi người, nó cao hơn hay thấp hơn tuỳ vào từng người cụ thể.
Tử bình, tử vi, Mai hoa dịch số, chiêm tinh v.v... chỉ là những phương pháp luận mệnh tiền định của con người.
Theo tôi thì tiền định của mỗi người sinh ra là có thật nhưng làm sao đề biết tiền định vận động như thế nào, theo chiều hướng nào, hên xui, may rủi... thì phải có những cách để "nhìn". Một trong những cách đó là luận mệnh như nói ở trên.
Nhưng luận mệnh dù bằng phương pháp nào cũng chỉ là một phép GẦN ĐÚNG vì số mệnh con người được định trước phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nữa, không chỉ có ngày tháng năm giờ sinh, ví dụ như sự sắp xếp của các tinh tú trong giờ khắc được sinh ra mà trong vũ trụ này thì có hàng tỷ tỷ hành tinh vận động không ngừng. Cứ một giây thì trật tự các tinh tú lại nhích đi một chút và người sinh sau 1 giây đó sẽ có tiền định hơi khác một chút, sau 1 phút khác nhiều hơn, sau 1 tiếng khác nhiều nữa... Bố cục của các tinh tú (vận động và tương tác với nhau) cũng khác nhau ở các điểm khác nhau (phương vị phong thuỷ). Ngoài ra mệnh tiền định còn phụ thuộc những người thân trong gia đình (về bản chất mỗi người cũng là một đơn vị vật chất tác động tới người khác), còn di truyền nữa v.v...
Nói chung là có rất rất nhiều yếu tố tác động vào mệnh của con người. Vì vậy muốn luận mệnh chính xác ta phải xử lý tất các các yếu tố nói trên. Nhưng trên thực tế không có cách nào để xử lý hết được các yếu tố đó nên luận mệnh chỉ là gần đúng là vậy. Chúng ta thấy nếu những bậc đại sư nào mà kết hợp xử lý thêm các yếu tố khác như phong thuỷ, coi tướng, coi chỉ tay v.v... thì độ chính xác càng cao.
Tôi thấy số mệnh là nhất còn những cái khác là những yếu tố bổ sung. Không gì vượt qua được số mệnh.
Tướng Pháp quan trọng nhất là Thanh Tướng, đây là lí do mà người Mù (manh nhân) họ xem bói giỏi hơn chúng ta, vì họ có đôi tai nhạy cảm hơn người thường.
Như Miền Bắc thường có giọng Hoả, Thổ và Miền Nam thì lại phổ biến giọng Kim, Thuỷ, Mộc.
Khi đã xác định được dụng thần bát tự, cần chú ý thanh âm người ta xem dụng thần đắc lực tới đâu.
Giọng thổ thì hơi trầm, khàn khàn.
Giọng kim lanh lảnh, trong trẻo
Giọng hoả gấp gáp, mạnh mẽ
Giọng mộc vang vọng, sục sôi
Giọng thuỷ nhẹ nhàng, êm ái
giọng nói bổ trợ cho dụng thần bát tự người đó chắc chắn có thành tựu. Phép xem tướng xưa nay đều coi giọng nói trong, cao và vang vọng như tiếng chuông là tốt, điều này không đúng. Tất cả nên quy về hỷ kỵ, dụng thần là Thổ mà giọng như trên là hỏng, độ số giảm đi rất nhiều.
Sách vở khi nói về Thanh Âm rất qua loa, theo tôi muốn luyện tập thì nên nghe các ca sỹ nổi tiếng hát, và phải có bát tự chính xác của họ, xác định đúng hỷ kị, khi đó ta nghe sẽ phân biệt được ngũ hành của giọng, vì họ nổi tiếng nên giọng hát của họ phải bổ trợ cho dụng thần.
Tuy nhiên có một điểm chung đó là:
Nam không được mang giọng nữ
Nữ không được mang giọng nam
Có là dụng thần đi nữa thì cuộc đời lênh đênh, không bao giờ thành công được, sự tu dưỡng kém.
Giọng nói phải được chính cách, không được khó nghe, nói nhanh, gấp gáp là giọng hoả, nhưng nói quá nhanh người khác không nghe được thì đó là phá cách, độ tu dưỡng cũng kém.
Tướng mạo có thể giống nhau hoàn toàn, nhưng thanh âm thì trên thế giới này có 7 tỷ người thì có 7 tỷ âm sắc khác nhau, đây mới là cái chính yếu dùng tướng pháp để phân định.
