PDA

View Full Version : Phân tích tượng can chi nghề nghiệp



lesoi
28-07-18, 19:28
Trong tập sách "Tượng Can chi nghề nghiệp" của Đoàn Kiến Nghiệp có ghi lại phần 1-1 nói về người làm ăn mua bán.
Ở VD 1, Làm Công ti tư nhân trang trí hội họa hoa văn có mấy nghìn vạn, tài phú mà có 2 lần hôn nhân.
Khôn tạo: Đinh Dậu, Quý Mão, Đinh Hợi, Bính Ngọ.
Vận: Giáp Thìn, Ất Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi.
7 tuổi khởi vận từ tháng 4.1963.
ĐKN luận cả về nghề nghiệp, lục thân, hôn nhân, công việc làm ăn của nữ này như sau:
Sơ lược lý lịch và phân tích: Học vấn không cao. Bản thân tự mở công ti riêng, làm ăn mua bán bằng nghề trang trí hội họa hoa văn.
Cách cục Bát tự là đảng mộc hỏa đến chế kim thủy tố công, trụ năm Đinh Dậu là bản than tọa Tài, không phải là làm quan. Nhật chủ Đinh sinh ở giờ Bính Ngọ là nhật chủ liền Thể, cho nên phải dụng mộc hỏa tố công. Nguyệt lệnh Quý Mão tuy là đái tượng, là Ấn đội mũ Sát, Hợi Mão hợp đến Chủ vị, nhưng mà Mão Ngọ tương phá, là Ấn Lộc tương phá hư tượng, ở đây Mão là đại biểu sự nghiệp, cho nên tướng mệnh là không thể vào công môn. Tọa dưới Quan bị Lộc hợp, thong thường đều là làm quan, đặc biệt là nữ mệnh. Ở đây Quan Sát chế không sạch thì lấy Tài xem. Bao Cục tốt, tố công cũng lớn, cho nên phát đại tài. Bát tự là Tỉ Kiếp chế Quan Sát tố công, Quan Sát chế không hết lấy Tài xem, cho nên cấp bậc tài phú là khá cao.
Nghề nghiệp: Bát tự là mộc hỏa tương sinh, Bính hỏa rơi đến môn hộ, biểu thị nàng làm ăn là có liên quan cùng nghề trang trí, hóa trang, phương diện văn hóa, bản thân Bính hỏa cũng là xinh đẹp, tổ hợp hỏa thấy thủy, là có ý hóa trang, cho nên nàng là làm công việc phương diện vẽ học công trình kiến trúc, làm trang trí bên ngoài bức tường, vẽ tường, vẽ tranh. Hợi là nước mực, Mão là cây bút.
+ Vận Ất Tị: Vận này thì bắt đầu đầu tư lập nghiệp làm ăn kiếm tiền. Giải thích: Ất đến là Mão đến, Tị Hợi xung chế Quan, Tị Dậu hợp chế Tài, Kiếp tài hợp Tài là đầu tư cầu tài.
+ Vận Bính Ngọ: Vận này tài vận rất tốt, bắt đầu phát tài, sự nghiệp phát triển thuận lợi. Giải thích: Lộc mang Kiếp tài chế kim thủy tố công, Lộc biểu thị là trả giá nhiều phải gian khổ lao lụy, nhưng tài vận khá tốt. Chỉ có Bính Ngọ mới tốt, Kiếp tọa Lộc là bản than đầu tư phát triển sự nghiệp, Bính tọa chữ khác đều là Kiếp tài luận là không tốt.
+ Vận Đinh Mùi: Vận này là vận khí tốt nhất, vận này phát tài mấy nghìn vạn. Giải thích: Đinh Mùi là bản than tọa Thực thần, Mùi đến cũng biểu thị là Đinh đến, Hợi Mão Mùi tam hợp Ấn cục (Bản thân lý giải: Tam hợp đến vị trí Khách, khả năng cũng không phải là đưa lễ đầu cho đơn vị, bởi vì trụ tháng là Quý Mão, Ấn tọa ở trên có Sát là chủ yếu đầu), đơn vị cùng làm ăn mua bán lớn, cho nên vận này phát tài mấy nghìn vạn.
