PDA

View Full Version : Quỷ Cốc Toán Mệnh Thuật



sherly
24-04-18, 18:05
QCTM của Quỷ Cốc Tử lưu truyền đã hàng ngàn năm nay, đúng cũng nhiều mà sai cũng không ít.
Cấu trúc của QCTM đơn giản là dùng Can năm phối với giờ sinh, tổng cộng có 600 thể cách.
Năm quản tháng, ngày quản giờ, theo phép lập quẻ thì khuyết thiếu hẳn tháng sinh và chi ngày sinh. Với nhiều môn nói chung thì 2 yếu tố đó cực kỳ quan trọng, bói dịch nói riêng thì càng quan trọng hơn, còn được gọi là nguyệt kiến và nhật thần, 2 yếu tố dùng để đo lường vượng suy tử tuyệt các hào.
Khi đọc QCTM tôi có thắc mắc là dưới mỗi một Lưỡng Đầu đều kèm theo 1 Quẻ dịch. VD: Quý - Giáp là quẻ Sơn Lôi Di, Nhâm - Nhâm là quẻ Bát Thuần Khảm...
Nếu chỉ đơn thuần đọc tứ tự kim và bài thơ phú thì tôi cho rằng đơn điệu quá. Với lại một người được coi là siêu phàm nhập thánh, tu tiên thoát tục không thể chỉ đơn thuần để lại bộ môn mà chỉ có 600 bài thơ ứng với cả triệu người được.
Phép thử của tôi:
Quẻ dịch Lưỡng Đầu chính là quẻ nhân mệnh. Áp ngày tháng sinh của mình vào là nhật thần và nguyệt kiến. Lấy giờ sinh làm hào động.
Giờ sinh dương thì tý làm hào 1, dần 2, thìn 3, ngọ 4, thân 5, Tuất 6
Giờ sinh âm thì sửu làm hào 1, mão 2, tị 3, mùi 4, dậu 5, hợi 6
Sau đó dùng phép bói dịch lục hào để luận chung thân tài phúc, quan phụ.
Mặc dù chưa áp dụng được nhiều và cũng mới đọc sách dịch của dã hạc lão nhân. Tuy nhiên tôi thử cho mấy người nhà thì thấy khá ứng.
* tôi cũng không rõ tại sao với mỗi lưỡng đầu lại có 1 quẻ dịch như vậy. Với 100 lưỡng đầu thì dĩ nhiên là sẽ có 36 quẻ bị trùng. Đường đi còn khá nhiều rắc rối. Tuy nhiên các bạn cứ nghiệm lý thử, đúng thì coi như một cách luận nhân mệnh, sai thì bác bỏ.

lesoi
24-04-18, 21:01
QCTM của Quỷ Cốc Tử lưu truyền đã hàng ngàn năm nay, đúng cũng nhiều mà sai cũng không ít.
Cấu trúc của QCTM đơn giản là dùng Can năm phối với giờ sinh, tổng cộng có 600 thể cách.
Năm quản tháng, ngày quản giờ, theo phép lập quẻ thì khuyết thiếu hẳn tháng sinh và chi ngày sinh. Với nhiều môn nói chung thì 2 yếu tố đó cực kỳ quan trọng, bói dịch nói riêng thì càng quan trọng hơn, còn được gọi là nguyệt kiến và nhật thần, 2 yếu tố dùng để đo lường vượng suy tử tuyệt các hào.
Khi đọc QCTM tôi có thắc mắc là dưới mỗi một Lưỡng Đầu đều kèm theo 1 Quẻ dịch. VD: Quý - Giáp là quẻ Sơn Lôi Di, Nhâm - Nhâm là quẻ Bát Thuần Khảm...
Nếu chỉ đơn thuần đọc tứ tự kim và bài thơ phú thì tôi cho rằng đơn điệu quá. Với lại một người được coi là siêu phàm nhập thánh, tu tiên thoát tục không thể chỉ đơn thuần để lại bộ môn mà chỉ có 600 bài thơ ứng với cả triệu người được.