Dĩ nhiên nói vậy không phải để chê phép xem tướng mặt, hay chỉ tay.. Nhưng theo tôi từ bát tự đều có thể nhìn ra được hình tướng, nếu đủ khả năng. Ví dụ như trong tử vi thì người có song hao thủ mệnh có mũi lộ hếch.
Ý nghĩa của song hao: chủ hao tán, khó giữ tài sản
Và tướng pháp cũng tương tự:
Mũi lộ hoặc hếch không giữ được tiền, dễ hao tài.
Đường nào cũng đến La Mã cả ^^
dư thị điều hậu khác với điều hậu thường thấy trong tử bình như kim hành thuỷ lạnh thổ đóng băng hỷ bính hoả giải hàn, hoả viêm thổ táo mộc cháy khét hỷ thuỷ chế viêm.
Trường hợp sau là nó tốt cho toàn cách cục, là điều hậu cấp tính, không có nó thì nguyên mệnh cách cục không thể cao cho dù có đủ mọi cách tốt như quan sát ấn tương sinh, thương thực chế sát, sát kình giao nhau.. Điều hậu này chỉ áp dụng cho mùa hạ và mùa đông, nguyên do thuỷ hoả là khởi nguyên, manh tính cực đoan. Mùa xuân, thu thì cơ bản không cần dùng điều hậu, mặc dù vào tháng Dần khí hậu chưa hết hàn, cần Bính Hoả.
Trường hợp đầu tiên là Phép xem nhật can dựa vào nguyệt lệnh, phân chia ra hỷ kị thập can thấu ra mà định. Lý luận Nhật can là ta, thế nên dạng điều hậu này làm nhật can dễ chịu, dễ thành công hơn. Dạng điều hậu này phân tích rất sâu vào thập can hỷ kỵ, mang tính nhân văn cao.
Ví dụ: nhật can Là Bính hoả rất thích Nhâm thuỷ, thế nên trong điều kiện Bính hoả mang được các cách cục thuộc về sát cách, như sát ấn tương sinh, thực thần chế sát,... Thì người mang nhật can Bính hoả dễ chịu hơn, hài lòng hơn. Nhưng điều này không có nghĩa họ không thể gánh các cách cục khác như thương thực sinh tài, thương quan bội ấn, tài vượng sinh quan, đơn giản nếu họ không mang được sát thì không bao giờ hài lòng với thành quả của mình, đôi khi việc này trở thành tham vọng, nhưng lại trở thành tham vọng thái quá dẫn đến cô khổ cả đời, vì nhật can ở trạng thái không dễ chịu.
Dư thị điều hậu với quan điểm là nhìn từ tâm con người mà ra. Còn điều hậu dụng thần thuỷ hoả là quan sát từ xã hội về phía con người. Nhật can là ta, nguyệt lệnh là người.
ví dụ: canh kim tháng 6 đinh dẫn giáp. Tháng 6 là mùi thổ, thuộc ấn cách, thấu Đinh thành cách quan ấn tương sinh, ấn nhiều cần Giáp mộc sinh Đinh mà hợp kỷ thổ, thành tài quan ấn tam kỳ toàn. Khí số thực ra cũng là cách cục, nhưng là cách cục phù hợp nhất với từng loại nhật can. Khi được làm công việc phù hợp thì dễ thăng tiến hơn, dễ thành công hơn.
Các sách như TBCT hay TTT không hề đề cập đến dư thị điều hậu dụng thần, vì họ chú trọng đến thành quả, xã hội không quan tâm anh nghĩ gì, mà chỉ quan tâm anh làm được gì.
Càn tạo: Vio bên lyso.vn 14/7/1972 DL giờ thìn
Nhâm Tý - Đinh Mùi - Bính Ngọ - Nhâm Thìn
Tháng 7 năm 1980 khởi vận
1980-Mậu Thân // 1990-Kỷ Dậu // 2000-Canh Tuất // 2010-Tân Hợi // 2020-Nhâm Tý
Năm 1996 : Được vào làm một công ty của Úc lương tốt
Năm 1997 lấy vợ, năm 1999 sinh cháu đầu trai. năm 2003 sinh cháu trai tiếp theo.
Năm 1998-1999: làm giám đốc KD, kiếm được nhiều tiền (so với sinh viên chân đất ra trường)
Năm 2000: mua nhà Hà Nội và chuyển về Hà Nội, sang một cty khác làm giám đốc kinh doanh.
Cuối năm 2003 ra ngoài làm riêng
Năm 2004: cty phá sản và mất khoảng 700 cây
Năm 2005-2006: đi học cao học
Năm 2007: về làm Giám đốc 1 cty sx thép.