+ Vận Mậu Thân: Vận Mậu phát tài tốt. Giải thích: Mậu Quý Thương quan hợp Sát được Tài. Vận Thân không tốt, vận này không thích hợp việc làm. Giải thích: Thân vượng là kim thủy phá Mão.
Năm Kỷ Sửu 2009: Dự trắc làm ăn không tốt, trả lời là làm ăn không tốt. Giải thích: Sửu đến chẳng khác nào là Thân Dậu đến, phá hỏa, kim mộ, lưu niên không tốt, Sửu Ngọ xuyên Lộc ở phương diện thân thể cũng không tốt.
Năm Canh Dần 2010: Tài vận cũng được, có thể làm ăn tốt. Giải thích: Canh đến hư đại vận Thân, Thân hỉ hư thấu. Tọa Dần mộc Ngọ hỏa trường sinh, hợp Hợi cho nên làm ăn không có vấn đề gì.
Năm Nhâm Thìn 2012: Dự trắc năm này thì không được. Giải thích: Nhâm đến là Hợi đến, chẳng khác nào Hợi chạy đến thiên can hư thấu vốn là hỉ, nhưng ám hợp Đinh hỏa, kỵ Nhâm hợp Đinh. Cũng biểu thị là Thân kim đáo vị, Thìn đến biểu thị kim nhận được bảo hộ, thủy thì nhập khố, làm mờ hỏa, phá cục, (Bản thân lý giải: Thân Thìn củng xuất ra Tý xung phá Hợi Ngọ hợp tố công là kỵ) Mão Thìn xuyên phá Mão, Mão là đơn vị, cho nên không thể tiếp tục việc làm, hẳn là thoái lui dưỡng lão.
+ Vận Mậu Thân: Vận Mậu không tệ, vận Thân không tốt, lại không thích hợp làm ăn. Trong mệnh có tượng nhị hôn;
Hôn nhân: Là mệnh nhị hôn. Giải thích: Hôn nhân lần đầu là Quý Mão, hàng ngày chỉ thấy gây gổ, không có tình cảm; hôn nhân lần 2 là Hợi, Quý và Hợi là 2 người đàn ông, Ngọ là Lộc của Đinh, biểu thị bản thân, Mão Ngọ phá là Ấn mang Sát đến phá Lộc, thuyết minh hôn nhân lần đầu vợ chồng hay cải nhau không có tình cảm. Hợi Ngọ ám hợp, nữ mệnh Quan hợp Lộc thuyết minh là có hôn nhân lần thứ 2 ổn định, cùng chồng có tình cảm tốt.
Đoán nàng là năm Canh Dần mới tìm, là ly hôn chồng đầu mà mang theo một con trai (Bản thân lý giải: Trong Hợi tàng Nhâm Giáp, Nhâm Quan là chồng thứ 2, Nhâm Giáp là một nhà, Giáp là Nhâm sinh ra, là Thực thần của Nhâm, cho nên Giáp là con trai của Nhâm, con trai thích lệ thuộc vào cha, cha cũng cho đứa bé này rất nhiều). Giải thích: Vận Thân, Mão Thân hợp, thuyết minh hôn nhân lần thứ 2 cũng là kết hôn, hôn nhân lần 2 này thì sẽ giữ được. Vận Thân mang Mậu đến, Mậu là Thương quan, là con trai, Bính Mậu là một nhà, Bính ở cung Tử tức; đoán năm Canh Dần kết hôn, Canh đại biểu là Thân đến, Dần Hợi hợp, hợp động cung phu thê và Phu thê tinh, Dần lại là Ấn, đem giấy kết hôn mà kết hôn chính thức.
Lục thân: Bản thân sinh ra con gái. Giải thích: Trong Ngọ tàng Kỷ, Kỷ Thực thần là con gái.

