PDA

View Full Version : Bàn luận về Huyền Quan Nhất Khiếu



jelly
06-05-18, 14:11
Tôi chỉ mới đọc tới Chương 2, nhưng có nhiều thí dụ muốn mang ra thảo luận với mọi người.

Tử Bình chú trọng tháng sinh, nên thập can trong tháng sinh đó là chủ chốt, như Giáp sinh tháng Dần, Giáp lâm quan, Ất đế vượng, Bính trường sinh, vv, vì đây là nói về mùa sinh mà ngũ hành âm dương tọa vị trí nào trong cung trường sinh. Như vậy, nhật chủ và các thập thần khác chỉ so với tháng sinh, không so với các trụ khác, trừ nhật chủ so ngay với chi ngày và các trụ khác, như nhật chủ tọa Lộc hay Nhận ở trụ ngày, nhưng chỉ tính nhật chủ, không tính thập thần khác.

Thí dụ 1 (Phân biệt Lộc Nhận) của chương 2:


1, Càn tạo: Bính Thân, Ất Mùi, Nhâm Ngọ, Nhâm Dần
Nhật can tạo này là Nhâm thủy được trường sinh ở chi năm, Chính Quan tinh Mùi thổ nắm lệnh. Can năm Bính hỏa, được Nhận ở chi ngày, Ất mộc là Thương quan, ở trụ giờ thấy Dần là tăng lực Thương quan. Can chi toàn cục mạnh mẽ, tầng lớp mệnh chủ đang ở cấp Huyện. Nhưng do bát tự có Thương quan kiến Quan, còn có Ấn Nhận, Tài Nhận, Thương Nhận, hung thần ác sát là quá nhiều. Đây là một tạo sư huynh đã từng đố tôi, tôi đến lần đầu tiên, liền phát hiện Thương quan Ất mộc gặp Dần ở trụ giờ, đoán thẳng mệnh chủ đại hung. Quả nhiên mệnh chủ ở tháng 12 năm Tân Tị, bởi vì giải phẫu cổ họng, mà thành người thực vật.

Ở trên luận Nhâm trường sinh ở Thân, Bính hỏa thì Nhận (đế vượng) ở Ngọ, Ất mộc gặp Dần cũng là đế vượng, mà không luận Nhâm nhật chủ sinh tháng Mùi tọa Dưỡng, vì tháng mùa hè Thủy suy nhược. Chỉ khi nào Nhâm gặp Hợi (lâm quan) thì mới gọi là nhật chủ có Lộc (ở trụ năm là Bối Lộc, ở trụ tháng là Kiến Lộc, ở trụ ngày là Chuyên Lộc, ở trụ giờ là Quy Lộc). Đây là cách đặc biệt vì nói đến nhật chủ, ngoài ra các thập thần chỉ tính tọa đất gì trong tháng sinh. Còn theo thí dụ nói trên thì luận theo tôi là khác thường.

Thật ra để luận mệnh hung của nhật chủ (bị giải phẫu cổ họng, thành người thực vật) dựa vào cách luận khác cũng thấy được. Như đã nói, mệnh chủ Nhâm suy ở tiết Tiểu Thử, Canh là Thiên Ấn trong Thân là chi bị không vong, Nhâm trong Thân lộ ở trụ giờ thoát KV, nhưng lại tọa Dần, tức bị tiết khí và bị khắc (trong Dần có Giáp, Bính, Mậu). Mệnh chủ hoàn toàn nhược, nên phải dựa vào lực Kim Thủy để tồn tại. Năm Tân Tị mổ cổ họng vì vận Kỉ Hợi, dụng thần Hợi xuất ra, nhưng gặp Kỉ cái đầu, gặp Tị khắc Hợi, lại hình thành Tị Ngọ Mùi là hỏa Tài khắc Ấn, tức là động đến sức khỏe của mệnh chủ.