Ở Trung Quốc lưu truyền lại sách này có tên là "Quý Cốc toán Niên Thời".
Theo nhà dịch số Trần Bỉnh Duật giải thích, thì:
Chỗ nói đoán niên thời (trụ năm và giờ), tên như ý nghĩa, chính là căn cứ hai thiên can của trụ năm, trụ giờ hợp thành một quẻ tượng, để dự trắc vận mệnh. Mọi người chỉ cần xem cẩn thận, thì không khó phát hiện, là bố trí theo một quy tắc nhất định, thập thiên can đều đối ứng với quẻ tượng nhất định, tổng kết như sau:
Giáp --- Chấn
Ất --- Tốn
Bính --- Ly
Đinh --- Khôn
Mậu --- Cấn
Kỷ --- Khôn
Canh --- Đoài
Tân --- Càn
Nhâm --- Khảm
Quý --- Cấn
Cũng không phải là theo phép nạp giáp mà ra, mà là chủ yếu căn cứ khí ngũ hành cùng kết hợp phương vị Hậu thiên Bát quái, ngoại trừ Đinh nhập Khôn, Quý nhập Cấn, là giải thích không được, còn lại đều là đối ứng với chính ngũ hành. Đinh nhập Khôn, Quý nhập Cấn, khả năng là địa đạo xoay bên phải, là một loại hình thức biểu hiện không khí lưu hành.
Các bạn có thể tham khảo đường Link sau:
http://blog.sina.com.cn/s/blog_5bc171940100gwj2.html


Còn Sherly đọc sách này ở đâu thì tôi không rõ. Nhưng tôi nghĩ cũng dễ dàng giải thích mà thôi. Trong phép luận Tứ trụ rất có nhiều cách, nhưng chung quy thời xưa lấy Can năm làm Lộc, chi năm là Mệnh. Sau này đến đời Lý Trung Hư tiền bối cũng vậy.
Chỉ có đến đời Từ Tử Bình thì lấy Can ngày làm nhật chủ luận mệnh.
Quỷ Cốc còn có quyển sách "Quỷ Cốc di văn" cũng nói như vậy.

sherly
24-04-18, 22:33
Cảm ơn anh lesoi. Đúng là toán mệnh thuật vô cùng huyền diệu. Thời xưa thuật toán tứ trụ dùng can năm là điểm thái cực, giờ là nơi thu tàng quy về, thế nên quỷ cốc tiên sinh đã sáng tạo ra QCTM, thực chất là bói dịch nhân mệnh . Lẽ dĩ nhiên khi cùng 1 vị trí can năm và can giờ đó sẽ có một số điểm chung(trường hợp dùng can năm là điểm lập mệnh).
Từ thời Từ Tử Bình trở đi, lấy can ngày làm thái cực
Như nhật chủ Đinh hoả, can năm là Nhâm thuỷ. Thường lý luận ông bà tổ tiên vinh hoa, nếu Nhâm thuỷ là kị thần thì hiểu là mặc dù ông cha vinh danh nhưng ta không được hưởng.
Nó tự nhiên cũng không khác gì lấy can năm lập mệnh so với can giờ cả, vì thế với 1 cặp năm - giờ sẽ luôn có 1 quẻ dịch chung, và giờ nào sẽ quyết định hào động.
Có thể phép luận nhân mệnh dựa trên QCTM đã bị thất lạc hoặc bí truyền. Ta đành phải từ từ tìm ra phương pháp vậy.
P/s: còn phép xem bình thường đọc 4 chữ và thơ văn cho vui thì được, còn dùng đó để phán đoán cuộc đời người khác là quá phiến diện, khi mà thiếu vắng hẳn nguyệt lệnh, yếu tố mà được coi là quan trọng nhất trong thuật toán mệnh.