Các bạn thử phân tích xem ĐKN luận lục thân, tài mệnh, hôn nhân theo phương pháp nào vậy?

shanghai
29-07-18, 14:58
Đoàn KN luận tượng nhưng có vẻ gọt khi đã biết đời tư lá số trước bác Lesoi ạ. tham khảo cũng khá ok

lesoi
30-07-18, 13:18
Đoàn KN luận tượng nhưng có vẻ gọt khi đã biết đời tư lá số trước bác Lesoi ạ. tham khảo cũng khá ok
Bạn nhìn nhận vấn đề đơn giản vậy sao?
Các bạn khác có thể cho biết thêm nhận xét về phương pháp luận của ĐKN?

Sau đây tôi đưa thêm một ví dụ cũng ở phần 1:
VD 4: Mệnh người con nhận nghiệp của cha phát tài.
Càn: Giáp Dần, Nhâm Thân, Bính Thân, Tân Mão.
Vận: Quý Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn. Khởi vận lúc 7 tuổi, từ ngày 5 tháng 1 năm 1980.

* Sơ lược lý lịch: Văn hóa trung học đệ nhị cấp, đến vận Tuất năm 1994 năm Giáp Tuất đi ra làm việc, mới bắt đầu là làm công cho người khác, đến vận Ất Hợi năm 1998 năm Mậu Dần bỏ công việc, tiếp nhận chỗ làm ăn mua bán của cha, bản thân cha là mở mặt tiền làm ăn, cho thuê mướn làm xe ô tô, kim loại dùng vật liệu xây cất, mua bán vật dụng, bản thân ông ấy phụ trách kinh doanh quản lý mua bán mấy cửa hiệu mặt tiền, tài vận khá ổn định, có chút tài sản, nhưng không có phát đại tài. Đến vận Hợi năm 2004 năm Giáp Thân, năm 2005 năm Ất Dậu đầu tư bất thuận, làm ăn bị phá ít tài, đến vận Bính cho tới nay, làm ăn bình thường. Đoán hắn ở năm 2008 năm Mậu Tý đầu tư sẽ còn phá tài. Dự trắc vận Tý sẽ đóng cửa hàng vật dụng mặt tiền. Năm 1999 Kỷ Mão thành hôn, hôn nhân ổn định, năm 2002 Nhâm Ngọ sinh con gái, năm 2005 Ất Dậu lại sinh một con trai.
*Giải thích: Bát tự là dựa vào Mão Thân hợp Tài hợp Ấn tố công, môn hộ Ấn mang Tài hợp trên bản thân, Ấn chủ cửa hiệu, Ấn mang Tài tinh hợp bản thân thì hầu như đều là mở cửa hiệu mặt tiền làm ăn. Nguyệt lệnh Tài đội mũ Sát là Tài của cha ông, phục ngâm đến chủ vị, cho nên là thừa kế tổ nghiệp. Trụ năm thấy Dần mộc Ấn tinh là biểu thị trước đây có công việc, Dần Thân xung biểu thị công việc không bền, Mão Thân hợp sẽ chuyển đổi nghề nghiệp, Bính Tân hợp Tài biểu thị là bản thân làm ăn mua bán.