Luận hung vận đến đây là đủ, còn mổ xẻ gì thì tùy theo mệnh số mỗi người mỗi khác, có khi là tai nạn, cháy nhà, ảnh hưởng cả cha mẹ (nếu nói Ấn là phụ mẫu), vv. Thường thì khi có thí dụ là đã có kết quả rồi mới đưa ra, nên không thể lấy đó làm khuôn mẫu.

ngocvan
07-05-18, 07:11
tôi nghĩ Hợi là Lộc ( thân thể) của Nhâm nên năm Tân Tị xung vận Kỷ Hợi là chính thân thể nhật chủ gặp nạn không phải là lục thân

jelly
07-05-18, 14:00
Cám ơn ngocvan góp ý kiến. Tôi thì có nói qua, không phải ai cũng bị phạm bản thân, có khi lục thân (can tàng trong những tổ hợp hung) bị họa, như thế mới giải thích được cùng lá số mà nhiều hung sự xảy ra khác nhau.

Tôi thích đoán Cách Cục, Suy Vượng... nên đang xem chương 7. Lại thấy thí dụ "Định trụ giờ" có sai biệt về lưu niên.


5, Làm sao định trụ giờ
Càn tạo: Nhâm Thìn, Canh Tuất, Ất Tị
Đại vận: 4 tuổi Tân Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu, Giáp Dần, Ất Mão
...
Càn tạo ở trên, chỉ có năm tháng ngày, là chọn từ kỳ 1994 trong bài văn 《 Nghiên cứu Dịch Học 》của Ngũ Lâu cư sĩ, trong bài văn nói cho mọi người mệnh chủ bản thân là Thị trưởng, tham ô lớn, năm 1998 (Mậu Dần V) bị bắt lãnh án, năm 1999 bị phán tử hình.
Tác giả cho rằng mệnh chủ sinh ở giờ Tân Tị, phân tích cụ thể như sau: Ất mộc sinh ở trước Lập Đông 12 ngày, đúng lúc Mậu thổ Tài tinh làm chủ sự. Năm tháng có Thìn Tuất tương xung, lại thêm chi tọa dưới Tị hỏa sinh, Tài thổ thái vượng. Nên vì Thị trưởng, bát tự tuyệt đối không sẽ là tiện cách vì Tài đa thân nhược. Xem ba trụ trước dường như là Ất mộc Tòng Tài, nhưng Tài không thấu mà trên lệnh lại thấu Quan, còn có Ất Canh tương hợp, tất hóa thành Quan mà Tòng Quan.
Chi năm Thìn trong tàng Ất mộc là có căn, là bệnh mệnh cục, trước vận Ất Mão, Tuất xung Thìn khử căn bệnh, Ất mộc là chân tòng. Trong đó 34 tuổi tiến vận Giáp Dần, Giáp mộc là kỵ, tưởng tất là lúc mệnh chủ phấn đấu gian khổ, Dần vận thì khác, Dần mộc hình động Tị hỏa, lúc này, trụ giờ là Tị Ngọ hỏa rất dễ dàng xúc tiến thành hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, chuyển triển tương sinh, được trợ hóa thần. Nếu muốn "Hóa tượng là chân", tất phải là giờ Tân Tị mà không phải là giờ Nhâm Ngọ. Mệnh thư nói chân tòng thì quý, cho nên Dần vận tất là lúc mệnh chủ vinh thăng Thị trưởng. Nhưng gặp vận Ất Mão, lại gặp năm Ất Hợi , Hợi xung Tị tiến nhập mệnh cục, đại vận Mão thuận thế cùng Tuất tương hợp giải trừ Tuất xung Thìn, lúc này Ất mộc từ trong Thìn thổ lại dài căn ra, mệnh vận bỗng nhiên lộ ra Tài đa thân nhược. Đại phàm người có Tài đa thân nhược nói chung có tài mà cảm giác là không đủ, không có tài thì vô sự, một khi gặp tài trái lại mà sinh họa. Canh Tân kim lại là gác hai thanh dao ở trên đầu Ất mộc, Ất mộc sao mà cam lòng không theo. Phá thì phá ở năm Bính Tý, Đinh Sửu và Ất Hợi. Canh Tân hóa thủy sinh phù Ất mộc, nhật chủ sai lầm cho rằng bản thân là thân vượng có thể đảm nhận tài, do vậy mà tham tài mang họa.