Năm 2007-2008: kiếm được nhiều tiền.
Năm 2009: làm tổng GĐ thuê cho 1 tập đoàn. Năm này thành lập cty hiện đang vận hành, nhưng để anh em đứng tên.
Năm 2011 ra hẳn ngoài và làm việc đến nay.
Năm 2014: dính vụ nợ ngần 100 tỷ.
Năm 2016 bị cháy Vp.
Năm nay 2017 thấy thuận lợi.
Tại sao năm 2004 Giáp Thân đại vận Canh Tuất bị phá sản, đâu là nguyên nhân? :^d:^d
Tạo này theo thiển kiến của em thì là thân sát lưỡng đình nên là quý mệnh. Tứ quý Bính hỏa hỷ Nhâm thủy, nhưng trong trụ 2 Nhâm lộ lên lại có Tý-Thìn trợ lực, chúng sát xương cuồng. Nhưng hay ở chỗ Tý bị Mùi chế, Thìn thu bớt hỏa khí của Ngọ, Nhâm ở niên can bị hợp mất 1 còn 1 ở thời can lại thu liễm vào Thìn, nên cách cục được thanh thuần. Hành vận bất kể ngũ hành, chỉ cần duy trì thế cân bằng giữa Nhâm và Bính thì đều là hảo vận.
Thiên can là dụng thần, người có xuất thân, gia thế tốt được trợ lực, hưởng tổ nghiệp
Địa chi là dụng thần, người có căn cơ lớn, đến thời có thể vẫy vùng
Chi là gốc, can là ngọn. Tử bình giờ quá xôi thịt, cứ nhìn thấy thiên can là dụng thần là xem phú quý, liệu có đúng chăng?
Đúng, không sai. Ta thấy nhiều người sinh ra chỉ để đi lùi về vạch đích, có một xuất thân tốt dù gì cũng thích hơn sinh ra trong gia đình nghèo khó.
Dụng thần có cả ở thiên can và địa chi là tốt nhất, thể hiện xuất thân tốt và căn cơ cũng tốt.
Nhìn ngọn mà không được quên gốc, manh phái họ chú trọng địa chi mà ít xem thiên can, xem chữ nào đắc dụng (bộ thần, tạo công tùy cách hiểu) mà định năng lượng (thứ tầng). Đây mới có nghĩa là tận lực tri mệnh.
Địa chi, là gốc của thiên can, là cái căn cơ mà phải đề cao hơn cả.
Có câu chuyện, 1 ông quan lớn và 1 anh thợ rèn sinh ra cùng bát tự, ông quan sinh trên thuyền , còn anh thợ rèn sinh ra gần lò lửa, bát tự dụng thủy nên cả 2 người khác nhau. Nhìn từ góc độ thiên can và địa chi, thì thấy ngay dụng thần của 2 anh này ở thiên can. Anh sinh trong gia đình quan chức thì nối nghiệp làm quan, còn anh con ông thợ rèn thì nối nghiệp bố.
Thiên can - địa chi 2 mặt của vấn đề
Thiên can chủ động, động thì có quyền sinh khắc
Địa chi chủ tĩnh, chỉ dựa vào các quan hệ hợp xung hình hại phá mà luận lực chiến của nhân nguyên
Cái đầu, biểu hiện của địa chi không rõ ràng
Tiệt cước, biểu hiện của thiên can không mạnh mẽ
Địa chi có quyền phủ quyết thiên can (hư phù, vượng tướng), thiên can là biểu hiện của nhân nguyên tàng trong địa chi.
Ngũ dương thì ham khắc không ham sinh
Ngũ âm thì chịu sinh mà không chịu khắc
Dương thì cương, âm thì nhu
Thập can muốn sinh muốn khắc thì phải có căn, dù yếu, chỉ cần không bị phá thì đều khởi huy tác dụng.
Hại
12 địa chi chia thành 6 cặp lục hại tý mùi, ngọ sửu, dần tị, thân hợi, dậu tuất, mão thìn
Tý muốn hợp sửu mà mùi xung sửu thế nên tý mùi tương hại. Vì thế tương hại khó có thể giải, hại địa chi tương hại gần nhau luôn luôn xuất hiện xung khắc nhân nguyên. Nếu tương hại là khắc kỵ thần thì là hại tốt, khắc dụng thần là hại hung, tất cả các mối quan hệ của địa chi có lợi thì luận cát, có hại thì luận là hung.
Sửu ngọ hại, kỷ thổ trong ngọ khắc quý thủy trong sửu, đinh hỏa trong ngọ sinh kỷ thổ, kỷ thổ sinh tân kim. Ý nói sửu thổ sinh kim khi có hỏa là đây.
