View Full Version : Các ví dụ của Thiệu Vỹ Hoa
1.Khôn tạo*
Thực---------Tài ---------Nhật ------------Tài
Canh Thân ---Quý Mùi ---Mậu Thân---Quý Sửu
------c=thực -------kỷ=kiếp-----c=thực------kỷ=kiếp
------m=ti ----------ất=quan----m=tài--------q=tài
------nh=tài---------đ=ấn-------nh=tỉ---------t=thương
Vận:
Nhâm ngọ--tân tị----canh thìn---kỷ mão--mậu dần---đinh sửu---bính tý---ất hợi
Tài --------thương---thực ------kiếp -----tỉ ---------ấn -------kiêu ------quan*
9-----------19---------29-------39-------49---------59-------69---------79
Nhật can Mậu ,sinh tháng Mùi là suy địa không được lệnh .Ở trụ giờ tuy có Sửu thổ giúp thân ,nhưng Thực vượng sinh Tài mà thân lại nhược .
Dụng thần phải chọn là Kiếp tài Kỷ thổ vượng để giúp thân thắng Tài .
Tuổi thơ gặp vận Tài thì thân thể có tật ,không lợi cho mẹ ,khốn khó điển đảo .
Sang Thương -Thực vận cũng là bại vận .
Mãi đến vận Kiếp tài Kỷ Mão 39 tuổi,dụng thần lên ngôi mới mở mang được ,trở thành người giàu có .Trung ,hậu vận rất tốt .
Bình: đây là ví dụ rõ ràng cụ Thiệu xem vận trọng can, dùng vòng trường sinh của nhật can với nguyệt lệnh. Vì nhận xét thân nhược dụng thổ hỏa, cho nên từ vận kỷ mão trở đi, dụng thần lên ngôi mới tốt.
2.Khôn tạo*
kiếp ------------kiếp ------------nhật -------tài*
Giáp Tuất ----Giáp Tuất -------Ất Hợi ----Mậu Dần
-------m=tài -----------m=tài------nh=ấn-------g=kiếp*
-------t=sát ------------t=sát------g=kiếp------b=thương
-------đ=thực-----------đ=thực-----------------m=tài
Vận*
Quý dậu ----nhâm thân----tân mùi----canh ngọ----kỷ tị -----mậu thìn----đinh mão ----bính dần
Kiêu --------ấn -----------sát --------quan -------tài -------tài ----------thực ----thương*
8------------18------------28---------38----------48--------58-----------68-------78
Người này hơn nửa cuộc đời trắc trở ,đến khi dụng thần lên ngôi mới thoát ra được .
Ngày Ất ,sinh tháng Tuất là cư mộ địa ,Kiếp tuy không vượng ,nhưng có gốc ,lại nhiều.Thân nhược có Kình trợ giúp (Dần) ,lại còn Ấn sinh nên trở nên vượng .
Tứ trụ nàychưa mất cái quý :Tài nhiều mà có gốc ,ngũ hành sinh khắc có tình cho nên rất giàu có ,cũng rất từ bi ,giàu sang ,công danh đều có .
Dụng thần là Chính tài Mậu thổ áp chế Ấn ,khiến cho Sát không sinh không nổi Ấn ,lại làm hao tổn thân vượng ,cho nên dụng thần này đạt được cả 3 mục tiêu .
Cân bằng sinh khắc của ngũ hành không tốt lắm .Nếu sinh khắc chế hóa có tình ,dụng thần có lực ,hơn nữa ,mỗi ngũ hành đều phát huy được chức năng của nó mới là tốt .
Sát vượng sinh Ấn lại có Kình dương là công danh rất cao và không dễ bị mất .Dụng thần tài tinh ở đây chỉ có tác dụng cân bằng mệnh cục ,vì Sát vượng ,Ấn vượng ,lại có Kiếp ,Kình giúp thân ,thân quá vượng để dùng được Tài .Tài nhiều và có gốc ,cho nên dù gặp bại vận cũng khó mà sụp đổ .
Người này hay tích đức ,làm việc thiện ,là hậu duệ của bậc trung liệt ,yêu nghệ thuận ,nhưng vì gặp kị vận nên không nổi tiếng .
Các vận đầu Kiêu Ấn nên sức khỏe yếu : đó là vì thân vượng phản khắc trở lại .
Sát vận chỉ vì sinh Ấn nên thân càng vượng ,vận chế áp thân nên dẫn đến tai họa : gặp thời cách mạng văn hóa ,nhà bị lục soát mấy lần.Người này gặp năm bị Kình dương xung ,tai họa cực xấu:ngồi tù ,ứng vào năm hung sát Tuất gặp Hợi(người tuất gặp hợi hay người hợi gặp tuất là thiên la địa võng).
Quan vận thì ngồi trong tù không lấy được chồng(chứ không phải khắc chồng): ngồi tù mất 19 năm.Cái tốt là vì có tài nghệ trong tay nên mọi người nể phục ,không những không uổng phí ,mà còn mài ý chí sắt đá .
Khi vận Kỷ Tị đến ,cũng là lúc xung khai Hợi :mây mù tan hết ,vừa ra tù ,vừa gặp may liên tục .
Sang vận Chính tài Mậu Thìn là vận dụng thần lên ngôi : tài hoa phát triển,công danh lừng lẫy,giành được người đứng dầu cuộc thi thế giới,được các vị lãnh đạo cao nhất nước tiếp kiến.
Về già gặp vận hỷ thần :công danh lợi lộc đều có ,phúc thọ mãi cho đến lúc mất*
Bình: thực tế đọc sách cụ Thiệu nhiều lúc thấy khó hiểu. Tứ trụ này không có sát, nhưng lại luận sát vượng sinh ấn (tân kim quan đới tại tuất sinh nhâm thủy quan đới trong hợi?). Cụ thiệu luận gần như vứt béng cái địa chi đại vận đi, cái mà quan trọng nhất trong luận vận của các sách tử bình kinh điển?
Bình: thực tế đọc sách cụ Thiệu nhiều lúc thấy khó hiểu. Tứ trụ này không có sát, nhưng lại luận sát vượng sinh ấn (tân kim quan đới tại tuất sinh nhâm thủy quan đới trong hợi?). Cụ thiệu luận gần như vứt béng cái địa chi đại vận đi, cái mà quan trọng nhất trong luận vận của các sách tử bình kinh điển?
Bạn đã biết, mọi người cũng biết cách luận của cụ Thiệu rồi, nói chung cách luận "Vượng, Suy" là không chỉ lấy nhật nguyên mà luận. Phép luận toàn diện là luận đủ 8 chữ trong tứ trụ, xem ngũ hành sinh khắc chế hóa mới là luận mệnh chân chính. Các bạn để ý ngay cả luận "Thần Sát" cũng chính là do ngũ hành sinh khắc mà cổ nhân đặt tên để cho dễ nhớ mà thôi.
Để hiểu cách luận vs của Thiệu Vĩ Hoa là phải bỏ hết luận Cách Cục; chả có gì trừ sinh khắc biến hóa của ngũ hành.
Tứ trụ này có Sát và Ấn, Sát là Tân trong lệnh tháng, Ấn là Hợi thủy, cả hai đều tàng trong địa chi, không lộ mới không bị chế hóa, cũng là biểu thị tính chất can cường, kiên tâm chờ thời thì dụng được. Mộc và Thổ ngang nhau nên đối đầu tốt nhất.
Thật ra thì có để ý đến địa chi đấy chứ, như vận Kỉ Tị thì Tị xung Hợi là nói tới địa chi, phần này không kém quan trọng.
Mậu Thìn thì xung 2 Tuất, lúc này thổ vượng cao điểm. Nhưng cũng không rõ là nhân tài nào?
Nói chung trong sách của cụ Thiệu sai sót rất nhiều chứ không chỉ có một vài ví dụ kể trên. Nhưng dẫu sao sách của cụ Thiệu cũng có công giúp cho người yêu thích mệnh lý Tử Bình ở nước ta bước vào nhập môn rất nhiều.
Theo tôi thì là cụ Thiệu Vỹ Hoa giấu nghề thôi, căn bệnh kinh điển của văn hóa đông phương.
Ví dụ chương về hợp hóa, thì đoạn đầu viết là chỉ cần thiên can dẫn xuất thì có thể hóa. Nhưng khi đọc kỹ thì có 1 chút khác biệt giữa lục hợp và tam hợp hội
Lục hợp chỉ thành hóa khi hóa thần nắm vượng tướng ở nguyệt lệnh (vượng tướng hưu tù tử) và có thiên can dẫn xuất
Còn tam hợp, bán hợp, tam hội chỉ cần thiên can dẫn xuất mà thôi.
Cái lý của lấy can làm trọng khi xem đại vận theo tôi chỉ trừ khi chi đại vận nó không ảnh hưởng quá tiêu cực đến mệnh thôi. Ví dụ dụng thần là thân kim ở nguyên cục, nếu đại vận gặp canh thân dĩ nhiên là tốt, nhưng nếu gặp canh dần thì có thành quả sau mất hết, vì dần xung thân. Cái này cũng giống cái lý của ông Đoàn kiến nghiệp, khi chi đại vận không tác động gì đến nguyên cục thì nó không có ý nghĩa tốt xấu gì cả.
Thái tuế nó cũng vậy, cũng trọng thiên can, chỉ trừ năm nào địa chi có sự ảnh hưởng đến nguyên cục, đại vận thì cách xem có khác.
Theo tôi thì là cụ Thiệu Vỹ Hoa giấu nghề thôi, căn bệnh kinh điển của văn hóa đông phương.
Vậy thì bạn đưa dẫn chứng ra làm gì để mọi người suy luận?
Về hợp hóa, rất nhiều sách viết, nhưng khi ứng dụng vào thực tế có hay không có thì còn rất nhiều bàn cải khác nhau, theo tôi thì không có chuyện ngũ hành nguyên mệnh lại hóa thành ngũ hành khác. Tính cách con người đã được chú định trong nguyên cục, cho dù có ảnh hưởng bởi môi trường và xã hội, bản chất vẫn không thay đổi. Cha ông từng nói: "Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời" là vậy.
theo tôi thì không có chuyện ngũ hành nguyên mệnh lại hóa thành ngũ hành khác.
còn chuyện thiên can hợp hóa như giáp kỉ hóa thổ thì bạn nghĩ sao?
còn chuyện thiên can hợp hóa như giáp kỉ hóa thổ thì bạn nghĩ sao?
Nói chung, thiên can hợp hóa cũng vậy, hợp thì có nhưng hóa thì rất khó, không dễ gì thay đổi bản chất ngũ hành nguyên mệnh.
Tôi thì nghĩ đơn giản.
Thiên can sinh khắc không bao gồm nghĩa chuyển hóa. Ví dụ nói quan sinh ấn, ấn sinh thân thì đây là mối quan hệ cộng sinh cùng tồn tại. Ấn thấu sinh thân là để bảo vệ thân khỏi sát, chế thương. Nó tồn tại độc lập với tác dụng như vậy. Ví dụ ta là vua, thì ấn như lính canh cổng, thương sát như là cướp nhưng thấy lính thì cũng không dám làm gì vua.
Địa chi thì khác, địa chi là hội hợp và chuyển hóa. Điều kiện duy nhất của hợp là hóa thần phải vượng tướng ở nguyệt lệnh. Khi hợp được, thì mọi tạp khí sẽ biến mất chỉ còn lại duy nhất hóa thần mà thôi. Ví dụ thương quan mà hợp thành tài cục thì giống như 1 anh kiêu ngạo, chỉ biết mình nay lại chí thú làm ăn, lại trở thành một thương gia (tài). Nhưng anh thương gia này có nộp thuế cho vua (nhật chủ) hay không thì lại phải xem anh có thấu can hay không. Anh không thấu thì giống như vua cai trị nước giàu nhưng chúng nó toàn trốn thuế :)) đến vận thấu can thì chúng nó bị tóm phải đóng thuế, lúc đó thì ngân khố của vua lại đầy :))
các tái bản mới của cuốn dự đoán theo tứ trụ và 1 số sách khác rất đề cao Chi Ngày trong cách xem vượng suy của Nhật Chủ.
lấy nguyệt, thời lệnh làm thời gian, nhật chi là không gian.
ví dụ nhật can thất thời suy khí ở cả tháng và giờ nhưng liền căn vượng tại nhật chi thì vẫn vượng bình thường. mùa đông đốt sưởi vẫn ấm, mùa hè bật máy lạnh vẫn mát như thường.
đắc lệnh chẳng vượng, thất thời chẳng suy là vậy.
phần nhiều các bát tự có chi ngày như thế thì nó được coi là cơ giam hay điểm mấu chốt của mệnh cục, tối kỵ gặp xung khắc.
vd: giáp mộc sinh tháng ngọ hỏa, chi giờ tị, ngày tọa thìn thổ, thì thìn thổ này hối hỏa tích thủy dưỡng mộc, thìn là cơ giam, tối kỵ gặp dậu, tuất. thìn không bị tổn thương có thể nói là mệnh cục rất tốt, lại còn được phu thê trợ giúp.
hoặc trụ ngày Nhâm tý sinh tháng tị, giờ dần thì tý được coi là cơ giam của mệnh cục vừa trợ nhâm, vừa điều hậu giải hỏa viêm thổ táo, gặp ngọ xung, mùi hại là rất xấu làm sụp đổ toàn bộ mệnh cục, nhẹ thì phá sản, gãy đổ công danh, nặng thì ảnh hưởng tuổi thọ.
nghề chơi, thật là lắm công phu -_-
Ngọ mùi, hợp hóa thổ hay hỏa.