sherly
24-04-18, 22:58
Thuật toán mệnh thường nghiên cứu về nhân mệnh, như tử vi, tứ trụ cũng là nhân mệnh.
Tuy nhiên trong tử vi, những lá số Thổ Ngũ Cục cách nhau đúng 12 ngày là giống hệt nhau. Thậm chí với nhiều lá số cách nhau 10 ngày là rất giống nhau, chỉ khác 4 sao nhỏ. Tứ trụ thì không như thế, khác nhau dù chỉ 1 chữ đã là khác nhau rồi. Thậm chí với 1 tứ trụ cách nhau 60 năm, 120 năm hay thậm chí là 240 năm cũng khó có được vì khác tiết khí.
Từ tứ trụ lập được mệnh bàn Thất Chính Tứ Dư, mà bộ môn này nhiều người cho là tiền thân khoa tử vi. Vì thế nếu nói về độ chính xác cát, hung thì tứ trụ vượt bậc hẳn so với tử vi.
Tại sao trung quốc không có Càn Long thứ hai, hay Khang Hy đế tái thế? Là vì nó cũng liên quan rất chặt chẽ đến Tam Nguyên Cửu Vận, chữ Vận ở đây theo tôi suy nghĩ chính là ý ở câu mà ta hay nói nhất mệnh, nhì vận, tam phong thuỷ. Thật vậy, tam nguyên cửu vận xoay vần, thượng trung hạ nguyên. Cùng 1 bát tự vận 2 khí lực phải khác bát tự đó vào vận 8. Thế nên bát tự giống bát tự danh nhân thì nên cẩn thận, tra lại xem có xoay vần đúng Vận tam nguyên hay không. Ấy là chưa kể đến Phúc phần, số hưởng thì con vua phải khác con ông thợ rèn.

lesoi
25-04-18, 05:03
@Sherly: Xem ra bạn có vẻ hiểu về ngũ thuật khá nhiều. Bạn biết không? Ngay cả Quỷ Cốc Tử cũng phải thốt lên câu nói "Xem mệnh là khó thật!" đấy. Cho nên, thuật toán mệnh luôn không ngừng hoàn thiện qua hàng nghìn năm nhưng muôn đời vẫn là huyền bí, khó mà nắm hết áo diệu của nó.
Muốn vậy, chỉ còn có việc là phải tịnh tâm, thiền định, ăn chay, làm thiện tích đức ... thì mới may ra ngộ hiểu một phần huyền cơ. Chớ có vọng tưởng là người giỏi nhất trần đời về ngũ thuật ....!

sherly
25-04-18, 07:55
Thực chất thì tôi cũng đâu cho rằng mình giỏi mệnh thuật. Tôi chỉ chia sẻ những cái tôi biết hoặc tôi cho là biết để nghiệm. Có đơn giản vậy thôi. Chắc tôi phải tu dưỡng tứ trụ thêm vài năm nữa thì may ra xem mệnh nó mới uyển chuyển được, hihi

lesoi
25-04-18, 08:25
@Sherly: Bạn hiểu lầm ý tôi là nói bạn, mà tôi nói với tất cả mọi người học mệnh lý (kể cả tôi). Mệnh lý là vô bờ bến, biến hóa khôn lường, nếu chỉ biết chút ít về mệnh lý thân vượng thân nhược, hoặc biết chút ít về cách cục thì vẫn chưa thể nói là luận mệnh tốt được. Manh phái có bí quyết luận Nhất trụ cũng khá độc đáo nhưng cũng chưa tính là hoàn thiện. Vì vậy, phải rèn luyện thật nhiều cùng kết hợp thực tiễn, không chỉ 5 năm, 10 năm ... mà cả đời. Nếu người có đạo hạnh thì họa chăng biết được 1/3, còn lại chỉ là đoán ngoài da mà không biết lục phủ ngũ tạng ra sao.
Ngay cả hiện nay, tôi thấy trên mạng đủ loại chuyên gia luận mệnh ăn tiền, khi xem phương pháp luận mệnh thì hóa ra cũng chỉ là vài cái cách cục, vài cái thân nhược thân vượng mà luận. Thật dễ ăn tiền vậy sao? Chỉ có lừa người để kiếm tiền, muốn nỗi danh ta đây là đại sư, nhưng khi hỏi mệnh lý thì chả giải thích ra làm sao, người xin cầu trắc thì hỏi đủ chuyện, còn người làm thầy thì nói tâm lý qua loa cho xong chuyện.
Học ... Học ... và học mãi!