Những chỗ tôi gạch dưới là tác giả nhầm lưu niên, nhưng vì nhầm nên luận "Hợi xung Tị" là sai.
Vận Ất Mão thì tính đúng, năm 1999 bị hành hình là năm Kỉ Mão, không phải Ất Hợi. Vận này hình thành Mộc vượng thì rõ, nhưng chính vì bản chất bát tự là Mộc nhược tòng Quan Sát (theo tác giả), nên Mộc là kị thần. Khi kị thần thấu xuất ra vận và lưu niên rõ mạnh, tức cũng là một sự phản kháng bản thân, vì nhật chủ là Mộc trong trường hợp này. Thế (lại) nhưng, tác giả cũng nói đúng ở điểm:
Đại phàm người có Tài đa thân nhược nói chung có tài mà cảm giác là không đủ, không có tài thì vô sự, một khi gặp tài trái lại mà sinh họa đó là cái bắt tay của Tuất và Mão (hợp), nhật chủ tham tài lúc này nên mới hoại ấn phá quan, đưa đến hung sự là bị bắt và chịu tử hình.

Cách cục trên theo tác giả là tòng Quan với giờ đoán là Tân Tị, đồng ý, nhưng rốt cục, khi biết hậu quả như trên thì phải công nhận chỉ là giả tòng, không phải chân tòng; bởi vì "giả" nên bản thân và sự việc xung quanh đều theo thời mà hành động, có khi được có khi mất!

thanhien
07-05-18, 15:04
Càn tạo: 14/7/1956
Bính Thân - Ất Mùi - Nhâm Ngọ - Nhâm Dần
Tháng 8 năm 1964 khởi vận :
Bính Thân / Đinh Dậu / Mậu Tuất / Kỷ Hợi / Canh Tý

Bài này tác giả muốn khuyên chúng ta nên chú ý đến Nhận, trong mệnh gặp nhiều Nhận thì có thể phán mệnh này hung, khi thấy Nhận tác kị thần thì có thể phán thẳng không xem đại vận.

Nhật can tạo này là Nhâm thủy được trường sinh ở chi năm, Chính Quan tinh Mùi thổ nắm lệnh. Can năm Bính hỏa, được Nhận ở chi ngày, Ất mộc là Thương quan, ở trụ giờ thấy Dần là tăng lực Thương quan. Can chi toàn cục mạnh mẽ, tầng lớp mệnh chủ đang ở cấp Huyện. Nhưng do bát tự có Thương quan kiến Quan, còn có Ấn Nhận, Tài Nhận, Thương Nhận, hung thần ác sát là quá nhiều. Đây là một tạo sư huynh đã từng đố tôi, tôi đến lần đầu tiên, liền phát hiện Thương quan Ất mộc gặp Dần ở trụ giờ, đoán thẳng mệnh chủ đại hung. Quả nhiên mệnh chủ ở tháng 12 năm Tân Tị, bởi vì giải phẫu cổ họng, mà thành người thực vật.

Vì sao tác giả vừa thấy chi Dần Nhận thì phán quyết mệnh này hung?
Mời các bạn luận giải cho mình học hỏi với :)

lesoi
07-05-18, 20:50
Những chỗ tôi gạch dưới là tác giả nhầm lưu niên, nhưng vì nhầm nên luận "Hợi xung Tị" là sai.
Vận Ất Mão thì tính đúng, năm 1999 bị hành hình là năm Kỉ Mão, không phải Ất Hợi. Vận này hình thành Mộc vượng thì rõ, nhưng chính vì bản chất bát tự là Mộc nhược tòng Quan Sát (theo tác giả), nên Mộc là kị thần. Khi kị thần thấu xuất ra vận và lưu niên rõ mạnh, tức cũng là một sự phản kháng bản thân, vì nhật chủ là Mộc trong trường hợp này. Thế (lại) nhưng, tác giả cũng nói đúng ở điểm:

Nếu tác giả chiếu theo tứ trụ: Nhâm Thìn, Canh Tuất, Ất Tị, Tân Tị. Thì nhằm ngày DL là 26/10/1952, giờ Tị sinh sau tiết Hàn lộ 18 ngày thuộc tháng Tuất là đúng.
Bởi vì những chỗ bạn gạch dưới cho thấy: Nếu lấy giờ Tân Tị, thì vận Ất Mão, kể từ năm 44 tuổi (năm 1995: lưu niên Ất Hợi), năm 1996 là Bính Tý, 1997 là Đinh Sửu, 1998 là Mậu Dần, năm 1999 là Kỷ Mão.
Nếu xét theo cách luận của họ Thái là đúng chứ không sai. Tòng Quan Sát (kim), gặp mộc trát căn tất phải mang họa vậy. Ở trên tác giá lý luận cũng vẫn chỉ là mang tính chủ quan của mình mà thôi, có rất nhiều cách giải khác nhau. Khi học mệnh, tôi vẫn thường nói, sách là sách còn ta là ta. Học là học lý lẽ, còn vận dụng là do mình.

jelly
08-05-18, 11:45
Tôi cũng không chỉ trích họ Thái, chỉ là thấy những điểm cần mang ra bàn luận cùng quan điểm của mình, như vậy tôi cho là vận dụng kiến thức đó bạn.


Vì sao tác giả vừa thấy chi Dần Nhận thì phán quyết mệnh này hung?
Đó là ý kiến của tác giả về Nhận ở đủ các trụ trong tứ trụ, điều này bạn muốn nhớ và kiểm nghiệm thì giữ lấy, còn tôi thì chỉ xem trụ tháng và trụ ngày, vì lấy nhật chủ làm chính. Còn tại sao Nhận lại hung thì đó là cung Đế vượng tức cực vượng, mà vượng quá thì dễ vỡ, kể cả tòng cách.

thanhien
08-05-18, 16:20
Đó là ý kiến của tác giả về Nhận ở đủ các trụ trong tứ trụ, điều này bạn muốn nhớ và kiểm nghiệm thì giữ lấy, còn tôi thì chỉ xem trụ tháng và trụ ngày, vì lấy nhật chủ làm chính. Còn tại sao Nhận lại hung thì đó là cung Đế vượng tức cực vượng, mà vượng quá thì dễ vỡ, kể cả tòng cách.

Tạo này không có thông tin nhiều nên rất dễ tranh cãi về dụng hỉ thần.
Thông tin duy nhất là thuộc cấp huyện nên có thể nghĩ người này quan chức cấp huyện. Nếu là luận thân nhược không thể nào là cấp Huyện được. Vận Mậu Tuất là minh chứng thời kỳ đương số tạo dựng sự nghiệp, Dần Ngọ Tuất tam hội hỏa, Mậu Tuất khắc thủy, luận thân nhược như vậy rất là xấu.

Thực tế mệnh này theo mình là tòng thổ, Ất thấu can không có Tân Canh chế, nhìn địa chi thấy Dần Nhận, tức là kị thần cũng là hung thần không có chế. Ất này trên trụ tháng, thuận hay nghịch chỉ cần giao nhau đến vận Kỷ đều là hung hoặc lưu niên thấu can kỷ cũng sẽ dễ dàng mang họa. Nên khi tác giả thấy Dần nên Ất có căn kình dương nên phán thẳng mệnh này hung.

Còn bàn về lưu niên Tân Tỵ Vận Kỷ Hợi:
Tỵ Ngọ Mùi hội hỏa, Hợi Tỵ xung phá hỏa, Tân Tỵ tự hợp, Tân Bính hợp khiến Hỏa 1 lần nữa tổn thương. Kim hỏa giao tranh đều tổn thương, Tân không chế Ất mộc, Hỏa tổn thương nên không sinh thổ. Ất Kỷ khắc nhau chính là nguyên nhân chính. Dần Thân Tỵ Hợi là xung động phá nhau.
Đây là quan điểm luận tòng thổ.
Bạn nào luận theo thân nhược hay có một phương án nào khác, hãy nói lên suy nghĩ của mình để mọi người cùng thảo luận học hỏi. :)