Đó là sự hợp cả hỏa và thổ. Đinh hỏa trong ngọ tăng lực nhờ dung hợp đinh hỏa trong mùi, kỷ thổ trong mùi tăng lực nhờ dung hợp kỷ thổ trong ngọ, duy chỉ có ất mộc là bị hóa đi mất tức ngọ mùi đều tăng lực.
Vì thế có sách cho là hóa hỏa, có sách cho là hóa thổ, có sách lại cho rằng hợp mà không bao giờ hóa (hợp hóa thái âm, thái dương)
Nguyên nhân của sự không thống nhất này là do thổ ký gửi ở hỏa (vượng tướng ở đất hỏa vượng). Các thầy xem mệnh gặp hợp hóa này thì nã thực tầm hư, nã hư tầm thực, cần thổ thấy tượng cát thì cho là hóa thổ, cần hỏa thì cho là hóa hỏa, cần chế mộc thì cho là hợp không hóa (khử bì).
Sách manh phái cho rằng ngọ mùi hợp là tạo công kém nhất, vì nó là hợp sinh có lợi cả hai bên, 5 cặp nhị hợp còn lại không như thế, không chế thì cũng hóa.
Các sách tái bản mới Dự đoán theo tứ trụ đã đưa phần cách cục làm rõ hơn.
Tứ trụ chỉ có bát cách và vài ngoại cách, ngoài ra các cách cục kiểu thực thần đồng khoa, phi thiên lộc mã, nhâm kỳ long bối... là những cách cục trong các sách ngày xưa, thời này thì họ vẫn lấy trụ năm làm hạt nhân luận mệnh, đọc mấy sách kiểu tam mệnh thông hội, cùng thông bảo giám mà không thông điều này thì đọc không hiểu một chút gì cả, khó áp dụng.
Sách vượng suy ngày nay đem cách cục chỉ chú trọng nguyệt lệnh, đem thấu can hội chi mà cách thành hay bại, thành thì phú quý thành đạt, bại thì không bần thì yểu, dù vận tốt cũng khó thành đạt lớn. Ngay cả với phép xem điều hậu với trụ ngày là trung tâm cũng chỉ chú trọng mùa đông, hạ với thuỷ, hoả, điều hậu pháp liên quan trực tiếp đến thọ yểu con người, có một số nghiên cứu chỉ ra rằng người sinh vào mùa xuân, mùa thu thường có tuổi thọ cao hơn hai mùa còn lại, có lẽ liên quan đến điều hậu dụng thần.
Thiên can định phú quý
Đây là chỉ cách cục thấu lên thiên can, không cần biết nông sâu nặng nhẹ, chỉ cần các tổ hợp này trong sáng là đã mang sẵn mệnh thành đạt.
Các tổ hợp tốt đó là quan sát ấn tương sinh, thực thương sinh tài, tài vượng sinh quan, thực thần chế sát, thương quan bội ấn, thất sát ngộ kình dương...
Bill gates thương quan sinh tài
Bloomberg thực thần sinh tài
Lý gia thành quan ấn tương sinh
Mao trạch đông sát ấn tương sinh
Tưởng giới thạch thương quan bội ấn
Mark zuckerberg sát nhận tương tề.
Khang hy, càn long cũng đều là sát nhận
Ung chính thương quan bội ấn
...
Từ cổ chí kim đều vậy, chỉ cần can đầu thấu thanh tạo cách cục trong sách là mệnh đã mang sẵn yếu tố phú quý, còn phú quý được không thì lại phải nhìn vào vận hạn và dụng thần, ví dụ dụng thần không có lực, vận hạn không ủng hộ thì khác gì tài mà không gặp được thời, xe pháo chuẩn bị đầy đủ mà lại là thời bình.
Các tổ hợp xấu thì luôn gặp chuyện không hay, vận hạn chuyển dịch vô thường, đó là
Thương quan kiến quan, tài tinh khắc ấn, tỷ kiếp đoạt tài, kiêu thần đoạt thực. Gặp tổ hợp này thì dễ gặp phải hoạn nạn, dù vận tốt cũng chỉ được no cơm ấm áo, không có khí chất phú quý.
Các sách huyền học nói chung và tứ trụ nói riêng đều có cái tật cố hữu là chỉ nói một phần, phần còn lại thì hoặc là gặp trực tiếp, bỏ tiền ra học hỏi, hai là tuỳ ngộ tính mà hiểu được.
Sách hay cho là, bát tự tài nhiều thân nhược gặp tỷ kiếp thì phát tài. Nói thế thì cũng đúng nhưng không đủ, nguyên mệnh bát tự tài nhiều và vượng thì đến vận tỷ kiếp sẽ phát, nếu tỷ kiếp xuất hiện đoạt tài trong nguyên cục, là mệnh cục hay bị mất tiền, bị cướp, dù có đến vận tỷ kiếp cũng chỉ khá hơn một chút, tình trạng xấu vẫn luôn xảy ra.
Hoặc ấn nhiều và vượng, gặp tài sẽ phát, thì tài chỉ xuất hiện ở vận thì tốt, còn nguyên cục nếu xuất hiện sẽ là tham tài mà hoại ấn, phá hoại cách cục không phú cũng không quý, dù đến vận tài, đất tài vượng tướng cũng chỉ khá hơn một chút mà thôi.
Cách cục thành bại cứu ứng
Tỷ kiếp đoạt tài lại thấy quan sát
Thương quan kiến quan lại thấy tài
Kiêu thần đoạt thực gặp tỷ hoặc gặp tài
Tài tinh khắc ấn gặp quan
Đó là những cách tưởng xấu mà được cứu, chuyển bại thành thắng.
Quan sát ấn tương sinh mà hỗn tạp, gặp thương
Thực thần chế sát mà gặp tài
Sát nhận gặp thực
Tài vượng sinh quan mà gặp tỷ kiếp
Thương quan bội ấn mà gặp quan
Đây là cách tưởng tốt mà bị phá hại, chuyển thắng thành bại.
Ngũ ngôn độc bộ có nói
Hữu bệnh phương vi quý, vô thương bất thị kỳ
Thực ra với câu này phải hiểu rất cẩn thận, tứ hung thần, tứ cát thần xem khác nhau chứ không phải xem bát tự cứ chăm chăm đi nhìn bệnh mà không nhìn sự thuần khiết của tứ trụ.
Ví dụ 1 mệnh thuộc tòng cách, nguyên cục thuần tòng, không khắc phá thì mệnh cục tiên thiên rất tốt, có thần phá hại dù có bị chế hoá đi nữa thì cách cục cũng giảm tốt đi nhiều.
Thiên can nó quan trọng là vậy, không cần nhìn nông sâu, dụng thần, chỉ cần cách cục thiên can thấu ra trong sáng sẽ có khí chất phú quý.
Ở diễn đàn tvls có rất nhiều lá số do các thành viên đưa lên, không hiểu vì sao lá số như vậy lại thành đạt rất lớn, 1 số ví dụ như sau
Quý tị - giáp tý - kỷ dậu - bính thìn
Chưa cần nhìn căn gì, xung hợp ra sao, mệnh này có tài quan ấn tam kỳ toàn (thiên can tài sinh quan, ấn sinh thân)
Quý tị - nhâm tuất - kỷ hợi - giáp tuất
Tài vượng sinh quan
Giáp thìn - quý dậu - nhâm tuất - quý mão
Thực thần tú khí
Giáp tý - đinh mão - nhâm dần - canh tý
Thực thần sinh tài
Đinh dậu - quý mão- ất dậu - kỷ mão
Cứu ứng kiêu đoạt thực gặp tài
Tân dậu - kỷ hợi - nhâm thìn - tân hợi
Quan ấn tương sinh
Chu ân lai
Mậu tuất - giáp dần - đinh mão - quý mão
Thương quan bội ấn, thương quan hợp sát, sát ấn tương sinh, toàn cách cục danh tiếng.
Tôn trung sơn
Bính dần - kỷ hợi- tân mão - canh dần
Quan ấn tương sinh
Trương khắc đông
Nhâm thân - kỷ dậu - quý tị - tân dậu
Sát nhận, sát ấn
Viên thế khải
Kỷ mùi - quý tị - đinh dậu - đinh mùi
Thực thần chế sát
....
Các lá số trên mệnh đã mang sẵn yếu tố thiên thời, chỉ cần vận hạn thích hợp, là sẽ phát phú quý.
Không nhất thiết thực thương sinh tài là phải kinh doanh
Quan ấn tương sinh là phải làm chính trị
Làm cái gì, thì nó thường liên quan tới dụng thần, ví dụ dụng thần là ấn mà cách cục thương tài, thì mở địa điểm, công ty sản xuất kinh doanh
Hoặc dụng thần là tài, cách cục quan ấn, thì thường là sếp của các công ty thương mại.
Dụng tài, cách cục sát nhận, thường là phó quản lý, phó chủ tịch của công ty thương mại, và ông phó này thường đoạt quyền người đứng đầu.
Dụng thần là tài, gặp kiêu đoạt thực có tài, thường làm về cổ phiếu chứng khoán (mình kiếm được thì nhiều ông chết...đói)
Dụng thực thương mà nắm sát ấn thì công danh rất cao, đa số thuộc võ nghiệp
Dụng sát mà đạt cách thương tài, thì vừa làm quản lý, lại vừa làm nhân viên trực thuộc công ty thương mại
Dụng thương mà cầm quan ấn thì dễ làm bên cơ quan pháp luật, hành pháp
Dụng kiếp mà nắm thương tài, phần lớn là hợp tác thương mại, khó làm chủ một mình.
Dụng tỷ kiếp mà nắm quan ấn, thương ấn, thì thường phò tá mà nên công, ví dụ các quân sư danh tiếng, tài ba thuộc cách này
....
Trụ giờ là cung sự nghiệp, là nơi quy về, tối kỵ có thần bại cách.
Thương tài nhật sát thì được
Chứ thương tài nhật quan thì kém
Kỷ mùi - kỷ tị - giáp ngọ - mậu thìn
Thiên can chỉ có tài, không có kiếp, vì thế cách kiếm tiền gây dựng cũng khá vất vả, vì tài không có nguồn.
Nhìn nguyên cục thì đây thuộc tòng tài cách, lấy thổ, hoả làm dụng thần.
Người này phát tài bắt đầu vào vận đinh mão trở đi, vì có đinh hoả là thương quan sinh tài, phú quý tự nhiên đến, tuy nhiên cứ đến năm giáp, ất là phá tài, bại tài
Trung vận vào đại vận ất sửu là sút kém
Được 20 năm đinh mão, bính dần thuận lợi chỉ trừ những năm giáp, ất.
Càn :
Nhâm tý - nhâm tý - bính tý - kỷ hợi
Thiên can sát vượng công thân là tín hiệu nguy hiểm về hạn lao tù, tuổi thọ cũng không thể cao
Cũng may là nhật can không có gốc, giống như sóng cuốn thuyền bè, thuận theo dòng nước.
Người này là quan nhỏ, vào tù vào đại vận bính thìn năm giáp ngọ, nhật chủ đắc căn.
Thiên can chỉ có 1 chút điểm quý khí là thương quan chế sát, thế nên cuộc đời có thể làm quan, quan không lớn vì thương quan chế sát không bằng thực thần
Bát tự dụng thần, chuyên tầm nguyệt lệnh.
Câu kinh điển trong các sách tử bình này khó hiểu đến nỗi mỗi vị đại sư lại bình một cách khác nhau. Người thì cho là chi tháng vượng nhất, tất dụng thần ở đó là có lực, người thì lấy luôn chi tháng làm cách cục.
Chi tháng còn gọi là nguyệt lệnh, nếu chi tháng không xuất cách cục, thì gọi là nguyệt lệnh không chiếu cố. Lúc này phải tìm cách cục ở nơi khác, ưu tiên trụ giờ. Thấy các cách kiểu thời thượng thất sát cách, thời thượng thiên tài cách đều là phụ trợ, khi mà nguyệt lệnh không xuất cách cục (thấu can)
Nhật can dương, thất sát hợp kiếp tài
Nhật can âm, thiên tài hợp kiếp
Vì thế, tựu chung là các cách cục phụ trợ như thất sát, thiên tài thời thượng tối kỵ kiếp tài.
Khi cả tháng, giờ đều không xuất can thì đó là nguyệt thời không chiếu cố, chỉ là người bình dân, vận hạn lên xuống khó có thể đạt phú quý.
*nếu chi tháng có xung, hình, hại... đều không ảnh hưởng gì cả, bản chất của cách cục thấu can là chủ về khí tiên thiên, điêu khô nóng lạnh đều là ở nguyệt lệnh, không thể chi tý xung tháng ngọ mà ngọ mất đi, biến thành cái khác được. Những phép xung hợp đó, là thuộc phạm trù dụng thần vượng suy.
Thấu can, nó rất quan trọng, vì địa chi không thể sinh khắc thiên can, và thiên can cũng vậy. Thiên can chỉ sinh khắc với thiên can mà thôi. Nhật can với nguyệt lệnh, như ta với trời đất, nguyệt lệnh thấu can giống như uỷ thác lệnh trời đất mà đến giao tiếp với ta. Lúc đó chính là cách cục chủ khí.
Các cách nói như cái đầu, tiệt cước là nói một nửa.
Ví dụ nói ất dậu, là tiệt cước, thì nó có nghĩa nếu có can tân kim thì ất sẽ suy yếu (bị khắc)
Hoặc tân mão, là cái đầu, thì khi xuất ất mộc thì tân kim sẽ khắc ất
Các nghiên cứu về tâm lý hiện đại đã chỉ ra, con người mang hai loại đạo đức
Đạo đức nhân cách, là cái cơ bản ứng xử của con người, tương ứng trong khoa học phương đông là ngũ hành kim - mộc - thuỷ - hoả - thổ, nhân lễ nghĩa trí tín. Người có ngũ hành khuyết thiếu hoặc thiên lệch có ứng xử khác người. Vì thế xem mệnh 1 người phải xem ngũ hành có đồng đều không, nếu đồng đều thì là con người ứng xử hài hoà, bằng không thì có vấn đề. Ví dụ hoả quá vượng thì tính nóng như lửa, dễ mù quáng.