* Nghề nghiệp: Bát tự là Ấn bao trụ Tài cục, Ấn ở năm giờ, bản thân môn hộ chính là tin tức nhà cửa, xe cộ, Thân kim ở Tượng pháp là tin tức xe tải chuyên chở vật dụng thuộc kim xây dựng, đồng thời năm tháng ngày đều là có tượng Dịch Mã phùng xung, cho nên là mở mặt tiền cho thuê xe tải cùng mua bán vật dụng kim loại xây dựng, Tân kim là tú khí thuộc phẩm loại ngũ kim.
+ Vận Giáp Tuất, Mão Tuất Thực thần hợp Ấn biểu thị bản thân muốn cùng tham gia công việc truy cầu, năm 1994 Giáp Tuất là đến ứng kỳ đi làm.
+ Vận Ất Hợi, vận Hợi xấu. Năm 1998 Mậu Dần, Dần Thân xung Ấn, bỏ việc, Dần Hợi hợp, Hợi Mão hợp biểu thị việc làm của bản thân, Hợi biểu thị là Nhâm thủy, cùng Thân là một đảng, Nhâm Thân Sát vượng khắc Bính là một mao bệnh, Nhâm Sát cũng là phụ thân, 2 Sát hợp Ấn tinh cho nên là làm 2, 3 cửa hiệu mặt tiền. Ấn tinh là nhà cửa phải chăng là có mặt tiền ở ngoài cho thuê? --- nhỏ tuổi nhận thầu công việc vật nghiệp, Tân Mão, Mão là Chính Ấn là nhà cửa, Tân là hư Tài là nhà của người khác, bản thân chỉ làm quản lý mà thôi. Năm Giáp Thân, Ất Dậu là Tài xung Ấn, đều có tượng đầu tư, Tài bị chế phục trái lại là chế phá Ấn, cho nên đầu tư sẽ phá tài bất thuận. Năm Ất Dậu, Ất biểu thị Mão mà hư thấu, Dậu Mão xung phá Mão, năm Giáp Thân cũng cùng lý như vậy.
+ Vận Bính Tý, nhật chủ tọa Sát không có chế, vận này không tính là tốt, năm 2008 Mậu Tý là Thực thần hợp Quan, có chút ý là Thực thần chế Quan, cũng là tượng Đầu tư, nhưng không thích có Tý Mão tương phá. Năm 2009 Kỷ Sửu, Giáp Kỷ hợp, Dần Sửu hợp Tài khố hợp Ấn, Sửu đến là Thân đến. Kim loại và xe ô tô là đầu tư làm ăn rất lớn, trụ năm Ấn tinh là Mã tinh, Thân lại biểu thị là tượng xe cộ, cho nên cửa hiệu mặt tiền sẽ mở rộng lớn, nhưng vận Tý phá môn hộ Mão Ấn, môn hộ Ấn mang Tài, Mão là Chính Ấn, biểu thị tượng ở phương diện vật nghiệp, cho nên phá biểu thị là không muốn làm. Cho nên ở 2 bước vận Ất Hợi, Bính Tý đều không tốt, không thể đầu tư cầu tài.
* Hôn nhân: Thân kim là vợ, năm 1998 Mậu Dần tìm đối tượng, Dần Thân xung đến cung phu thê, năm 1999 Kỷ Mão kết hôn, Giáp Kỷ hợp Ấn tinh, Mão Thân hợp động Thê tinh, cho nên làm giấy kết hôn, cung phu thê ổn định, cho nên hôn nhân không có vấn đề, Tân kim là Đào hoa.

Các bạn thấy rất rõ phép luận mệnh của ĐKN khác hẳn với truyền thống về phép đoán Lục thân, cũng như phép dùng Đào Hoa trong mệnh?
Anh ta luận rất linh hoạt trong phép dùng lục thân.