sherly
28-09-20, 02:00
Mới đây biết về quẻ nhân mệnh với vai trò xách nước pha trà cho các vị lão nhân làng kinh dịch hải ngoại, thật ngạc nhiên là các vị đó không hề dùng quẻ dịch nhân mệnh theo phương pháp của cụ thiệu vỹ hoa, mà lại dùng theo quỷ cốc tử. Họ nói quẻ nhân mệnh tính theo mai hoa của Tác giả thiệu vỹ hoa là tự sáng tạo ra, không có định lệ nào trước đó. Nguyên do là phép lấy quẻ của nó
Lấy tổng can năm, tháng, ngày theo âm lịch chia 8 lấy số dư làm thượng quái
Lấy tổng trên cộng với giờ chia 8 lấy số dư làm hạ quái
Lấy tổng trên chia 6 lấy số dư làm hào động
Đây là cách lấy mai hoa, chỉ thay đổi chi năm bằng can năm và có rất nhiều hạn chế
- thứ nhất, chiêm bốc chú trọng tiết khí, không hề tính âm lịch
- thứ hai, phép lấy như thế này luôn chỉ có một hào động cho cả cuộc đời, cái này hết sức vô lý, lại chỉ xem được cố định năm. Ví dụ năm tý thì bị thế này thế kia, thì 12 năm sau cũng bị y vậy, rõ ràng, điều này là không hợp lý.
Tuy nhiên, lại có những người dùng quẻ này luận đúng về người khác, có thể giải thích là phước chủ lộc thầy, điều này giới tử vi, tứ trụ không lạ gì, nhiều khi lấy lá số sai mà vẫn luận đúng được, hơn nữa quẻ dịch lục hào có vô số tượng, cũng không tránh được sự suy luận hoặc gọt chân cho vừa giày.
Phương pháp lập và luận đoán quẻ dịch nhân mệnh theo quỷ cốc tử
Can năm- can giờ (lưỡng đầu kiềm toán) tạo quẻ dịch
Giáp --- Chấn
Ất --- Tốn
Bính --- Ly
Đinh --- Khôn
Mậu --- Cấn
Kỷ --- Khôn
Canh --- Đoài
Tân --- Càn
Nhâm --- Khảm
Quý --- Cấn
Ví dụ lưỡng đầu giáp- ất được quẻ lôi phong hằng
Ngày quản giờ, dựa vào giờ có thể tìm được can ngày
Ví dụ giờ ất mùi thì can ngày là bính/tân
Lấy nguyệt kiến là tháng sinh
Nhật thần là ngày sinh
Lấy chi năm là thái tuế năm sinh, nạp vào quẻ dịch xem cát hung.
An đại vận:
Lấy hào thế khởi đại vận, dương nam âm nữ đi thuận, âm nam dương nữ đi nghịch, mỗi đại vận kéo dài 5 năm, khi đại vận hào nào thì hào đó động
Ví dụ âm nam dương nữ, thế trì hào 3 thì 0-5 tuổi hào 3, 6-10 tuổi hào 2, 11-15 tuổi hào 1, cứ như thế tiếp tục, và trong khoảng đại vận đó đến năm nào thì coi là lưu thái tuế, xem cát hung dựa vào nó.
Vi dụ một nam mệnh có bát tự
Đinh hợi- canh tuất- kỷ tị- canh ngọ
Lưỡng đầu đinh- canh được quẻ địa trạch lâm

Tử tôn - dậu
Thê tài(Ư)- hợi (KV)
Huynh đệ- sửu
Huynh đệ- sửu
Quan quỷ(T) mão
Phụ mẫu- Tị
Quan quỷ trì thế là người có công danh, mão mộc hưu tù tại nguyệt kiến nhật thần, nhưng được nguyệt hợp thành vượng tướng. Thế hào, quan quỷ, phụ mẫu đều vượng tướng nên có công danh rất cao là số của Tưởng giới thạch.
Năm kỷ sửu thuộc hào hai động, quỷ hào trì thế động hoá thoái, hơn nữa thái tuế nằm ở huynh đệ, quan quỷ động khắc thái tuế rất hung. Năm này thua trận toàn diện, rút lui về đài loan