Thứ hai là đạo đức tính cách, là cái kỹ năng mà con người dùng vào các phương diện của đời sống. Cái này liên quan đến cách cục trong tứ trụ, ví dụ quan sát ấn tương sinh có khả năng lãnh đạo, hoặc thực thương sinh tài có khả năng làm kinh tế bẩm sinh chẳng hạn. Người mang cách cục bị phá thì tính cách bẩm sinh không tốt, như mang tài cách mà gặp tỷ kiếp là số thích chi tiêu, hoặc kiêu đoạt thực là lười biếng, ham chơi, thương gặp quan thì tính khí nóng nảy, coi thường quy củ, nếu mệnh cục xấu còn dễ liên quan pháp luật. Thường các mệnh cục mang cách tòng vượng có cá tính rất độc đoán, và cuộc đời cũng như đường hình sin.
Sách dự đoán theo tứ trụ có ghi người không có tài là mệnh nghèo, mệnh thầy tu, nhưng thực tế thì cũng có rất nhiều người mệnh không có tài mà vẫn thành đạt. Tuy nhiên ở dưới cụ TVH có ghi, nhiều người lúc trẻ còn nghèo chỉ vì mệnh không có tài, nhưng đến vận tài thì phất lên, giàu rất nhanh, qua vận thì không phát mạnh nữa. Nói chung là vẫn cần có tài, mệnh không có tài vẫn thành đạt là vì đạt cách cục hoàn chỉnh, nhưng xét theo vượng suy vẫn phải hỷ tài thần, vận đến tài sẽ phát. Mệnh không tài, cách cục bị phá mà lại kỵ tài mới thật sự là mệnh thầy tu.
Mệnh hỷ tài đơn giản nhất là thân vượng, cần tiết chế hỷ tài. Cho nên sách xưa mới ghi một câu đoán ngữ rất đơn giản.
Thân cường mới đảm nổi tài quan.
Sách của mấy thầy manh phái xem mệnh không có tài lấy thực thương, quan sát, lộc để xem, đây là một biến thể của cách xem cách cục phái thôi. Không có tài dĩ nhiên phải lấy thực thương cách, quan sát cách, không thành cách thì lấy quy lộc, thời lộc, kiến lộc cách, tuyệt không có lấy ấn cách vì thường ấn cách không có chủ về tài vận.
Đã dùng cách cục thì không xem vượng suy
Mang quan ấn tương sinh thành cách thì không cần biết quan, ấn là dụng hay kỵ, là người bẩm sinh đã có khí chất lãnh đạo, vận kém thì lao đao, vận tốt thì phát phú phát quý.
Ví dụ mệnh ông mao trạch đông
Quý tị - giáp tý - đinh dậu - giáp thìn
Thân vượng kỵ mộc, thuỷ sinh mộc cũng không có lợi. Nếu áp dụng cái hỷ kỵ vào cách cục thì hiển nhiên mệnh này chẳng quý gì cả.
Cách cục mà nói thì đinh hoả sinh tháng tý thấu quý là sát ấn tương sinh cách, là quan chinh chiến có tài lãnh đạo. Nhưng hiển nhiên là sát trong thời bình chỉ làm phó thì tốt, thời kỳ thống nhất trung quốc lên làm chủ tịch, đã tạo ra các cuộc cách mạng cải tổ đất nước nhưng tính sai lầm, như cuộc đại nhảy vọt làm 40 triệu người chết. Trụ giờ có ấn, làm bổ trợ cách cục, danh tiếng truyền đến đời sau. Mệnh này quý trọng hơn phú vì dụng thần không phải là tài, canh tân đều bị quý tiết sinh giáp. Dụng thần là thực thương, như chữ kỷ hợp trói 2 giáp, chữ mậu hợp trói quý. Thổ là dụng thần đắc lực nhất, là thực thương, chủ quý mà không chủ phú.
1 mệnh nữa là ông lý gia thành:
Mậu thìn - kỷ mùi - canh ngọ - đinh hợi
Hiển nhiên hoả thổ đều là kỵ, tuy nhiên mệnh này canh sinh tháng mùi thấu đinh, kỷ, mậu. Nguyên tắc thấy quan luận quan, đây là chính quan bội ấn cách. Là người có tài lãnh đạo bẩm sinh, lại là người giàu có vì dụng thần là thương thực tài. Vận đi 50 năm đều thuận, trở thành một trong những người giàu top thế giới.
Sách dự đoán theo tứ trụ tái bản mới và một số sách khác đưa ra cách xem sự nghiệp một người có mở rộng lớn được hay không.
Lấy giờ là cung sự nghiệp, người có khả năng mở rộng quy mô doanh nghiệp, thậm chí vươn tầm thế giới thường có can chi năm, can chi giờ đều là hỷ dụng thần, chí ít cũng phải là chi năm và chi giờ.
Xét về thiên can, thiên can không được phá cách cục, ví dụ năm tháng thành cách quan ấn mà lại thấu sát thì kém đi. Ngày tháng giờ thành cách kiêu đoạt thực mà thấu thiên tài chế kiêu thì càng hay.
Xét về địa chi, không được thiên lệch, cần xung kỵ thần, hợp thành dụng thần càng tốt. Mệnh mang đủ điều kiện đó tiên thiên là dạng cách cục của người có khả năng kinh doanh lớn, xí nghiệp phát triển.
Tầm quan trọng của cách cục
Nguyệt lệnh lập cách nó rất quan trọng, chỉ cần nhìn vào thiên can thấu ra lập cách là biết người đó có khả năng là cơ nào trong xã hội.
Diêm tích sơn - vua con sơn tây
Quý mùi - tân dậu - ất dậu - đinh hợi
Ất sinh tháng dậu thấu tân kim là sát cách, 2 cách cục lớn là sát ấn tương sinh và thực thần chế sát, là võ tướng danh tiếng.
Đô đốc lưỡng quảng long tế quang
Đinh mão - bính ngọ - bính tý - nhâm thìn
Tháng ngọ thấu đinh, là nhận cách. Giờ thấu sát thành cách sát nhận, là người có uy khiến người khác phải nể sợ.
Nhìn chung người thiên về võ, các vị chí thực chiến (xưa gọi là quan chấn thủ biên thuỳ) đều ít nhiều liên quan đến sát. Còn các vị trí quản lý thiên về văn, hiền hoà hơn thì nhìn vào quan.
Mệnh mark zuckerberg:
Giáp tý - kỷ tị - mậu thân - bính thìn
Mậu sinh tháng tị, thấu kỷ gặp giáp hợp, là sát nhận cách, kiêm thêm ấn cách ở trụ giờ. Mệnh này chủ nổi danh. Nổi về cái gì thì xem dụng thần. Mậu sinh tháng tị vượng khí, thấu ấn sinh thân, sinh nhiều chế ít. Thân vượng dụng thuỷ hỷ kim (thuỷ còn là dụng thần điều hậu).
Nguyên cục có thân tý thìn là ám tài vượng, vận thấu canh tân nhâm quý giàu rất sớm. Cách cục thành, dụng thần tài vượng không giàu mới là lạ.
Một số bát tự phú quý
1. Mậu Tuất - tân dậu - đinh mùi - quý mão
Tháng dậu thấu tân thành tài cách, tài cách không thích sát, sát thấu trụ giờ may gặp mậu hợp, tài cách thành. Có triển vọng phú quý.
Dụng thần: đinh sinh tháng dậu thất thời suy khí, thiên can vô trợ, dụng mộc hỷ hoả. Nguyên cục có mão mùi hợp mộc cục là dụng thần vượng. Chờ đại vận thấu can là thuận lợi.
Trung vận vào giáp tý, ất sửu, bính dần , đinh mão thật thuận lợi. Số này dụng ấn, tỷ nên là người làm công vụ, chức cao nhờ tài cách thành công.
2. Giáp ngọ - tân mùi - đinh sửu - kỷ dậu
Đinh sinh tháng mùi thấu giáp, kỷ. Tuy nhiên giáp kỷ hợp trói nhau, không lập được cách. Nguyệt lệnh không chiếu cố, phải nhìn trụ giờ, giờ dậu thấu tân kim thành thời thượng thiên tài cách, dĩ nhiên cách cục thành công, có triển vọng phú quý
Dụng thần: đinh sinh tháng mùi suy khí, thiên can giáp xa vô lực, ngọ mùi hợp hoả thổ, sửu dậu hợp kim, dụng hoả hỷ mộc. Mộc cần phải đắc căn dần mão, hoả cần thấu can.
Trung hậu vận vào đất bính tý, đinh sửu, thật là thuận lợi. Dụng ấn tỷ mà cách cục tài cũng làm công vụ như mệnh trên.
Cách cục thanh kỳ chỉ cần một, không nên nhiều, nhiều là tạp. Tứ trụ mà kiêm cách thì cách cục tạp loạn, rất kém.
Bill gates:
Ất mùi - bính tuất - nhâm tuất - canh tuất
Nhâm sinh tháng tuất thuộc mùa thu, tuất mộ hoả can đầu thấu bính, thời thấu canh thành hai lưỡng cực tài cách và thiên ấn cách, dụng ấn bỏ tài hoặc dụng tài bỏ ấn. May có niên can ất hợp trói canh, cách cục gọi là khứ ấn tựu tài cách, cách thành có triển vọng phú quý.
Vượng suy; nhâm sinh tháng tuất là thất thời, tọa tuất là thất địa, duy chỉ có canh kim sinh, nhưng canh kim này không có lực. Ất mộc, bính hoả đều không có trọng căn. Vì thế hỷ đến đất dần mão tị ngọ, trung hậu vận đều tốt, giàu có đến già.
Số này mà giờ tân hợi thì cách cục tạp loạn chẳng ra làm sao, bính tân hợp là tài khắc ấn, ấn trói tài, nguyệt lệnh không chiếu cố. Trụ giờ hợi xuất ất là thương quan cách, tài ấn đều vô tình, hung thần không áp chế, không phú cũng không quý. Thế mà mấy ông tử vi cũng gọt ra được giờ Hợi?
Bill lấy melinda sinh năm 1964 tuổi giáp thìn, vừa vặn thìn xung 3 tuất mở khố hoả, đinh hoả thoát ra hợp nhâm, tài lai tựu ngã, không biết lão có nhờ thầy xem không :))
Tỷ phú lý triệu cơ:
Đinh mão - quý sửu - mậu thìn - nhâm tý
Mậu sinh tháng sửu, thấu quý, nhâm là tạp cách chính thiên cùng thấu, hơn nữa tài cách không thích ấn. May đinh nhâm hợp, làm thanh cách và khử ấn. Là chính tài cách thành. Cách này còn gọi là tài lai tựu ngã (tài hợp nhật chủ). Rất có triển vọng giàu có.
Vượng suy: mậu sinh tháng sửu đắc thời, tuy nhiên thiên can không có tỷ kiếp, đinh hoả yếu, tổng quan là thân nhược mà tài vượng (sửu, thìn, tý đều có ý trợ tài). Dụng thần tỷ kiếp ấn tinh, trung hậu vận rất tốt, đặc biệt là về hậu vận đinh mùi, bính ngọ, ất tị 30 năm dụng thần lên ngôi, trở thành một trong những tỷ phú hàng đầu tại hongkong.
Số này nếu chỉ đơn thuần là tài cách, mà không có thực thương sinh trợ thì nhìn chung kiếm tiền khá vất vả, không dễ dàng mặc dù cũng có triển vọng phú quý. Giống như độc quan vô tài ấn thì dễ làm quan mà không có quyền, có tiếng không có miếng vậy.
Có những mệnh cách cục không thành, nhưng không bị phá cũng nằm ở mức trung phú trung quý, hoặc thậm chí không đạt cách cục cũng có thể đạt mức phú quý. Đây là một dạng thông tin nhiễu, tử bình hay bất cứ một phép đoán mệnh nào khác đều nghiên cứu về Nhân Mệnh, như cái cô athina cháu gái tỷ phú hy lạp onassis thừa kế 1 tỷ đô. Theo cách nhìn của tứ trụ thì cô ta không phú quý gì cả (nhưng chắc chắn bát tự sẽ chỉ ra tín hiệu được hưởng thừa kế). Thường những người cách cục không thành, bị phá mà vẫn phú quý vì họ có những may mắn đặc biệt, như sinh trưởng trong gia đình rất giàu có (trong tứ trụ thì năm tháng là dụng thần), hoặc lấy hôn phối phú quý, được của thừa kế, chứ tự tay họ chẳng bao giờ làm được điều đó.
Không phải lấy đâu xa, hầu hết những vị vua, thuộc nhóm khai quốc chinh chiến mà dành được, đều là những vị vua anh minh nổi tiếng trong lịch sử, vì họ nắm thiên mệnh, cách cục, dụng thần đều hoàn hảo, tự tay họ lập quốc, danh tiếng vang ngàn đời. Còn những bậc quân vương sau thời của họ, đều là truyền thừa, nếu may mắn thì được những vị minh quân, còn không may thì bị những tên hôn quân phá hoại hết thành quả tổ tiên.
Tôi nhớ có 1 câu chuyên về càn long giả thường dân đi xem bát tự, ông thầy có đưa ra 4 viễn cảnh, trong đó chỉ khi càn long là dòng dõi hoàng tộc thì mới có thể làm vua, chứng tỏ càn long có số thừa kế
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=456&stc=1
sherly (http://tubinhdieudung.net/member.php?1387-sherly)
giúp, trường hợp có phải tặc bộ không?, vận tý xung căn của bính có phải luôn luận là hung?