lesoi
04-08-18, 13:07
Tôi thấy các bạn quá ít bình luận, hay là mệnh lý ĐKN quá khó hiểu chăng?
Nhiều người nói mệnh lý ĐKN là "Gọt giày cho vừa chân", nhưng không phải vậy. Bởi vì sách mệnh lý của anh ta rất nhiều, nhưng người đời tìm dịch thì quá ít và quá thiếu.
Trước đây khi chưa nghiên cứu kĩ qua mệnh lý của anh ta, tôi cũng đã từng hiểu lầm. Gần đây tôi xem qua rất nhiều sách của anh ta mới ngộ ra nhiều điều rất hay. Anh ta có phương pháp luận về Lục thân rất linh hoạt (Hoạt pháp) chứ không phải dựa theo ngũ hành sinh khắc rồi đưa ra luận lục thân. Bởi vì trong mệnh không phải lúc nào cũng có đủ lục thân (ngũ hành thiên lệch: hoặc nhiều, hoặc không có), như vậy thì lấy lục thân như thế nào?
Mặt khác, anh ta rất chú trọng "Thể, Dụng", "Chủ, Khách" trong bát tự. Anh ta rất chú trọng Cung vị, còn Tinh vị chỉ xem là phụ.
Nhiều người nói mệnh lý của ĐKN là phế dụng thần, bỏ xem vượng suy. Không phải vậy, tôi xem rất nhiều sách viết của anh ta như: Mệnh lý côi bảo, Mệnh lý trân bảo, Tài liệu Khẩu quyết của Hác Kim Dương, Hác Kim Dương giảng nghĩa mệnh lý Manh phái, Mệnh lý Manh phái (Hình Tú Phân, ĐKN giảng nghĩa) ... Đặc biệt gần đây trên các mạng có đăng tải tài liệu "Sơ,Trung,Cao cấp mệnh lý Manh phái của ĐKN", nhưng tài liệu này quá thiếu không đúng nguyên bản của nó, mặt khác người dịch quá thô sơ khiến cho người đọc dễ ngộ nhận. Tiếp theo là sách dịch "Tượng can chi nghề nghiệp" mà bạn ngocvan có đưa lên, tôi xem cũng giống như dịch giả trước đây còn quá thiếu và dịch quá thô cũng khiến cho người đọc dễ hiểu sai lầm mệnh lý của ĐKN.
Tất cả những quyển sách tôi nêu ở trên đều được cô đọng và giải thích qua tài liệu Sơ, Trung và Cao cấp của ĐKN chính truyền cho các đệ tử thông qua các khóa giảng dạy ở Đại Liên, Tế Nam, Cáp Nhĩ Tân, Diêm Thành và khóa giảng ở Bồng Lai đường học.
Manh phái ĐKN vẫn lấy Dụng thần là then chốt khi luận mệnh, dùng vượng suy để lý giải mệnh chủ khi đảm nhận Tài tinh. Tuy nhiên, hệ thống Manh phái của ĐKN là không chú trọng lúc nào cũng nhìn vào vượng suy, dụng thần, mà họ lấy tất cả 8 chữ (bát tự) ở trong tứ trụ xem nó quan hệ sinh khắc chế hóa như thế nào để làm ra khái niệm "Công thần" và "Phế thần", xem năng lượng và hiệu suất tác dụng của chúng nó cao hay thấp mà luận mệnh, thậm chí nhiều lúc bỏ qua dụng thần và vượng suy vẫn đi đến kết luận. Họ hoàn toàn phù hợp với mệnh lý chính tông chứ không hề khiên cưỡng chút nào.
Trong sách viết của ĐKN luôn chú trọng ngũ hành sinh khắc hội hợp, xem công của chúng lớn hay nhỏ mà bình giải.

Tôi ví dụ qua tập sách "Bí cấp luận mệnh của ĐKN", ở phần tìm dụng thần cho các bạn xem:
Nguyên văn lời dịch của tôi ở Kỳ 7 trong tập sách này là:

Kỳ 7, Biện thức học tập Mệnh lý chân giả
Thường có nghe học viên nói, học tập mệnh lý hơn 10 năm thậm chí mấy chục năm, hàm thụ lớp học cũng tham gia không ít, thì vẫn chưa thể đoán mệnh được, trái lại càng học càng hồ đồ. Nguyên nhân căn bản chính là học viên không biết mệnh lý chân giả, bởi vì quá nhiều "Đại sư", thuyết pháp không đồng nhất, không biết ai đúng ai sai. Có thể ở xung quanh ta có vài người yêu thích mệnh lý, học có 2 năm, mới học thời gian rất ngắn hơn nửa năm, vừa cầm mệnh lên liền có thể nói được một hai, thì giống như bạn đồng học của tôi là một người học mệnh nghiệp dư.
Có một ngày tôi cầm một mệnh: Kỷ Mão, Nhâm Thân, Bính Ngọ, Tân Mão, hỏi tình huống cha mẹ của đứa trẻ này, anh ta vừa nhìn liền nói là một đứa con riêng, anh ta học mệnh mới hơn nửa năm. Có ai có thể đủ giải thích rỗ chỗ mệnh này tại sao là một đứa con riêng chứ?
Tôi nhìn thông qua bài tập của học viên, phát hiện có rất nhiều học viên giải thích mệnh lý không đúng, dĩ nhiên là có nhiều thành phần, có thể thấy ở lúc đọc sách không có đủ năng lực biện luận mệnh lý chân giả. Trong tay tôi có rất nhiều tài liệu mệnh học, tiện lật ra mấy quyển, bên trong giải thích mệnh lý sai đầy dẫy, nhân tiện tôi đưa ra mấy ví dụ.
1, Càn tạo: Tổng thống nước Mỹ Bill Clinton:
Bính Tuất, Bính Thân, Ất Sửu, Mậu Dần.
Đại vận: Đinh Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão.
Vận Tân Sửu, năm Nhâm Thân, chọn làm Tổng Thống, năm Bính Tý được bình chọn tiếp. Dụng thần bát tự này là cái gì? Nếu như nói dụng Bính hỏa, tại sao sẽ ở đại vận kim thủy vượng là cát chứ? Nếu như nói dụng kim thủy, bát tự không có thủy, dụng thủy là không thành lập; lý do dụng kim cũng sẽ không đầy đủ. Thực tế dụng thần mệnh này vẫn là Bính hỏa, thành Thương quan khử Quan cách, tất hành vận Quan mới có thể làm quan, đây là phép xem ứng kỳ đại vận tác dụng. Giống như trước đây tôi kiến lập ví von, chỉ có lúc chờ đợi kẻ bại hoại xuất hiện, cảnh sát mới có thể bắt được. Nếu như kẻ bại hoại không xuất hiện, thì cảnh sát chỉ là kẻ vô dụng. Khắc chế là ở vận Nhâm Dần lại không thấy Quan Sát tinh, thì Thương quan không có đất dụng võ, thì sẽ không có làm quan.
1, Người dụng Thương quan thông thường là tự mình lên đài để lật đổ người khác;
2, Thương quan thấu can có tính cách đều rất khoe khoang, Thương quan lại tượng trưng dân chủ và tự do, thấu lộ Thương quan chế Quan cách rất rõ ràng là biểu thị người dân tuyển chọn là lĩnh đạo quốc gia.
Rất nhiều sách nói, phùng thiên khắc địa xung, tuế vận cùng lâm, Chinh Thái tuế, Thương quan kiến Quan, tam hình có đủ … đều là năm gặp hung họa, người võ đoán đơn giản như vậy là không hiểu mệnh lý có dụng ý khác để hù dọa người đời. Học viên ứng dụng đều đa số không nghiệm. Mệnh lý vật căn bản nhất là ngũ hành sinh khắc cùng hình xung hóa hợp, mà không phải là thuật ngữ thần sát cùng tính võ đoán. Cho nên, chủ trương của tôi là học viên phải nghiêm túc đọc nghiên cứu 《 Trích Thiên Tủy 》, ra sức bỏ đi những tài liệu mệnh học khác, nhất là nghênh tiếp chỗ gọi là đại sư môn.
Bài tập: Mời tìm ra dụng thần mấy bát tự dưới đây, cùng nói ra lý do?
1, Càn tạo: Nhâm Thìn, Quý Mão, Mậu Thìn, Bính Thìn.
2, Càn tạo: Kỷ Mão, Đinh Sửu, Canh Tuất, Canh Thìn.
3, Càn tạo: Canh Tuất, Tân Tị, Bính Thìn, Ất Mùi.
4, Càn tạo: Mậu Dần, Giáp Dần, Giáp Tuất, Giáp Tý.
5, Càn tạo: Canh Tý, Canh Thìn, Canh Thìn, Mậu Dần.