jelly
11-05-18, 11:59
Thực tế mệnh này theo mình là tòng thổ...
Tôi thấy thanhien luận trong nhiều bài rất tích cực, chi ly từng chi tiết, như các thập thần can chi bày trận trước mắt trên một bàn cờ.... Đôi khi ta luận mệnh gặp vài khúc khó hiểu như thế, nên nếu nói là mệnh này "giả tòng quan" cũng được, vì như vậy mới giải thích được vận Mậu Tuất ở tuổi 28-37 là tuổi thành danh, lên đến cấp huyện. Nhưng nhược vẫn nhược, nên qua khỏi vận này thì sức khỏe bế tắt. Có lẽ nếu ông ta hiểu mệnh thì không ra làm quan, mà làm thầy giáo thì còn sống khỏe chăng.. :)

crystal
24-05-18, 11:42
Theo tôi hiểu thì nó hung vì hội tụ cả 3 Nhận: Ấn nhận và Tài nhận thì chỉ là tiểu hung (ấn và nhận thuộc tứ cát thần tài-quan-ấn-thực), nhưng Thương nhận thì đại hung, bản thân Thương đã thuộc loại hung thần (Kiếp-sát-kiêu-thương). Nếu 1 mình nó thì khó kết luận, nhưng khi 3 nhận đan xen thì lại khác.

sherly
05-10-19, 23:48
Bính Thân - Ất Mùi -*Nhâm Ngọ*- Nhâm Dần
Bát tự này nói ất mộc thấy nhận là hung hoàn toàn đúng. Thứ nhất nguyệt lệnh quan tinh, có thương quan ất mộc che đầu, đắc nhận càng làm phá cục.
Thứ hai, nhâm thủy thân nhược, ất mộc tiết nhâm sinh bính áp chế thân càng làm nhật nguyên thêm mệt nhọc.
Thứ ba, thân kim là nơi phát nguyên của nhật chủ, thấy dần mộc mặc dù xung xa nhưng vẫn tính là có tổn hại (không nhiều).
Còn 1 phần tác giả nói "nhâm thủy trường sinh tại chi NĂM" thì mới đây tôi có tham khảo khi dùng trình quick translator thì có một số người, tôi cũng không rõ có là cao thủ hay không bên trung hoa có áp dụng vòng trường sinh, nhưng không dùng cho chi tháng mà dùng cho chi năm, còn chi tháng dùng vượng tướng hưu tù tử. Một số người việt cũng có dùng cái này.
Tôi cũng không rõ cái lí của phương pháp này lắm, đơn giản là cũng không thấy nhiều ứng dụng của VTS trong luận đoán (đối với tôi)
Sách dự đoán tứ trụ thì dùng VTS cho chi tháng nhìn được lệnh hay không được lệnh, nhưng lúc thì tôi thấy tác giả dùng như đinh sinh tháng dậu thì được lệnh, lúc thì không dùng như canh sinh tháng Tuất là vượng tướng (theo vts là suy địa).
Tôi ngờ rằng đây là kết quả của chuyển đổi từ quẻ dịch sang tứ trụ
Luận quẻ dịch thì vượng tướng hưu tù tử dùng nguyện kiến, còn VTS dựa vào nhật thần. Tuy nhiên quẻ dịch chỉ luận việc nhanh trước mắt, thường là vài ngày, nhiều lắm thì vài tháng chứ khó luận trong vài năm được. Vì thế vai trò của chi năm gần như bị lãng quên
Tuy nhiên sang đất tứ trụ thì việc xem hạn năm lại là quan trọng hơn cả, và cũng để ý thêm 1 điều là lưu niên tịnh tiến theo 1 chiều dựa vào trụ năm, và đại vận tịnh tiến xuôi hay ngược theo trụ tháng tùy vào âm dương nam nữ.