Lá số của bạn ngọ không được coi là cơ giam, canh tý là đại vận cát lợi.
Cơ giam bạn hiểu là nơi phát nguyên của mệnh cục cũng được.
Tôi lấy ví dụ như sau, nữ mệnh
Tân sửu - quý tị - giáp dần - quý dậu
Người này hiện khá giàu có, tuy nhiên giờ đã lui lại để cho con trai trưởng phát triển cơ nghiệp gia đình.
Giáp sinh tháng tị, thấu tân kim, 2 quý thuỷ kẹp kề nhật chủ, là chính quan bội ấn cách, cách cục rất cao, có triển vọng phú quý
Vượng suy: giáp toạ dần lộc vượng, thấu quý căn tại sửu, thân vượng, dụng thổ hỷ hoả, tân kim gặp đất tam hợp rất vượng, tuy nhiên ấn hoá quan nên quan sát này cũng là kị thần. Theo phép xem này thì vận Bính Thân (25-34) là một vận tốt, vì bính hợp tân, thân xung dần kị thần.
Tuy nhiên ngược lại, vận này lao đao khổ sở, gia đình phá sản, chồng ly hôn, bản thân ốm đau liên miên tưởng chết, có thời điểm cả cháo không có mà ăn, gầy gò tiều tuỵ đến nỗi bệnh viện trả về, may mắn chạy chữa được thì nhà lại bị bão kéo sập, cả gia đình 6 người phải sang ở nhờ nhà chú ruột. Nói chung là 7 phần chết 3 phần sống.
Đó là vì, chi dần là cơ giam của cả mệnh cục này, gặp hạn thân kim xung dần là tối kỵ, sức khoẻ gia đạo, công danh sự nghiệp đều ảnh hưởng xấu.
Sau đại vận này được người giới thiệu lấy một ông chủ buôn gỗ từng có một đời vợ, từ đó cuộc sống đi lên, bản thân về làm chủ quản lý việc kinh doanh, từ khi lấy về ông chồng chẳng phải làm gì cả, rất tài giỏi.
giáp dần là thông căn tọa lộc, lộc bị vận xung thì luận hung
Đúng vậy, bạn rất giỏi đã nhìn ra, chúc bạn học thuật tinh tiến
kỷ phục ngâm can năm tọa mùi, lộc tại ngọ chi giờ nên ngọ mùi tố công, ngọ hợp hợi phá dậu + mùi khắc dậu là có tố công nhưng chưa chế sạch kim thủy.
vào vận tỵ, tam hội hoả trợ lực cho công thần nhưng thực tế vận này rất xấu vừa tật bệnh lại nghỉ làm ở nhà?
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=457&stc=1
Cách cục pháp ngày nay bị vượng suy pháp soán ngôi, vì trong thực tế nó không có hữu dụng lắm. Ví dụ một anh có cách cục hoàn hảo, nhưng vận không đẹp thì không được đánh giá cao bằng một người cách cục tầm thường vào vận đẹp. Nguyên do người ta chỉ nhìn cái bề ngoài, nhưng không nhìn được cái bên trong. Tài tinh gặp thực thương sinh, vào vận đẹp anh ta phát tài lớn và tài gặp kiếp, vào vận đẹp anh ta vẫn có thể phát tài lớn, nhưng khác ở chỗ anh thứ hai hay bị hao tiền, cứ cầm cục tiền là lại có việc gì đó phải tiêu (tài gặp kiếp), không được như anh thứ nhất nguồn tài đến liên tục, an nhàn.
Hoặc chính quan có ấn, và chính quan không ấn. Vận đẹp hoàn toàn có thể đắc quan, nhưng người mang ấn có thực quyền, không mang ấn thì có tiếng không có miếng, làm quan bù nhìn.
Hoặc nó cũng vì nhiều thông tin nhiễu. Ví dụ gần đây tôi gặp 1 bát tự trên fb, cách cục nữ mệnh tạp loạn chẳng ra làm sao, nhưng tuổi rất trẻ đã làm chủ và đầu tư rất nhiều nơi, nhìn kỹ lại thì đào hoa, hồng diễm ở khắp nơi, kèm thêm thiên ất ở cả 4 trụ, hỏi ra mới biết là có những mối “quan hệ”. Dĩ nhiên công việc kinh doanh đầu tư mang lại cho cô này cuộc sống dư dả, nhưng với nguồn lực đó rơi vào tay những người có cách cục hoàn hảo thì thành công sẽ lớn hơn thế rất nhiều.
Nguyệt lệnh thấu can chỉ nên có một, Thấu hai phải thành cục, thấu đến ba thì cực kém.
Nó được hiểu giống như lãnh đạo một cái tỉnh (nguyệt lệnh), thấu một thì chỉ một người đại diện, thấu hai thì hai người phải phụ trợ lẫn nhau, thấu đến ba thì A nghe B, B nghe C, C không nghe A đánh nhau tạp loạn hết cả.
Vd
Càn:
Mậu Tuất - Mậu ngọ - nhâm tuất - canh tuất
Nhâm sinh tháng ngọ thấu mậu là sát cách, sát ấn tương sinh cách.
2. Càn:
Bính tuất - giáp ngọ - kỷ mùi - kỷ tị
Là càn tạo tổng thống trump
Kỷ sinh tháng ngọ, thấu bính là ấn, thấu kỷ là tỷ, tỷ kiên là hỗn tạp gặp giáp hợp chế, là ấn cách thành. Mệnh chủ ham quyền lực.
Càn : mậu thân - tân dậu - tân mão - tân mão
Tân sinh tháng dậu không lập được cách, giờ sinh không xuất cách, cách cục tầm thường. Tuy nhiên người này lại rất giàu có thành đạt, nhưng phải xét về gia thế người này, có bố mẹ là quan chức lớn, dòng họ nhiều người quyền quý. Bản thân người này tầm thường nhưng phúc khí gia tộc lại dày.
Tân sinh tháng dậu, thiên can toàn ấn tỷ, thân vượng không nghi ngờ, dụng mộc hỷ thuỷ.
Dương nam vận đi thuận qua đất dụng thần đẹp, tự bản thân cũng ăn nên làm ra. Nhưng một phần lớn để trở thành giàu có như vậy cũng là nhờ gia thế.
Nhật can gặp hợp
Nếu hoá khí, lấy hoá thần và sinh trợ hoá thần là dụng thần, thuần tuý hoá khí là tốt nhất, có bệnh gặp dược là thứ hai.
Nếu hợp không hoá, thì xem căn. Can dương hợp tài, can âm hợp quan. Nếu lưỡng đình (mạnh bằng nhau) thì cát, ngược lại thì kém. Bát tự có hợp dạng này thường chỉ xem căn, và tranh đố hợp. Những bát tự như thế thường tự tay lập nghiệp, vì thế trong sách cụ TVH có ghi, hợp mà không hoá thì làm con nuôi họ khác, mồ côi hoặc tăng ni theo đạo - ý của họ là Tay trắng lập nghiệp và có thành được không thì lại cần nhiều yếu tố.
Vd (trong sách chưa tái bản của cụ TVH)
Càn : quý mão - mậu ngọ - tân sửu - đinh mùi
Tứ trụ này theo cụ thiệu luận là thân nhược vì tân kim ở đất bệnh theo lệnh tháng, không đắc lệnh, không đắc địa, không được trợ giúp mà chỉ được vượng sinh.
Lấy ví dụ này ra để cụ phản đối cái thuyết Vòng trường sinh luôn đi theo một chiều bất kể âm dương.
Tuy nhiên các sách tái bản mới của dự đoán theo tứ trụ, đã kiên quyết loại bỏ VTS trong luận vượng suy, chỉ giới thiệu qua.
Mệnh trên được luận thành:
Tân kim sinh tháng ngọ là không được thời, mậu thổ thấu can gặp quý hợp vô dụng không thể sinh thân, can giờ đinh hoả vượng tại nguyệt lệnh cần cù khắc thân, dụng thổ kỵ mộc.
* những người coi tiền tài (tài) và công danh (quan) là kim chỉ nam cả đời người thường là người mang ngũ hợp nhật chủ như thế.
Khác tính là chính, cùng tính là thiên. Sự phân biệt của 10 thần dựa trên âm dương.
Chính là danh chính ngôn thuận, ví dụ chính tài là thu nhập từ ngành nghề chính quy, tài sản thừa kế có sự chứng nhận của nhà nước, tài sản từ bên ngoài đưa đến có sự công nhận chính quy, công khai minh bạch.
Thiên là sự thiên lệch, ta (nhật chủ) phải vất vả hơn mới đạt được, ví dụ thiên tài là thu nhập từ nghề phụ, nghề tay trái, kinh doanh tự do (không ổn định, không có truy thu thuế rõ ràng), buôn lậu, tiền hối lộ...
Trước đây nhiều người quy cho chứng khoán là thiên tài vì nghĩ nó là tiền lớn, mà thiên thì “to hơn” chính, nhưng chính sách đã thay đổi, luật pháp đã bổ sung các điều lệ biến chứng khoán trở thành chính tài chính hiệu. Thể hiện điều này có thể thấy vào năm 2008 ở Việt Nam, việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân đã tạo ra một cơn sóng thần làm sụp đổ gần như toàn thị trường, dĩ nhiên còn nhiều thứ ảnh hưởng, nhìn vào góc độ tứ trụ mà nói, chính vì chuyển dịch từ thiên tài sang chính tài, các nhà đầu tư trước đó nhờ thiên tài kiếm tiền, nay chính tài hành quyền, tự nhiên bị vỡ trận, sụp đổ thị trường
Và thực tế chính hay thiên nó không phải là to hay nhỏ, chính là danh chính ngôn thuận, còn thiên là thiên lệch, là của ngầm. Chứng khoán là chính tài, forex trading là thiên tài. Cờ bạc lô đề là thiên tài, xổ số là chính tài...
Làm quan mà ám thiên tài thì xác quyết ngay là quan tham, ăn hối lộ kinh khủng khiếp.
Chính quan là quan thời bình, chủ về làm chính trị tốt, thiên quan thất sát là quan thời chiến, làm tướng lĩnh thì tốt. Mao trạch đông mang cách thiên quan, chinh chiến tài giỏi thống nhất đất nước, nhưng khi lãnh đạo với bản tính của thất sát đã lập ra nhiều chính sách sai lầm, người ta luận Mao “ngàn năm công tội” là vì vậy.
Obama càn tạo:
Tân sửu - ất mùi - kỷ tị - giáp tuất
Có người cho là giờ dậu, tuy nhiên giờ dậu can thấu quý thuỷ là thiên tài, kỷ sinh tháng mùi thấu ất là sát, có tân kim thành sát yêu thực chế, thấu tài là chuyển thắng thành bại (thực sinh tài, tài sinh sát) là hạ cách, khó có thể làm tổng thống cho được.
Giờ tuất, kỷ hợp giáp, thấu ất có thể coi là giả hoá khí cách. Âm nam vận chạy nghịch. Đắc cử vào ngày 20-01-2009 thuộc năm Mậu tý, vận Canh Dần, dần là lộc địa của Giáp. Nhật chủ căn dày hợp quan đắc lộc, lên ngôi vị tổng thống. Tứ trụ này cần nhất vào vận hoả thổ kim, hoặc mộc đắc lộc vượng, kỵ vận thuỷ.
3 vị tổng thống obama, donald trump và cả bill clinton đều có nhật chủ hợp quan và đều thuộc dạng cách hoá khí? Không phải trùng hợp thế chứ?
Tổng thống geogre bush
Càn tạo :
Bính tuất - giáp ngọ - tân tị - nhâm thìn
Tân sinh tháng ngọ thấu bính thành chính quan cách, gặp nhâm thấu là thương quan gặp quan, thấu tài thành cứu ứng tiết thương vệ quan, cách cục thành công, rất có triển vọng phú quý.
Tân kim sinh ngọ nguyệt, thất thời suy khí, không sinh không trợ trong khi bính hoả quá cường vượng, dụng kim khắc mộc, thuỷ khắc hoả làm nhật chủ dễ chịu. Đắc cử tổng thống vào năm Canh thìn, vận Canh tý, canh khắc giáp, nhâm đế vượng tại tý, tý thìn hợp hoá thuỷ cục. Dụng thần lên ngôi, kỵ thần bị chế.
Những vị tổng thống, lãnh đạo cao nhất kể cả như mao và tưởng bát tự đều dễ xem, đâu có khó như kiểu đánh đố mấy ông manh phái đưa ra? Mà chắc gì là bát tự thực.
Sách TVH chỉ cách xem vận.
Các yếu tố cần phải minh định:
- đại vận là quan trọng nhất. Nó là cái chung, cái hướng đến trong toàn bộ 10 năm.
- lưu niên dùng để xem cát hung trong 1 năm.
Ví dụ bước vào đại vận 10 năm tài vận phát, nhưng lưu niên không tốt thì vẫn có khả năng lỗ, nhưng đại vận tốt nên chỉ xấu ít, qua năm xấu đó thì lại phát triển lại. Chỉ sợ nhất đời người được một đại vận tốt, lưu niên xấu lại nằm ở cuối đại vận báo hiệu sự phá sản, quan sự. Vì thế người làm được sự nghiệp lớn thường có tứ trụ tốt và ít nhất 20 năm đại vận tốt.
Cũng tương tự với lưu niên tốt đại vận xấu, vào trường hợp đó vẫn có thể phát tài quan, nhưng không lớn và thường qua năm đó là hết lộc.
Mặc dù cụ TVH có ghi đại vận can là trọng. Nhưng thực tế trong một số ví dụ luận mệnh vẫn dùng phương pháp can quản 5 năm, chi quản 5 năm sau... không biết đằng nào mà lần :)) phép xem này phổ biến ở hầu hết các sách xưa, và manh phái đoàn kiến nghiệp cũng có dùng phương pháp chia đôi vận này.