shanghai
28-09-20, 12:11
Mới đây biết về quẻ nhân mệnh với vai trò xách nước pha trà cho các vị lão nhân làng kinh dịch hải ngoại, thật ngạc nhiên là các vị đó không hề dùng quẻ dịch nhân mệnh theo phương pháp của cụ thiệu vỹ hoa, mà lại dùng theo quỷ cốc tử. Họ nói quẻ nhân mệnh tính theo mai hoa của Tác giả thiệu vỹ hoa là tự sáng tạo ra, không có định lệ nào trước đó. Nguyên do là phép lấy quẻ của nó
Lấy tổng can năm, tháng, ngày theo âm lịch chia 8 lấy số dư làm thượng quái
Lấy tổng trên cộng với giờ chia 8 lấy số dư làm hạ quái
Lấy tổng trên chia 6 lấy số dư làm hào động
Đây là cách lấy mai hoa, chỉ thay đổi chi năm bằng can năm và có rất nhiều hạn chế
- thứ nhất, chiêm bốc chú trọng tiết khí, không hề tính âm lịch
- thứ hai, phép lấy như thế này luôn chỉ có một hào động cho cả cuộc đời, cái này hết sức vô lý, lại chỉ xem được cố định năm. Ví dụ năm tý thì bị thế này thế kia, thì 12 năm sau cũng bị y vậy, rõ ràng, điều này là không hợp lý.
Tuy nhiên, lại có những người dùng quẻ này luận đúng về người khác, có thể giải thích là phước chủ lộc thầy, điều này giới tử vi, tứ trụ không lạ gì, nhiều khi lấy lá số sai mà vẫn luận đúng được, hơn nữa quẻ dịch lục hào có vô số tượng, cũng không tránh được sự suy luận hoặc gọt chân cho vừa giày.
Phương pháp lập và luận đoán quẻ dịch nhân mệnh theo quỷ cốc tử
Can năm- can giờ (lưỡng đầu kiềm toán) tạo quẻ dịch
Giáp --- Chấn
Ất --- Tốn
Bính --- Ly
Đinh --- Khôn
Mậu --- Cấn
Kỷ --- Khôn
Canh --- Đoài
Tân --- Càn
Nhâm --- Khảm
Quý --- Cấn
Ví dụ lưỡng đầu giáp- ất được quẻ lôi phong hằng
Ngày quản giờ, dựa vào giờ có thể tìm được can ngày
Ví dụ giờ ất mùi thì can ngày là bính/tân
Lấy nguyệt kiến là tháng sinh
Nhật thần là ngày sinh
Lấy chi năm là thái tuế năm sinh, nạp vào quẻ dịch xem cát hung.
An đại vận:
Lấy hào thế khởi đại vận, dương nam âm nữ đi thuận, âm nam dương nữ đi nghịch, mỗi đại vận kéo dài 5 năm, khi đại vận hào nào thì hào đó động
Ví dụ âm nam dương nữ, thế trì hào 3 thì 0-5 tuổi hào 3, 6-10 tuổi hào 2, 11-15 tuổi hào 1, cứ như thế tiếp tục, và trong khoảng đại vận đó đến năm nào thì coi là lưu thái tuế, xem cát hung dựa vào nó.
Vi dụ một nam mệnh có bát tự
Đinh hợi- canh tuất- kỷ tị- canh ngọ
Lưỡng đầu đinh- canh được quẻ địa trạch lâm

Tử tôn - dậu
Thê tài(Ư)- hợi (KV)
Huynh đệ- sửu
Huynh đệ- sửu
Quan quỷ(T) mão
Phụ mẫu- Tị
Quan quỷ trì thế là người có công danh, mão mộc hưu tù tại nguyệt kiến nhật thần, nhưng được nguyệt hợp thành vượng tướng. Thế hào, quan quỷ, phụ mẫu đều vượng tướng nên có công danh rất cao là số của Tưởng giới thạch.
Năm kỷ sửu thuộc hào hai động, quỷ hào trì thế động hoá thoái, hơn nữa thái tuế nằm ở huynh đệ, quan quỷ động khắc thái tuế rất hung. Năm này thua trận toàn diện, rút lui về đài loan

Rất hay bác ạ. Nhưng nếu 45, 50, 60 tuổi, ta lại ngược xuống hào 1,2... trở đi ạ

Mỗi đại vận tại sao không là 10 năm mà là 5 năm bác nhỉ