sherly
07-10-19, 17:37
Có 1 đoạn
① Quý Tị, Đinh Tị,*Đinh Mão, Bính Ngọ.
② Quý Mùi, Đinh Tị,*Bính Ngọ, Quý Tị.
Nếu cầm bát tự trụ giờ và ba trụ phía trước lực lượng xem như ngang nhau, kết cấu của hai càn tạo này có thể nói: "Như nhau" . Nhưng mà, hiện thực chính xác là bọn họ có khác nhau một trời một vực. Tạo trước《 Tử Bình chân thuyên 》 bình chú: Nhật nguyên thái vượng, thủ Quý thủy ức chế nhật nguyên làm dụng, hành vận Quan Sát đại phát. Là mệnh tạo của Bộ trưởng giao thông Chu Gia Hoa. Tạo sau《 Trích Thiên Tủy 》 chú thích: …, Ất Mão, Giáp Dần tiết thủy sinh hỏa, ngươi sử dụng mới thêm, vận Nhâm Tý phá nhà người mất. Nhìn hình thức hai tạo mệnh này đều có thể gọi là Quy Lộc cách, hoặc nói là Nhật Lộc quy thời, nhưng đây chỉ là hình thức mà thôi, kết quả như thế nào thì hoàn toàn là ở cách thành hay bại.*
-----------------------
Có lẽ phải nhìn nhận lại một chút về vượng suy
Quý Tị - Đinh Tị - Đinh Mão - Bính Ngọ
Hỏa trong mệnh rõ ràng là vượng, nhưng ngũ âm không lấy dương làm căn. Đinh hỏa ở đây chỉ đắc mão mộc ấn tinh sinh trợ và đắc lộc tại ngọ hỏa. Còn 2 tị thì thành quyền của Bính hỏa, bính đoạt đinh quang, Thân vượng kiếp nhiều dụng quan sát.
Quý Mùi - Đinh Tị - Bính Ngọ- Quý Tị
Mệnh này thì ngược lại, bính hỏa thuộc ngũ dương, lộc nhận đều thuộc sở hữu của nó, là tòng vượng cách, quý thủy là kỵ thần. Đến vận thủy nhâm tý xung vượng thần là nguy

jelly
09-10-19, 12:59
Quý Tị - Đinh Tị - Đinh Mão - Bính Ngọ

Quý Mùi - Đinh Tị - Bính Ngọ- Quý Tị
Hai tạo trên đều có thể tòng vượng khí hỏa, nhưng tạo sau có Tị Ngọ Mùi đậm khí hơn nên phải tòng.
Cũng là so sánh cách thành bại khác nhau, hay.

gemini
12-10-19, 00:25
Tạo Gemini, 2 bác cùng xem là dụng Quan hay tòng: Tân Mùi-Quý Tỵ-Bính Ngọ-Quý tị. Đại vận: nhâm thìn-tân mão-Canh dần-kỷ sửu-mậu tý .

jelly
12-10-19, 12:43
Tạo Gemini, 2 bác cùng xem là dụng Quan hay tòng: Tân Mùi-Quý Tỵ-Bính Ngọ-Quý tị. Đại vận: nhâm thìn-tân mão-giáp dần-kỷ sửu-mậu tý .
Bính Ngọ được "nhật lộc quy thời" ở giờ Tị, đáng lý là dụng Tài Ấn, nhưng địa chi toàn hỏa vượng, nên có thể tòng vượng khí. Bạn có được gia đình hỗ trợ nhiều hay học hành thật giỏi không? 2 vận đầu đánh giá là dưới trung bình?

gemini
12-10-19, 23:30
Bính Ngọ được "nhật lộc quy thời" ở giờ Tị, đáng lý là dụng Tài Ấn, nhưng địa chi toàn hỏa vượng, nên có thể tòng vượng khí. Bạn có được gia đình hỗ trợ nhiều hay học hành thật giỏi không? 2 vận đầu đánh giá là dưới trung bình?
Chính xác là luôn được gia đình hỗ trợ nhiều, về gia đình thì bên vợ-và bên nhà khăn khít như keo sơn, mẹ chồng- con dâu thương nhau như ruột thịt. Về gia đạo thì rất ổn định, chỉ có sức khoẻ của vợ là không tốt, (vợ cao 1m66, xinh đẹp, giỏi dang, học cũng giỏi nhưng sức khoẻ kém).
Học hành thì được đa số thầy cô khen thông minh,trong thời gian học luôn có thành tích, trong công việc cũng như vậy, nhưng vẫn có khuyết điểm tập trung kém,chưa phát huy hết năng lực :(