Vd: giáp tý - đinh mão - nhâm dần - canh tý
8 tuổi khởi vận. Đv: kỷ tị, niên : đinh hợi
Ở thời điểm người này hỏi (năm 2011) thì rất giàu, phát từ năm đinh hợi.
Nhâm sinh tháng mão thấu giáp là thực thần cách, thực thần gặp kiêu đoạt, nhưng nhật chủ hợp tài, vậy nên cậu này kiếm tiền nhờ đầu tư chứng khoán (mình kiếm được thì nhiều người mất tiền). Nguyên cục Nhâm hợp Đinh là tài lai tựu ngã, nhưng nhâm gốc sâu dày (2 tý), nên vào vận đinh hoả lộc vượng đã phát tài. Năm đinh hợi, hợi xung tị động, hoả khí tài tinh vượng hợp nhật chủ và phát tài.
Địa chi lưu niên được gọi là thái tuế. Khi thái tuế xung chi đại vận hoặc bất kỳ chi nào trong tứ trụ, thì chi đó gặp Động, tức sẽ có thay đổi rất lớn, nếu chi đó là gốc dụng thần, thì sẽ có thay đổi theo chiều hướng Tốt và ngược lại. Nếu chi đó là cơ giam của mệnh cục, sẽ có những thay đổi trọng đại, cuộc sống như sang trang mới, tốt hay xấu thì lại tuỳ vào đại vận lưu niên, tốt thì sẽ như một bước lên mây, còn xấu thì một bước xuống địa ngục. Thế nên thường người ta rất sợ Tuế phá (lưu niên xung) vì hay có những thay đổi lớn, phần lớn ai cũng muốn cuộc sống bình yên cả. Trong phong thuỷ cũng rất kị phạm thái tuế và tuế phá, đều chủ về sự biến động, mà nhà cửa biến động thì không hề tốt một chút nào.
Thiên can lưu niên được gọi là tuế quân, thực ra đây là chủ sự ứng kỳ thôi, thiên can lưu niên không bị hợp trói bởi nguyên cục tứ trụ, mà nó chỉ bị hợp trói bởi thiên can của đại vận. Còn phần lớn nếu thiên can lưu niên là dụng thần thì năm đó tốt, và cũng chủ về cái mà nó đại diện. Ví dụ nam giới gặp năm Thiên can là Chính tài dễ kết hôn, nếu chính tài là dụng thần thì vừa được vợ vừa được của, nếu là kị thần thì kết hôn gặp trục trặc, cưới xong lại nợ nần dày thêm, lại có tin không vui về tài chính.
Bát tự phá sản:
Đây là bát tự được nick Son Vuong đưa lên bên tuvilyso nhằm nghiệm lý, phá sản ở đại vận 44
Càn tạo: Tân Hợi - Đinh Dậu - Bính thìn - Canh dần
Bính thân /ất mùi/ giáp ngọ /quý tị/nhâm ngọ
Thông tin sơ qua: thành thạo 3 ngoại ngữ, từng cầm trong tay 20tr mỹ kim, vợ đầu không con, vợ thứ hai 1 trai và một gái
Bính sinh tháng dậu thấu Tân Canh, là tài cách, lại thấu đinh làm phá cách hoàn toàn, số hay bị mất tiền, cướp tiền. Hiện tượng này cả đời nó luôn xảy ra. Và tính cách của người này nó cũng thể hiện cả tính được ăn cả ngã về không, tính của một con bạc.
Vượng suy, bính tháng dậu thất lệnh, toạ thìn mờ hoả, căn ất mộc gặp dậu kim phạt. Thân nhược dụng Hoả hỷ mộc, đinh hoả ở trụ tháng là một điều rất tốt, hoả là tỷ kiếp, chủ về anh em, đồng nghiệp. Thành vì nó mà bại cũng vì nó. 2 vận Giáp Ngọ, Quý Tị đinh hoả căn lộc vượng, nên sự nghiệp phát triển, tiền kiếm được nhiều hơn số hao nên để ra. Đến vận Nhâm Thìn, Nhâm hợp chế Đinh làm mất dụng thần cực hung cho tiền bạc, phá sản vì tỷ kiếp (đồng nghiệp cấp dưới lừa lọc, bán đứng).
Vận Tốt đã qua, cả vận này lẫn các vận về sau, tân mão- canh dần đều xấu.
Bát tự chủ tịch tân Hiệp phát:
Càn:
Quý tị - nhâm tuất - kỷ hợi - giáp tuất
Vận : tân dậu - canh thân - kỷ mùi - mậu ngọ - đinh tị - bính thìn- ất mão - giáp dần
Kỷ thổ nhật chủ hợp giáp trụ giờ, không có mộc là hoá thổ cách, dụng hoả thổ, nhật chủ hợp quan mà năm tháng tài, tài vượng sinh quan, lập nghiệp sớm. Đại vận 40 năm từ kỷ mùi đến bính thìn toàn đất dụng thần đủ để phát triển cơ nghiệp. Tứ trụ có chi giờ là dụng thần, nên cơ nghiệp có thể truyền cho đời sau. Có một điểm, đây là ví dụ rất rõ ràng về vận xấu, niên xấu ứng ngay lập tức, năm 2015 là năm đầu tiên của vận ất mão, đại vận lưu niên đều là kỵ thần, năm đó tân hiệp phát lao đao với nhiều scandal, và cùng năm ông chủ tịch cũng không còn nắm giữ vị trí lãnh đạo mà truyền cơ nghiệp cho hai con gái. Đúng là cách tránh nghiệp của người giàu :))
Nói giàu thực sự thì phải vào vận Bính Thìn, khi đó hoả thổ không bị kìm hãm bởi quý, nhâm.
Ý nghĩa của một số hành động trong đời thường.
Xưa nay trẻ em sinh ra thường được đặt tên “cúng cơm” như bờm, bin, chổi... với lệ là đặt tên thế cho dễ nuôi, bé ít quấy khóc, chăm ăn nhanh lớn. Thực ra nó có nguồn gốc từ vị trí “dưỡng” trong vòng trường sinh, dưỡng địa chủ về cần cù chăm chỉ, ngoan ngoãn, nuôi trẻ hoặc động vật dễ dàng và dễ làm con nuôi. Không phải cứ đặt tên cúng cơm cho bé là nuôi dễ nhưng lệ dân gian là vậy.
Người nào mang nhật chủ ở trạng thái Dưỡng là người rất cẩn thận, làm gì là phải mưu cầu sự hoàn hảo. Trẻ em mà có nhật chủ ở dưỡng cực kỳ dễ nuôi và nhanh lớn. Cặp bố mẹ nào có con nằm ở dưỡng địa nuôi nhàn, mệt nhất là nằm ở trường sinh, lâm quan, đế vượng, nghịch nhiều khó bảo :))
Ngay cả các hành động khác như bán khoán, nhận bố mẹ nuôi cho con cũng đều lợi dụng chữ Dưỡng này. Thế nên cặp bố mẹ nào có con nhật chủ nắm đất dưỡng thật là điềm may mắn.
Trẻ sợ suy tuyệt về già sợ sinh vượng. Đây là ý hợp lẽ trời, trẻ thì năng động về già thì an dưỡng. Vì thế người ta thường nói dương nam âm nữ là thuận, âm nam dương nữ là nghịch. Đó là cái lý vòng trường sinh. Nghịch địa dễ lâm vào trường hợp tuổi trẻ thì như ông cụ non, càng về già lại càng phong lưu, mà già rồi, phong lưu quá thì ... có ngày :)) như mao chủ tịch chẳng hạn, và già vào vận lâm quan đế vượng hoan lạc quá nhiều đến năm 76 mất vì nhồi máu cơ tim (là hậu quả của việc hoan lạc quá độ).
Của Thiên thì trả Địa
Thiên là Thiên tài, tiền của phi nghĩa. Dĩ nhiên đây chỉ là quan niệm chung, thiên tài sợ tỷ kiếp đoạt, sợ có sát, sợ hợp. Người phát nhờ thiên tài, ví dụ như làm quan mà ăn hối lộ, làm dân mà lừa đảo, hoặc chơi forex, tiền ảo, đánh bạc, sát phạt thì không bền. Để giữ được thiên tài rất khó, phải có quan tinh hộ tài, phải có khố giữ tài, bằng không tiền đến tiền đi như nước chảy lá khoai, hơn nữa còn dễ gặp hoạ.
Lời khuyên của chúa jesus:
“Hãy dùng của bất nghĩa mà kết bạn, để khi của ấy hết đi [trở nên vô dụng], họ tiếp các ngươi vào nhà đời đời.”
Quan và khố tài là 2 yếu tố cần có để giữ được thiên tài, vì thế doanh nghiệp nào muốn làm dự án theo kiểu không minh bạch đều phải “kết thân” với quan và ngân hàng. Chỉ có như thế họ mới bền vững với Thiên Tài.
Hoặc quan nhận hối lộ cũng thế, còn chức thì còn của, hết chức thì hết của còn gặp cả tai hoạ.
Quý và phú
Thương quan là một trường hợp đặt biệt khi trái dấu với nhật can mà lại được coi là hung thần, thậm chí rất nhiều cách cục liên quan đến thương quan này. Vì người rất sợ thương quan (kiến quan). Quan chủ về quý khí, là đệ nhất cách cục, gặp thương quan thì khác nào thông đồng với đám ô hợp mà chịu cảnh lao ngục tù tội mất hết thanh danh. Thực ra thương quan kiến quan nó còn nguy hiểm hơn thế nhiều, ngoài dễ bị hình pháp ra, cách này còn chủ về con cái phá bại, với nữ thì khắc cả chồng lẫn con, quan tinh còn là công việc, kẻ đã có dấu đen lao tù tìm việc làm thật khó lắm!
Vì thế cổ nhân mới nói “thương quan kiến quan vi hoạ bá đoan” tức nói gặp hoạ nhiều mặt trong cuộc sống.
Chữ quý nó quan trọng nhất trong cuộc đời một người, phú còn phải tìm đến chữ quý, các nhà giàu xổi ở trung quốc đều cho con sang học các trường quý tộc châu âu, những mong con họ sau này được hưởng chữ quý (cái mà họ không thể có), tuy nhiên nhiều cậu công tử ngao ngán quá trình đào tạo quý tộc: phải ngủ giường sắt, tự nấu ăn, trồng cây, dạy học, thậm chí còn phải tham gia tiên phong trận địa khi đủ tuổi. Tất cả các cái đó nhằm đạt được quý khí của Quan Tinh. Chữ Phú là tài tinh, chỉ là phương tiện để đạt được quan tinh.
“Hùm chết để da, người chết để tiếng”
“Trăm năm bia đá vẫn mòn
Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”
Sách tướng của cụ TVH có ghi, người nam tướng nam là phú quý, người bắc tướng bắc là phú quý. Người nam tướng bắc, người bắc tướng nam thì kém.
- người phương nam đất ly hoả, chủ về trán. Nếu trán cao rộng, sáng bóng không có nếp nhăn chủ về hoạn lộ hanh thông, vừa phú vừa quý
- người phương bắc đất khảm thuỷ, chủ về cằm. Nếu cằm đầy, triều về trung đình, phân minh, rộng thì có số phú quý.
Hay nói tóm lại, nhìn người phương nam thì chú ý đến trán, còn nhìn người phương bắc thì chú ý đến cằm. 2 vị lãnh đạo đất nước chúng ta, người miền bắc thì cằm đầy rộng rãi lại triều đẩu, người miền nam thì trán rất cao rộng và sáng.
Địa lý khác nhau thì vận mệnh cũng khác nhau, địa lý tác động đến nhân tướng. Vậy nên xem tử bình hay bất kỳ môn nhân mệnh nào phải khảo kỹ nhân tướng. Xem tướng trước, xem số sau.
Sách tướng của cụ TVH có ghi, người nam tướng nam là phú quý, người bắc tướng bắc là phú quý. Người nam tướng bắc, người bắc tướng nam thì kém.
- người phương nam đất ly hoả, chủ về trán. Nếu trán cao rộng, sáng bóng không có nếp nhăn chủ về hoạn lộ hanh thông, vừa phú vừa quý
- người phương bắc đất khảm thuỷ, chủ về cằm. Nếu cằm đầy, triều về trung đình, phân minh, rộng thì có số phú quý.
Hay nói tóm lại, nhìn người phương nam thì chú ý đến trán, còn nhìn người phương bắc thì chú ý đến cằm. 2 vị lãnh đạo đất nước chúng ta, người miền bắc thì cằm đầy rộng rãi lại triều đẩu, người miền nam thì trán rất cao rộng và sáng.
Địa lý khác nhau thì vận mệnh cũng khác nhau, địa lý tác động đến nhân tướng. Vậy nên xem tử bình hay bất kỳ môn nhân mệnh nào phải khảo kỹ nhân tướng. Xem tướng trước, xem số sau.
Nếu xét theo địa lý nước ta thì thuộc về Nam hay Bắc? Chắc hẳn sẽ có người cho là thuộc Nam phương. Nhưng sinh ở Bắc Việt thì thuộc Nam hay Bắc đây?
Lại nữa, nếu nói về tướng lãnh đạo, ông Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp là lớp lãnh đạo của Bắc Việt nhưng có trán rất đẹp. Ông Ngô Đình Diệm là lãnh đạo của Nam Việt nhưng trán chỉ rộng mà không cao đẹp.
Cụ Nguyễn Phú Trọng thì cằm đầy đặn thật đấy, nhưng trán cụ có nổi xương, cũng thuộc vào quý tướng.
Thật rất khó biết, lời bình trên về người Nam kẻ Bắc có thật đúng chăng...