Ở phần này, đủ thấy ĐKN rất chú trọng đến tìm dụng thần. Vậy các bạn có thể tìm ra dụng thần các mệnh này hay không? ĐKN cho rằng đối với học viên việc tìm được dụng thần >90% thì đã tốt nghiệp bậc Tiểu học đấy.

lesoi
05-08-18, 09:47
Sau đây là phần đáp án của ĐKN:
Tìm Dụng thần:
1, Càn tạo: Nhâm Thìn, Quý Mão, Mậu Thìn, Bính Thìn.
Tạo này rất dễ dàng sai lầm chính là vì cho rằng tạo này thổ đa thân vượng mà dụng tài. Thực tế Thìn là thấp thổ, là bãi bùn, không có cách nào trợ thân, đem Mão Thìn xuyên phá, dụng hỏa Tài là giải đúng. Hắn là bạn của tôi, cũng làm Dịch kinh. Năm Quý Dậu từ một ông chủ xí nghiệp trở thành mệnh nghèo nàn, năm Mậu Dần Bính hỏa trường sinh, kiếm không ít tiền. Cùng một vị có ngày sinh giống hắn chỉ khác sinh giờ Tị, đầu thập niên 90 cùng biết nhau với hắn, đã trở thành một trương khu ở tỉnh Thiên Tân. Là do dụng thần cường vượng. (Chú thích: Mậu thổ sinh mùa xuân cùng sinh mùa thu thông thường đều dụng hỏa, rất thích Bính hỏa.)