Tý mùi hại, quý thủy trong tý khắc đinh hỏa trong mùi
Thân hợi hại, canh kim khắc giáp mộc, mậu thổ khắc nhâm thủy
Tị dần hại, giáp mộc khắc mậu thổ, canh kim khắc giáp mộc, bính hỏa khắc canh kim
Mão thìn hại, ất mộc khắc mậu thổ để quý ất hiển lộ, làm dần mão thìn tam hội mộc vượng thổ hư.
Dậu tuất hại, đinh hỏa biến tính sinh thổ, thổ sinh kim. Thân dậu tuất tam hội kim vượng hỏa thổ biến tính.
Hại giữa 2 địa chi chỉ cần cạnh nhau, không thể giải dù cho có hợp, nếu có hợp luận cùng lúc cả hợp và hại.
Manh phái đoàn gia đề cao hại, thậm chí hại chế tố công là lớn nhất trong các phương pháp tố công là vậy.
Hợp
6 cặp lục hợp
Ngọ mùi hợp (hóa thổ), kỷ thổ tăng lực, đinh hỏa và ất mộc giảm lực
Tị thân hợp (hóa thủy), nhâm thủy tăng lực, canh kim, bính hỏa, mậu thổ đều giảm lực
Thìn dậu hợp (hóa kim), tân kim tăng lực, mậu thổ ất mộc cùng quý thủy đều giảm lực
Mão tuất hợp (hóa hỏa), đinh hỏa tăng lực, ất mộc mậu thổ tân kim đều giảm lực
Dần hợi hợp (hóa mộc), giáp mộc tăng lực, nhâm thủy mậu thổ bính hỏa đều giảm lực
Tý sửu hợp (hóa thổ), kỷ thổ tăng lực, quý thủy tân kim đều giảm lực
Bế khố thì căn đó không phát huy tác dụng, là vô dụng.
Hợp thì xem nếu dụng thần tăng lực là cát, kỵ thần tăng lực là hung
Điều kiện tối cần của lục hợp, đó là nguyệt lệnh đồng hành với hóa thần, không đạt điều này thì lục hợp mang hàm nghĩa trói buộc nhau, cả hai đều giảm lực, tùy hỷ kỵ mệnh cục mà xem cát hay hung.
Thiên can dẫn hóa hay không chỉ là biểu hiện của địa chi, nó không liên quan gì đến việc hợp hay trói buộc của địa chi, trước đây sách cụ Thiệu có ghi cần thiên can dẫn hóa, giờ sách tái bản không thấy điều đó nữa, chỉ nói nếu hóa được mà không có thiên can thấu ra thì cát hung không rõ ràng, ứng nghiệm ở lưu niên đại vận.
Giáp tý là mộc hư, ất hợi là mộc sinh là do có căn hay vô căn.
Giáp thìn là mộc có khí, giáp tuất là mộc vô khí. Trụ giáp tuất mà trụ thổ kim vượng tướng thì thổ vượng mộc gãy.
Quý dậu là thủy tử, nhâm thân là thủy sinh. Trụ quý dậu nguyên cục hỏa thổ kim vượng tướng, quý thủy vô căn hoặc bị phá thì dậu kim không trợ quý thủy, thủy bị cô lập không sinh cũng không khắc.
Thiên can, chỉ cần có căn, dù yếu vẫn khởi tác dụng sinh khắc, chỉ cần vô căn thì không có tác dụng sinh khắc. Giống cây mà không có gốc thì sao chống được bão lũ, sao tạo ra hoa, quả?
Căn nằm ở bản khí là mạnh nhất, căn ở trung, dư khí là yếu.
Xu thế tứ trụ xem tượng thiên can, quan (sát) ấn tương sinh chủ về quan vận, là kỵ thần thì không làm quan, thương thực sinh tài chủ về tài vận, là kỵ thần thì khó kiếm tiền tài từ kinh doanh.
Ấn là kỵ kề sát thì không có văn bằng, khắc mẹ
Quan là kỵ thần kề sát thì khó lấy chồng, khắc chồng với mệnh nữ, đường công danh là con số 0.
Khí đo ngũ hành, nhật chi thể hiện không gian ngũ hành, nguyệt chi và thời chi thể hiện thời gian ngũ hành. Như sinh vào mùa đông, lại giờ hợi tý ban đêm thì thủy vượng, nhưng nhật chi tọa hỏa thì giống như ngồi gần lò sưởi, thủy bớt vượng mà hỏa có lực.
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.