Ấn tinh là đích truy cầu, nhật can (ta) là đích hưởng thụ.
Tứ trụ chứa đựng nhân sinh quan rất sâu sắc về cuộc sống.
Xã hội phân tầng, người nhận mệnh làm quan tượng trưng là Quan tinh. Người dân là thương quan, thường lý thương quan luôn xung khắc với quan, chỉ khi thương quan có ấn, và có tài thì mới có thể chịu sự quản lý của quan. Điều này thực tế cho thấy nhà nước luôn tích cực đẩy mạnh phong trào xoá nạn mù chữ và phong trào toàn dân làm kinh tế. Khi đó người dân có ấn, có tài thì chịu sự quản lý của nhà nước. Trái lại một số thành phần lười biếng, không chịu học tập nhận thức cũng không chịu chăm chỉ làm việc kiếm tiền, lúc đó thương quan sẽ xung khắc với quan, bộ phận người dân này là những kẻ giang hồ, luôn tìm cách chiếm đoạt, ăn cướp của dân lành lương thiện, lúc này quan tinh với ấn trong tay, sẽ dễ dàng chế ngự thương quan đang hung hăng, đồng nghĩa với mấy anh giang hồ người đầy mực sẽ phải chịu hình pháp.
Tư tưởng của con người, ai cũng muốn thể hiện tài năng để kiếm tiền cho cuộc sống no đủ đó là thương quan sinh tài
Khi đã no đủ, họ muốn có địa vị, đó là tài vượng sinh quan
Khi đã có địa vị, họ muốn quyền lực và danh tiếng, đó là quan ấn tương sinh
Và ấn sinh ta, đó là ham muốn vang danh đời đời.
Người ta có thể không chết vì thiếu tiền, mà người ta có thể chết vì ô danh.
Vì thế, làm bất cứ điều gì hãy chú ý đến danh tiếng của mình.
Lâu không vào, tặng các bác bảng nhân nguyên mà ông thầy triết học ngày xưa của tôi hay dùng, và tôi cũng dùng bản này:
Tý: nhâm, quý
Sửu: quý, tân, kỷ
Dần: kỷ, bính, giáp
Mão: giáp, ất
Thìn: ất, quý, mậu
Tị: mậu, canh, bính
Ngọ: bính, Kỷ, đinh
Mùi: đinh, ất, kỷ
Thân: kỷ, nhâm, canh
Dậu: canh, tân
Tuất: tân, đinh, mậu
Hợi: mậu, giáp, nhâm
Theo tôi được biết một số nhánh manh phái cũng dùng nhân nguyên tương tự như trên. Các bác cứ tuỳ nghi nhe.
Số làm lãnh đạo là như thế nào
Bát tự thể hiện người làm lãnh đạo, có nhiều cách cục, và cũng tuỳ tư duy của mỗi người định nghĩa thế nào là lãnh đạo.
Nhưng thường thì người lãnh đạo có những cách cục sau là phổ biến
Quan sát ấn tương sinh
Thương quan bội ấn
Sát kình, thực thần chế sát
Thời thượng thiên tài, thất sát cách
1. Quan sát ấn tương sinh: là cách phổ biến và quý nhất trong tất cả các cách cục, với quan, là người thông minh độ lượng, với thất sát là kẻ uy dũng mạnh mẽ, kèm theo ấn là cách có quyền sai khiến kẻ khác. Xưa ai mang cách cục này có thể làm quan lớn trong triều hoặc đại tướng quân có uy quyền vạn dặm.
2. Thương quan bội ấn: là cách chủ đại quý, thương quan là kẻ có tài năng, đới ấn thể hiện tài năng này đứng trên kẻ khác, được trao ấn vua ban, ví dụ tài kinh bang tế thế chẳng hạn. Thường đây là số của những vị quân sư nổi tiếng, hoặc những vị lương thần quốc gia, ngày nay thì có thể là số của các vị bộ trưởng.
3. Sát Kình: đây là cách điển hình của người làm chức phó mà quyền đoạt trưởng, có uy quyền khiến người khác phải nể trọng. Ngày nay có nhiều doanh nghiệp các vị giám đốc chỉ là bình phong, thực quyền nằm trong tay các vị Phó giám đốc, đó chính là cách cục này, quyền ẩn trong tối là vậy.
Thực thần chế sát là cách anh hùng nổi danh, ví dụ sát là kẻ nổi loạn, thực thần là thực lộc vua ban, từ nổi loạn thành đầu quân triều đình, người mang cách này có thể nắm ở những vị trí chiến lược ngoại giao, quân sự, tính cách bá đạo nhưng luôn tuân thủ pháp luật chính là thực thần chế sát
4. Thời thượng thiên tài cách, thất sát cách:
Thời xưa, để được làm quan, có những triều đại cho phép lệ mua quan bán chức, đó chính là thời thượng thiên tài cách vậy, những kẻ nịnh nọt, hót hay, bỏ tiền mua chức vụ đều là đặc trưng của cái sao thiên tài này.
Ngoài ra, đạt công danh nhờ chiến trận, lên hàm tướng tá nhờ chém giết, đó là thời thượng thất sát cách.
2 cách này chủ về Dị Lộ công danh, tức đường làm quan không theo thi cử, thăng tiến mà đột nhiên đoạt được, không chính thống.
Dĩ nhiên cũng cần phải mang yếu tố thời đại nữa, nắm quan ấn tương sinh nhưng hồi trẻ vận học hành kém, thì sao có thể đoạt công danh môi trường nhà nước được, chỉ có thể làm lãnh đạo ở các công ty tư bản vận doanh mà thôi. Hoặc sát ấn tương sinh mà không phải thời chiến, thì cũng chỉ tầm tầm đạt chức ở trong quân ngũ, và thường là chức phó trong thời bình.
Ngày nay, có nhiều người mở công ty, nhưng lại đi thuê giám đốc mà không tự mình làm chủ quản lý, là vì họ tự biết họ không mang khí chất lãnh đạo, họ chỉ biết tính toán làm ăn (đó là khí chất của thương tài), còn lãnh đạo thì dành kẻ khác.
Sách ghi, tuế- đại vận ứng với vua- quan- dân là rất đúng.
Nếu nhìn trìu tượng, thì vua có thể ra lệnh cho cả quan và dân.
Quan ra lệnh cho toàn dân
Còn dân thì bình đẳng với nhau
Ứng dụng của việc này là từ dịch lý
Ví dụ
Tứ trụ có nhật can là Giáp, nếu có kỷ thổ ở tháng, giờ thì giáp kỷ hợp, kỷ thổ này không đi sinh khắc với can khác nữa mà bị trói bởi giáp
Nhưng giáp nhật chủ gặp kỷ thổ ở đại vận, thì kỷ này vừa hợp với giáp mà vẫn sinh khắc thiên can khác bình thường
Giáp nhật chủ gặp tân kim đại vận, kỷ thổ lưu niên thái tuế, thì kỷ thổ này vừa hợp giáp, vừa sinh tân kim, vừa sinh khắc tất cả các can khác trong tứ trụ
Vua- quan- dân, nếu thông được sẽ xem đại vận rất dễ, loại bỏ được những khó khăn khi luận hợp giữa vận và nguyên cục, lưu niên và vận, lưu niên là nguyên cục và sinh khắc chế hoá của chúng.
Xem tứ trụ, dần dà hiểu ra không có gì là tuyệt đối.
Trong manh phái đoàn kiến nghiệp có một mệnh như sau
Khôn tạo:
Nhâm tý - bính ngọ - kỷ tị- kỷ tị
Họ nhận xét đây là mệnh đại phú
Phát tài vận quý mão trở đi, và trong vận này năm canh thìn phá tài rất lớn.
Đành rằng manh phái có cách xem lạ, nhưng khi không tôn trọng quy luật thì nó sẽ thành gọt chân cho vừa giày.
Kỷ sinh tháng ngọ là đất vượng tướng, thấu kỷ, bính sinh trợ hẳn thân rất vượng, tháng ngọ hoả viêm, thổ táo, dụng thần hẳn phải là thuỷ kim. Ngọ xung tý là thuỷ kiệt, nhâm bính tương xung là hoả vượng thuỷ khô, dụng thần tài tinh hoàn toàn bị phá mà luận rất giàu có?
Tuy nhiên, tra ngày thì cũng có ra bát tự này, nhưng nếu tính theo tháng âm lịch, thì bát tự ra như sau
Nhâm tý- ất tị- kỷ tị- kỷ tị
Mệnh này thì trái lại, kỷ sinh tháng tị, thấu kỷ là vượng, thấu ngang vai trợ thân, nên dụng thần là ất mộc can tháng (khắc tỷ kiến không cho trợ thân quá vượng) hỷ thần nhâm thuỷ.
Tài tinh mệnh này là hỷ thần sinh dụng, lại đóng vai trò điều hậu, căn không bị phá.
Vận quý mão, ất mộc đắc căn lộc vượng, quý thuỷ thấu sinh ất khắc kỷ, là vận tốt.
Năm canh thìn, canh kim hợp ất là ất mộc dụng thần bị phá, nên năm này rất xấu.
Vì thế, tự nhiên tôi có một nghi vấn, liệu lập bát tự theo ngày sinh âm lịch mới đúng chăng?
Chứ không thể với một bát tự như ông đoàn kiến nghiệp đưa ra ở trên rồi gọt cho nó vừa giày với thực tế, lấy đó là chuẩn lý thuyết được.
Đây là nguyên văn của ông đoàn kiến nghiệp luận mệnh trên:
“Khôn: Nhâm Tý - Bính Ngọ - Kỷ Tỵ - Kỷ Tỵ
Vận: Ất Tỵ - Giáp Thìn - Quý Mão - Nhâm Dần
Hoả thổ chế khử Tý thuỷ, khử đi mất, cùng là Tài bị khử mất. Vận dụng nguyên lí hoán tượng, hoả thổ đều xem như Tài, người này đặc biệt giàu có. Vận Mão sinh hoả nên phát tài, nhưng có một năm đặc biệt xấu, gần như phá tài, là năm Canh Thìn. Người này làm xuất nhập khẩu, làm cái gì cũng không thành, đổ sông đổ biển. Vì năm Canh Thìn, Tý Thìn hợp, thuỷ nhập khố, Ngọ hoả chế không được thuỷ, Thìn thổ lại hối hoả. Thìn hại Mão, phá tài. Vận Nhâm, năm Quý Mùi không tốt, Mùi hợp bán Ngọ, Ngọ không thể xung Tý, Mùi tuy chế Tý thuỷ, nhưng không phù hợp với tổ hợp của nguyên cục, phản cục nên hung. Cần ghi nhớ: nguyên cục là dùng xung chế mà không phải hại chế. Năm Giáp Thân, Tỵ Thân hợp, ta hợp cùng nguyên thần của kỵ thần thuỷ, nên phát tài lớn. Hôn nhân: vận Dần, Dần Tỵ hại đến phu thê cung, không cần nhìn cũng biết đến kim Mùi (?) cũng kết hôn. Năm Nhâm Ngọ kiếm được 1-2 ngàn vạn. Vận Nhâm Dần tốt, Nhâm hư thấu, Dần sinh Tỵ Ngọ. Năm Nhâm Ngọ hoả đáo vị nên phát tài mấy ngàn vạn.”
Tôi không thấy thuyết phục với cái kiểu luận này.
Khôn: Ất Mùi - Ất Dậu - Bính Tuất - Kỷ Sửu
Vận: Bính Tuất - Đinh Hợi - Mậu Tý - Kỷ Sửu
Nguyên mệnh có thổ kim vượng, khử không triệt để thuỷ mộc. Sửu Dậu hợp, vượng kim phá Tuất nên phản cục. Hôn nhân không tốt, mệnh đặc biệt nghèo.
——
Không cần phải xem như thế này, bính hoả sinh tháng dậu là hưu tù, lại không đắc địa, chỉ đắc sinh, thân nhược dụng mộc hỷ hoả, nguyên cục ất mộc là dụng thần. Không có tài tinh thấu, bỏ thực tìm hư, xem canh tân kim tài tinh có cái lợi gì với mệnh này không. Canh tân kim đắc lệnh, lại có kỷ thổ bảo hộ, dậu tuất sửu mùi một rừng thổ kim, ất mộc này như ngọn đèn dầu trước gió, vận tân kim hợp bính, khắc ất, vất vả vì tiền, vận canh kim hợp ất vô dụng còn là tượng nguy hiểm về sức khoẻ, mệnh dĩ nhiên là nghèo.
Trình Hiểu Trí: Canh Tuất - Canh Thìn - Mậu Thìn - Nhâm Tuất
Địa chi bốn thổ, đáng lẽ Tuất xung Thìn, khử triệt để Thìn khố thì phát tài. Nhưng Thìn vượng nên khử không hết, nên chỉ có thể dùng Thực Thần sinh tài, nhưng Tài nhược mà lại vô dụng, cho nên mệnh này nghèo. Hạch tâm: hai Thìn và hai Tuất lực lượng tương đương, nên không thể khử triệt để, cho nên bốn địa chi đều vô dụng, đồng thời cũng bị phản cục nên đây là mệnh gập ghềnh.
———
Xem cũng rất khó hiểu, mậu thổ sinh tháng thìn là đắc thời, đắc địa. Toàn cục thìn tuất tương xung tạp khí mất hết, thổ động vượng khắc thuỷ, hơn nữa thổ khí không thấu nên đây là tượng chôn kim nữa. Thân vượng mà thực thương tài tinh đều bị phá là mệnh nghèo khổ khó khăn.