2, Càn tạo: Kỷ Mão, Đinh Sửu, Canh Tuất, Canh Thìn.
Đại vận: Bính Tý, Ất Hợi, Giáp Tuất, Quý Dậu, Nhâm Thân, Tân Mùi, Canh Ngọ.
Đây là bài văn của Cừu Phủ Toàn tiên sinh phát biểu trên mạng, ông ta phân tích mệnh lý cho rằng: Tháng 12 kim là hàn kim, cần hỏa làm ấm, hỏa là dụng thần điều hậu. Thổ kim là kỵ, thủy là Nhàn thần. Theo lý luận của tôi, tạo này Đinh hỏa tọa dưới hàn thổ, căn bị xung hình phá hư, Mão mộc không cách nào đến sinh, hỏa vô dụng, tất Tòng Lộc dụng thấp thổ và kim, cùng mệnh của Vương Lập X tiên sinh rất giống nhau. Rốt cuộc là ai đúng, xem quá trình trải qua của hắn thì biết.
Hắn tự nói ra: từ 1~10 tuổi lúc nhỏ thường sinh bệnh ngoài da, ác tật, thành tích học tập ít tốt. Từ 11~20 tuổi hơi tốt, học tập cùng thân thể đều chuyển tốt, năm Bính Thân đi lính, sau khi nhập ngũ liên tục phát biểu tác phẩm văn học. Năm Kỷ Hợi nêu văn chương đắc tội lãnh đạo, mất đi cơ hội vào Đảng, giải ngũ. Từ 21~30 tuổi là những năm đa tai đa nạn trong đời, năm Nhâm Dần từ biên tập ở trường đại học trở về nông thôn làm thầy giáo dân gian, bị chỉnh đốn bới cách mạng văn hoá, năm Kỷ Dậu mẹ mất. Từ 31~40 tuổi 10 năm vận mệnh có cơ chuyển, làm tác phẩm văn học, phát biểu luận văn giáo dục xuất bản báo chí ở toàn quốc. Từ 41~50 tuổi cát, năm 1980 Canh Thân từ làm việc dân chuyển làm việc công, năm 1981 từ trường trung học thị trấn điều về cơ quan giáo dục ở huyện thành. Năm Bính Dần, Đinh Mão nhận thưởng tiểu thuyết toàn quốc, toàn gia đình làm nông chuyển thành không làm. Từ 51—60 tuổi, là những năm có tài vận khá nhất trong cuộc đời, nhưng năm 1990 bị lừa gạt, bị người âm thầm chỉnh đốn, đồng thời năm này điều đến làm phụ trách báo xã, xuất bản tiểu thuyết, nhưng có người công kích tiểu thuyết của hắn là độc hại, cuối năm bị miễn chức. Cừu tiên sinh lấy năm Bính Dần, Đinh Mão là cát thì cho rằng hắn dụng mộc hỏa, thực ra đây là đại vận Nhâm Thân là một loại ứng kỳ khử lưu niên kỵ thần luận cát. Đại vận Bính Tý, Bính hỏa kỵ, Tý thủy cũng kỵ, hơn nữa Tý Sửu hợp bán dụng thần Sửu, cho nên không cát; Ất Hợi tuy không tính là vận cát, nhưng không làm tổn dụng thần thổ kim, bình thường, Giáp Tuất rất xấu, Giáp mộc sinh trợ kỵ thần Đinh, Tuất thổ xung khử dụng thần Thìn, nào có được ngày tốt chứ? Vận Quý Dậu chuyển tốt, vì Quý thủy khử Đinh kỵ thần, Dậu kim khử Mão mộc kỵ thần. Vận Nhâm Thân, Nhâm khử Đinh, nhật chủ đắc Lộc là vận khí tốt nhất. Vận Tân Mùi không phải là tính tốt, chỗ nói tài vận chuyển tốt cũng chỉ là tăng thêm tiền lương, thu nhập của nhân dân toàn quốc đều gia tăng. Năm Canh Ngọ, Ngọ Mùi hợp bán Quan kỵ thần, có cơ hội đề thăng, nhưng đại vận lưu niên đều có nhập vào đất ấm, mộc phùng đất ấm tất sẽ phát triển, cho nên sẽ bị mắc lừa do tiểu nhân ám hại. Nếu căn cứ lấy hỏa làm dụng thần, kim làm kỵ thần. Vận Giáp Tuất mộc sinh hỏa, hỏa thông căn phải là cát nhất, vận Nhâm Thân phải là xấu nhất, có thể thấy người hiểu mệnh xác thực là không nhiều.

Còn lại các bài tập khác để lại cho các bạn suy xét.

hduong
01-11-19, 03:35
Em muốn xin lại link sách Tượng can chi nghề nghiệp.
Em tìm mãi vẫn không ra, không biết đã xem ở mục nào.
Anh/chị nào thấy giúp em link lại với ạ.

Vonga
01-11-19, 23:04
Em muốn xin lại link sách Tượng can chi nghề nghiệp.
Em tìm mãi vẫn không ra, không biết đã xem ở mục nào.
Anh/chị nào thấy giúp em link lại với ạ.

Bạn xem đây có phải cái bạn cần không :emoticon-0162-coffe

https://www.mediafire.com/folder/fpo9x3qgfs41s/

jelly
28-11-19, 13:07
Giống như trước đây tôi kiến lập ví von, chỉ có lúc chờ đợi kẻ bại hoại xuất hiện, cảnh sát mới có thể bắt được. Nếu như kẻ bại hoại không xuất hiện, thì cảnh sát chỉ là kẻ vô dụng.
trong tất cả lý luận của Manh phái, câu này là hay nhất và có lý nhất!