Xem tài vận trong tứ trụ khá dễ, đã xem tài vận thì phải nhìn tài tinh, bất kể thế nào. Không có tài hoặc tài tinh hiện không thấu thì bỏ hư tìm thực, tài tác động địa chi thì nhìn địa chi, tác động thiên can thì nhìn thiên can. Chỉ cần tài có hại, tiên quyết không thể giàu có.
Vd:
Khôn:
Giáp dần - tân mùi - giáp tý- kỷ tị
Giáp mộc sinh tháng mùi thất lệnh, đắc địa tại dần, gặp giáp trợ giúp, là mệnh thân vượng, dụng thần thổ hỷ hoả, kim chỉ là nhàn thần.
Mệnh này kỷ thổ tài tinh vượng tại tháng mùi, tự toạ tị hoả là vượng, thân vượng tài vượng, tài lai tựu ngã là số giàu có, cách cục mà nói, giáp mộc sinh tháng mùi thấu kỷ là chính tài cách, gặp giáp mộc tỷ kiếp khắc nhưng gặp kim khắc chế, là có cứu, tài quan cách.
Dương nữ, vận đi qua đất hoả thổ là dụng thần, càng ngày càng giàu có. 2 vận đinh mão, bính dần mặc dù đất mộc, nhưng bính đinh sinh kỷ là có nguyên thần, vẫn có tài.
Đây là số của nữ chủ tịch vinfast, đúng là đại phú do thiên
Phú gia tàu biển:
Càn tạo:
Đinh dậu- đinh mùi- tân sửu- canh dần
37: quý mão
47: nhâm dần
Bát tự này là một ví dụ rất hay vê dụng thần thay đổi theo đại vận.
Nguyên cục:
Tân sinh tháng mùi vượng tướng, thấu canh trợ giúp, địa chia thổ kim. Thân vượng mà có tỷ kiếp, dụng thần là quan sát, đinh hoả là dụng. Xét tài tinh, đắc căn lộc vượng tại dần, ất mộc sinh đinh hợp canh chế kị, giáp mộc sinh đinh là cát, là số đại gia.
Vận quý mão bắt đầu làm ăn riêng dần dần trở nen giàu có. Vận này dụng thần thay đổi, nguyên do, mão mùi hợp mộc, mão xung dậu làm căn kim bị tổn thương. Vận này nhật chủ nhược, kị thần thất sát, may thay Đại vận thấu quý thuỷ khắc chế 2 đinh, là chế kị nên cát.
Bước sang vận Nhâm dần, vận này tân kim lại trở nên vượng, nhâm hợp chế 2 đinh là không cát, tuy nhiên lưu niên lại liên tiếp các năm Giáp thân, Ất Dậu, Bính Tuất, Đinh Hợi là các năm dụng hỷ thần nên vẫn kiếm được tiền, nhưng năm Mậu Tý 2008 đột tử, để lại tài sản lớn.
Xem tài vận trong tứ trụ khá dễ, đã xem tài vận thì phải nhìn tài tinh, bất kể thế nào. Không có tài hoặc tài tinh hiện không thấu thì bỏ hư tìm thực, tài tác động địa chi thì nhìn địa chi, tác động thiên can thì nhìn thiên can. Chỉ cần tài có hại, tiên quyết không thể giàu có.
Vd:
Khôn:
Giáp dần - tân mùi - giáp tý- kỷ tị
Giáp mộc sinh tháng mùi thất lệnh, đắc địa tại dần, gặp giáp trợ giúp, là mệnh thân vượng, dụng thần thổ hỷ hoả, kim chỉ là nhàn thần.
Mệnh này kỷ thổ tài tinh vượng tại tháng mùi, tự toạ tị hoả là vượng, thân vượng tài vượng, tài lai tựu ngã là số giàu có, cách cục mà nói, giáp mộc sinh tháng mùi thấu kỷ là chính tài cách, gặp giáp mộc tỷ kiếp khắc nhưng gặp kim khắc chế, là có cứu, tài quan cách.
Dương nữ, vận đi qua đất hoả thổ là dụng thần, càng ngày càng giàu có. 2 vận đinh mão, bính dần mặc dù đất mộc, nhưng bính đinh sinh kỷ là có nguyên thần, vẫn có tài.
Đây là số của nữ chủ tịch vinfast, đúng là đại phú do thiên
Giờ kỷ tỵ : Tài cách có quan tinh hộ, vận đinh mão, bính dần khử quan không hộ tài, chỗ này thấy không hợp lý.
Còn sinh vào giờ đinh mão là thương quan tú khí, sinh tài hay chế quan đều không tổn hại đến cách cục.
ví dụ: Càn tạo:Sinh ngày5/7/1963(DL), nhập vận Đinh Tỵ năm 9 tuổi.
Quý mão- mậu ngọ- kỷ dậu- giáp tuất
Đại vận Ất Mão(29-38)Mệnh này khó xem nhất, hắn hành Ất Mãovận bắt đầu phát tài, đến nay thành vài trămvạn phú hắn. Có người giải thích là Quý thủytài tinh là dụng, bị Mậu hợp, hành mộc vậnkhắc khử Mậu thổ cứu tài. Tài cực suy bị hợplà khử, nào có thể cứu khởi? Sau lại cho rằngthị tòng cường cách, nhưng tòng cường ứng hỉấn, khi còn bé Đinh Tỵ vận trong nhà nghèoáo cơm cũng không đủ. Ta cho rằng thị tònglộc cách, thực thần Dậu là bệnh thần, khử chilà thích hợp. Kiếp tài là kỵ thần, cho nên hắntừng bị 1 anh em bà con lừa gạt hai lần. CanhThìn năm vì hắn đảm bảo 30 vạn cho vaykhông đòi được, ngân hàng tìm hắn đòi nợ, vìthế hắn sửa lại tên công ty, tuyên bố đóng cửa
———-
Xem rất khó hiểu, mệnh này xem theo vượng suy như sau.
Kỷ sinh tháng ngọ là vượng tướng, đắc thế tại tuất, thân vượng, dụng mộc hỷ thuỷ. Thiên can mậu thổ tỷ kiếp đã bị chế, vậy quý thuỷ tài tinh là hữu dụng, nhâm thuỷ tài tinh có đến cũng sinh giáp mộc dụng thần. Là mệnh giàu có.
Vận ất mão, là vận dụng thần thì thuận lợi thành công chứ có gì mà khó xem?
Năm canh thìn, canh hợp ất khắc giáp là mất dụng thần thì xấu.
Càn tạo:
Nhâm dần - kỷ dậu- ất mão- mậu dần
Tạo này vừa nhìn liền tri thị tòng vượng cách,kỵ thần Dậu kề sát, nên khó có thể làm quan. Hỉ Mậu Kỷ kỵ thần tài tinh hư thấu vô sinh,đại phú mệnh. Nhâm Tý vận Ất Hợi năm lậpnghiệp, tư sản mấy ngàn vạn. Giáp Dần vậncó thể hội thiệp vào chính trị.
———
Chắc ngài Đoàn kiến nghiệp xem mệnh này cố tình cho rằng mệnh này nhiều dần mão nên mộc vượng, lại thêm đại vận nhâm tý năm ất hợi phát triển giàu có, nên luận là tòng vượng.
Không phủ nhận mệnh này nhiều mộc, nhưng vấn đề tháng trọng thu thì mộc này chỉ là đống lá khô thôi, trạng thái ất mộc ở đây đang là thái quá, nhưng không vượng, vì chỉ đắc thế mà không đắc sinh, đắc lệnh, đắc trợ. Mệnh này là mệnh thân nhược, dụng mộc hỷ thuỷ. Mậu kỷ ở mệnh này là kị thần, tuy nhiên kị thần này hưu tù tại tháng sinh, không đắc căn lộc vượng mà cũng không được sinh trợ, nên kị thần yếu. Lại thêm các vận nhâm quý giáp ất nên phát triển mạnh.
Càn tạo:Sinh ngày 21/8/1962 nhập vậnnăm 5 tuổi.
Nhâm dần- mậu thân - tân mão - canh dần
Vận tân hợi
Hỏi, vì sao tạo này Tân Hợi vận Ất Hợi nămkiếm tiền, mà ở cùng vận Bính Tý năm pháđại tài?Ta đáp: Tạo này ứng với là tòng tài cách,nguyên nhân nhật chủ căn bị vượng mộc pháhư,. Tân Hợi vận vốn là nhật chủ phát tài đạivận, nguyên nhân nhật chủ Tân tại đại vậnxuất hiện sinh ra tài của nguyên thần Hợi , ẤtHợi năm phát tài vốn là ứng kỳ : Bính Tý nămBính Tân hợp, Tân kim bị hợp khử, nhật chủđã không có, như thế nào tòng, cho nên hộiphá tài. Tòng cách nhật chủ càng nhược càngtốt lý luận vốn là sai lầm. Cái tạo này Canhcùng Tân tòng tài, đương nhiên nhật chủ bịquản chế .
———
Số này luận tòng tài thì đúng thua ông đoàn, tân sinh tháng thân là đúng đất vượng, mậu sinh, canh trợ hiển nhiên là cường vượng.
Số này xét tài vận là tốt, khi ất hợp canh và giáp khắc mậu, là có chế kị thần.
Còn khi xem lưu niên, thì người luận lại quên một thứ, đại vận xấu nhưng không phải năm nào cũng xấu, và thường nếu lưu niên tốt chỉ thể hiện trong vòng 1 năm, qua đó là hết.
Thân vượng gặp vận tân hợi dĩ nhiên là kém, nhưng hợi hợp dần hoá mộc, hợi mão hợp mộc, nên vận này có tài khí vượng, cần mong chờ vào năm Giáp ất tài khí thấu can thì tài vận mới thịnh vượng, trong đó thì năm ất tốt hơn năm giáp, vì ất hợp canh kim là hợp chế tác động tốt hơn khắc chế của giáp mậu. Năm ất hợi là ứng kỳ, năm bính tý tài tinh không thấu can nữa, nên so với năm trước là kém hơn nhiều, vận này người này chỉ kiếm được tiền vào năm giáp ất mà thôi.
Bàn về sinh khắc
Cùng âm, cùng dương thì sinh khắc mạnh mẽ
Một âm, một dương thì lực sinh khắc yếu.
Cái này ứng dụng vào luận vận
Vd: nguyên cục có nhật can là mậu thổ, có đinh hoả sinh. Gặp vận Giáp mộc, mặc dù Giáp mộc vẫn sinh đinh hoả, nhưng khắc Mậu thổ mạnh hơn nhiều lần, nên tính khắc không tính sinh, hay nói cách khác là Hoả không hoá hết mộc mà thổ gặp hoạ. Chú trọng điều này sẽ thấy sự khác nhau giữa vận quan và vận sát, vận thực và vận thương, chính tài và thiên tài, kiêu và ấn.
Hợp chế nó mạnh mẽ hơn khắc chế nhiều lần bởi vì
Giáp kỷ hợp không hoá, cả giáp và kỷ đều không sinh khắc được can khác.
Nhưng giáp khắc mậu, thì mậu tổn lực, nhưng vẫn có thể khắc nhâm bình thường.
Càn tạo:
Quý sửu - tân dậu- nhâm tý- canh tuất
Bát tự này trước đây được đưa lên diễn đàn khác, không ai dám xem đây là số giàu có. Và cũng rất theo lẽ thường.
Nhâm sinh tháng dậu là vượng tướng, toàn cục đắc lệnh, đắc sinh, đắc trợ, đắc thời. Thân này rất vượng nhưng không thể tòng, vì tuất thổ phá cục.
Thân vượng mà không có tài mà mệnh giàu có?
Bỏ hư tìm thực, vận đinh, đinh khắc tân hợp nhâm, chế ấn, tài lai tựu ngã, phất
Vận bính, hợp tân, khắc canh, chế kị thần là cát.
Vận ất, ất hợp canh kim, cát
Vận giáp, trung bình
Người này bắt đầu từ năm 30 tuổi bước vào vận tài, liên tục đinh tị, bính thìn là phất liên tục. Nhưng người này nói tài vận thì tốt, nhưng lục thân cực kỳ kém, toàn cục là kị thần, khắc vợ con, gia đình.
Dĩ nhiên là chỉ phát mạnh khi vào vận tài mà thôi, qua vận thì không phát mạnh nữa, nhưng vận ất mão vẫn là vận hỷ thần, nên cũng chẳng hết của được, thậm chí vào năm tài vẫn phát bình thường.
Thiên can vô căn, thì khác gì cây mà không có rễ, chẳng có tác dụng gì cả, tức thiên can đó lực sinh khắc gần như không có, nhưng chịu sinh khắc của thiên can khác rất mạnh, mất yếu tố chủ động mà phải chịu bị động. Cũng gần giống như hợp trói vậy. Kị thần vô căn thì tốt, dụng thần vô căn thì xấu. Mặc dù nó không hoàn toàn mất tác dụng như hợp trói, nhưng thực tế thường ứng kỳ tốt xấu rất nhẹ, ví dụ dụng thần là tài tinh mà có căn trọng, thì thường ứng vào phát tài, nhưng nếu vô căn thì lại chủ về ăn nói, tài hoa, hư mà không thực.
Bàn về lưu niên.
Lưu niên là thời gian thực tế, không thay đổi, vì thế nó là chủ tể được mệnh danh là vua trong mối quan hệ vua- quan- dân của thái tuế- đại vận- nguyên cục.
Thái tuế có thể điền thực cho tam hợp cục, ví dụ mệnh có tị dậu, tuế đến sửu thì tị dậu sửu hợp kim tam hợp cục thành, kim vượng.
Tuế xung chi nguyên cục thì chi đó động, tức nếu chi đó gặp hợp thì hợp cục bị phá, chi đó độc lập.
Tuế hợp chi nguyên cục, thì chi đó tĩnh, tức nếu chi đó gặp xung thì không bị xung nữa.
Thế nên người ta hay nói xung thái tuế là hoạ, hợp thái tuế là phúc.
Tuế xung chi đại vận, thì chi đại vận bị tổn thương
Tuế hợp chi đại vận, thì chi vận bị trói, không thể tác động đến nguyên cục nữa.
Cho dù xung khắc hợp xung thế nào, bản chất của thái tuế vẫn mãi không thay đổi, ví dụ chi tuế là thìn, thì dù xung hợp hình hại thế nào đi nữa thì thìn vẫn tàng ất, quý, mậu, không mất mát không tổn thương gì hết.
Vì mối quan hệ vua quan dân như thế, nên thiên can lưu niên chỉ cần có lợi cho mệnh cục, thì năm đó phải tốt, nếu kị thần không bị chế thì bán cát, bán hung hoặc gặp hoạ mà có cứu, vượng thì cát lợi lớn, suy thì cát lợi nhỏ.
Mệnh phổ thông, đó là dụng thần có, nhưng không đắc tài, cũng không đắc quan. Vd 1 mệnh như sau
Càn:
Ất sửu- kỷ sửu - bính thìn - quý tị
Mậu tý/đinh hợi/bính tuất/ất dậu/giáp thân/quý mùi
Bính sinh tháng sửu thất tiết, toàn cục chỉ đắc thế duy nhất ở chi giờ tị hoả, quý thuỷ thấu khắc, dụng thần lấy ất mộc trụ năm khắc kỷ thổ sinh thân, nhưng ất mộc này không đắc lực, cũng coi là có dụng thần.
Dụng thần ở can năm, nên xuất thân cũng khá, gia đình nền tảng là có học thức, ất mộc thấu căn từ chi ngày, nên vợ có giúp đỡ, nhưng tình cảm không tốt.
Lại thêm đại vận toàn dụng thần nên cuộc sống cũng không đến nỗi nào.
Đây là dạng tứ trụ phổ thông khi tài không nhiều, quan cũng không lớn, chỉ có điều là dụng thần yếu, nhưng nhờ vận mà thôi.
Về hôn nhân, thìn thổ là cung hôn nhân, thấu ất mộc là dụng thần nên vợ có giúp đỡ, nhưng cũng mang lại sự vất vả khi thìn thổ cũng trợ thuỷ và thổ, bính hoả lấy tân kim làm vợ, tân kim khắc ất sinh quý hợp bính, là kị thần nên tình cảm không thể tốt, may mắn mà tân kim tàng trong khố, nên sự bất mãn này nó cứ ẩn tàng, đến lúc tuế vận xấu nó sẽ ứng kỳ.
Part 2: nhật chủ hợp tài
Nhật chủ ý hướng hợp tài dĩ nhiên là can dương, loại mệnh cục này ý hướng của nó là hướng đến tài, tức phải xét căn khí của nhật can và tài tinh, nếu ấn tỷ nặng hơn thì nghèo, nếu thương tài nhiều hơn thì vất vả, nhiều bệnh trong người nhưng tài vận có. Đây có thể ứng với trong tử vi có câu “phi yểu tắc bần”, nhật can và tài tinh phải cân bằng nhau thì mới phú quý khả kỳ được (phú quý một cách kỳ lạ, tự nhiên mà có), tài có thực thương tương sinh, thì nhật can cũng phải có ấn tinh phù trợ, loại mệnh cục này không thích tỷ kiếp phân tài, hoặc quan sát khắc thân, nếu gặp, tiên quyết được thọ mà không được phú hoặc ngược lại.
Thân cường thì mới đảm đương được tài, có những bát tự, thân nhược, tài nhiều nhưng phát ở vận tỷ kiếp, ta nhìn là vậy nhưng lại không là vậy :)) đúng là vào vận tỷ kiếp, chế tài hộ thân thì dĩ nhiên là tài vận tốt, nhưng cái cơ bản ở đây là bản thân người đó gặp nhiều bệnh, và thường thì tỷ kiếp đi qua thì bỏ hết tiền đi mà chữa bệnh thì thọ, thực tế có rất nhiều trường hợp như thế, theo cách nhìn của bát tự, người như thế không được coi là “giàu”. Chúng ta chỉ nhìn vào bề ngoài dát vàng nhưng không biết người ta gặp phải những gì để có nó. Hơn thế nữa, những bát tự thuộc dạng thân nhược mà thương tài nhiều, ngoài nhật chủ ra, hết thảy 7 chữ còn lại hầu hết là kị thần, vậy người này tình cảm gia đình không tốt, vợ chồng xích mích, con cái quậy phá, vậy xét ra để có tiền trong khoảng 20 năm (vận tỷ kiếp) mà gặp cái tình cảnh như thế thì đáng thương hơn là đáng ngưỡng mộ.
Vì thế, lợi về tài vận, thì thân phải mạnh, bát tự sinh hoá có tình, và tiên quyết là tài tinh phải không hại đến mệnh cục. Người như thế, vừa giàu, vừa thọ, gia đình hạnh phúc ấm êm, phúc lộc thọ đủ đầy.
Ví dụ về thổ vùi kim, thân nhược nhưng tài không hại.
Nhâm thìn - đinh mùi - tân mùi - giáp ngọ
Tân kim nhật chủ Vô Căn, nên tân kim ngày không sinh mà cũng chẳng khắc can khác, nhưng lại rất sợ đinh hoả khắc hoặc thổ thấu can sinh, là tượng trì trệ. Giống như anh được mẹ chăm kỹ quá mà kỹ năng không có, là người vô dụng.
Nguyên cục này có đinh hoả thấu nhưng gặp Nhâm hợp trói, đinh hoả không thể khắc thân.
Có giáp mộc thấu can mà đề phòng kỷ thổ, mậu thổ thấu can sinh thân.
Đây là thổ nhiều vùi kim, dụng thần là mộc, đại vận đến vận Nhâm tý thì cát lợi, nhâm hợp chế đinh lần 2, nhâm sinh giáp là có lợi dụng thần.
Thân nhược nhưng tài là dụng thần là đây, cuối đời vào đất tài vận còn phát mạnh nữa.
Mệnh cục dạng này không thích kim đắc căn, nếu đắc căn thì thành thân nhược kỵ tài, dụng thần ắt là thổ kim, là mệnh nghèo khó
Tất cả là ở chữ Thời
Chính quan, thiên quan (thất sát) là hai mặt của một đồng xu, một văn, một võ. Chính quan thì nhu thuận, sáng suốt thì thất sát bá đạo, nóng nảy.
Ở thời chiến, thất sát là kẻ anh hùng trong cảnh loạn ly, là đại tướng quân giết giặc, chính quan chỉ là kẻ nho nhã thôn dã, hoặc kẻ quân sư quạt mo mà phù trợ cho người khác mà thôi.
Ở thời bình, thất sát lại chỉ là một kẻ đồ tể không hơn không kém, hoặc nếu có công danh thì cũng chỉ nằm ở chức phó, ngược lại với đó chính quan lại trở thành kẻ lãnh đạo sáng suốt, là chính trị gia tài ba, giỏi quản lý đất nước.
Mao trạch đông mang khí chất của sát ấn, là bậc anh hùng có danh có tiếng với đời, nhưng chỉ trong thời chiến là vậy, khi đã thống nhất trung quốc, thì lại liên tục đưa ra các chính sách sai lầm, hàng triệu người chết đói, mất nhà mất cửa, ngàn năm công tội là vậy.
Cùng một bát tự, nhưng phải nhìn vào chữ Thời, 60 năm, 120 năm, 240 năm mới lặp lại một bát tự, nhưng đắc thời thì Bát tự chỉ là duy nhất mà thôi.
Gần đây, bà Thái Anh Văn đắc cử tổng thống đài loan, sinh ngày 31-8-1956, chưa cần biết giờ sinh, tam trụ đã thấy sát lưỡng thấu, khí chất mạnh mẽ của nữ nhân hào kiệt, thế nên xét xa hơn, bà này là nhân vật của thời chiến, và dự đoán, chiến tranh sẽ sớm xảy ra, đúng là thời thế tạo cơ hội để đi vào lịch sử, tình thế của đài loan hiện giờ, cần một người như thế.
Nguyên cục không có dụng thần, còn hơn có mà bị phá
Nói không có dụng thần, không có nghĩa là nó hoàn toàn không có, mà hiện thì không khởi phát tác dụng, ví dụ, thân vượng có ấn, dụng tài khắc ấn nhưng tài không hiện, nhân nhược có sát, dụng ấn hoá sát nhưng ấn không hiện... những mệnh tạo như thế đều được coi là không có dụng thần.
Nhưng tối kỵ, có dụng thần mà bị phá, một việc cũng chẳng thành. Ví dụng dụng tài khắc ấn, mà lại có tỷ kiếp đoạt tài hoặc quan hoá tài sinh ấn, dụng ấn chế thương, mà tài hiện khắc ấn hoặc tỷ kiếp hoá ấn sinh thương... đó đều là có mà lại thành không, cả đời khó hành vận tốt, một việc không thành.
Hoặc có hiện nhưng cũng chẳng có tác dụng gì, như căn khí bị phá, bị bạt căn, khử bì đều là xấu cả, đó là hoa trôi dòng nước, nhìn đẹp đấy, nhưng chẳng hay ho gì.
Ngược lại, dụng thần tuy không hiện, nhưng thế ở địa chi vững mạnh, tam hội tam hợp, chỉ cần đến tuế vận thấu can khởi phát tác dụng, giàu sang phú quý nằm trong tầm tay
Bàn về lấy giờ sinh mổ
Sách cụ Thiệu Vỹ Hoa cho rằng, chọn giờ sinh mổ cũng xem được tứ trụ, nhưng nhiều gia đình không để ý điều tối cơ bản là cái phúc gia đình có gánh được đứa trẻ đó không, không phải cứ có một bát tự tốt là cuộc đời nó sẽ tốt, ví dụ bố mẹ nghèo hèn, nhưng sinh ra đứa con có bát tự chỉ ra bố mẹ giàu có, thì đứa trẻ đó được coi là dưới mức trung bình, đó là sự sai lệch thông tin.
Thứ hai, chọn giờ sinh mổ là áp theo cái ý muốn chủ quan của người chọn, và cả bố mẹ đứa trẻ, có những cái ta nghĩ là tốt, nhưng đối với đứa trẻ hoặc tương lai sau này lại là không tốt, vận mệnh dĩ nhiên rẽ lối khác.
Gần đây, có một thầy khoe chọn giờ sinh mổ:
Khôn tạo:
Canh tý- bính tuất- quý tị- quý hợi
Ất dậu/giáp thân/quý mùi/nhâm ngọ/tân tị/canh thìn
Một cách chọn giờ sinh rất vô lương tâm.
Quý sinh tháng tuất là thất thời, đắc địa, đắc sinh, đắc trợ, thân này hẳn rất vượng. Bính hoả thấu can làm hao thân vượng là tốt, nhưng toạ mộ, lại có tỷ kiếp có ấn sinh đến khắc, tị hoả là lộc địa của bính, gặp hợi thuỷ xung.
Tị hoả còn là cung chồng của nữ, hợi xung là gia đạo có vấn đề.
Dụng thần thấu can, nhưng vô lực, cung chồng bị phá, kèm đại vận cả một đời quý-nhâm-tân- canh, nói về tiền tài, đến vận tị ngọ là có, nhưng vất vả, nói về gia đạo là xấu, con cái sau này cũng không quý hiển, không được nhờ con.
Vậy, với một nữ giới mà cung chồng con đều bị phá như thế, tài quan cũng vô lực như thế mà ông thầy kia cũng chọn cho được, thì thật là không còn gì để nói. Và thật ra thì tôi cũng nghĩ đó là thiên mệnh của đứa trẻ, gặp phải một tên bất lương đã chọn giờ sinh ra cho nó.
Chủ tịch Sam Sung Lee Kun Hee
9/1/1942
Tân tị - tân sửu - nhâm tuất- ?
Canh tý/kỷ hợi/ mậu tuất/ đinh dậu/ bính thân/ất mùi/ giáp ngọ/quý tị/ nhâm thìn
Mất năm Canh tý
Xem thọ nguyên tinh, nhật can vô khí ấn tinh là thọ tinh, nhật can quá cường vượng, thực thương là thọ tinh.
Theo dự báo có thể sinh giờ Tân Hợi
Năm canh tý, hợi tý sửu hội thuỷ, thuỷ cực vượng, kim khí ấn tinh cũng thừa vượng sinh thân, nhật can quá vượng mà không tiết tú được nên mất. Thực ra ông ta đã yếu ở vận quý tị, nguyên do tị hợi tương xung làm giáp mộc thực thần trong hợi bị tổn thương nghiêm trọng, đến năm tý là ứng kỳ.
Tân tị - tân sửu - nhâm tuất - tân hợi
Nhâm sinh tháng sửu thất lệnh, đắc căn tại hợi, có ấn sinh nên thân trở nên vượng. Theo phép chọn dụng thần, thân vượng mà ấn nhiều dụng thần là tài, nguyên cục tài không hiện.
Vận đinh dậu, tị dậu sửu hợp kim, tân kim cường vượng, nhưng đinh hoả nắm quyền đại vận khắc tân hợp nhật chủ, tài lai tựu ngã, là vận bắt đầu khởi phát, cũng khá vất vả khi tị hoả bị hoá khí.
Vận bính thân, bính hoả xuất can hợp 3 tân kim chế kị thần, giàu có nổi tiếng
Vận thực thương vẫn phát nhưng phát vào các năm Bính đinh
Vận quý tị, tị xung hợi, hợi thuỷ ở đây là cơ giam của mệnh này, là vận tử vong, ứng kỳ vào năm canh tý, giáp mộc thọ tinh bị bạt khí, thuỷ nhiều mộc trôi.
Nếu đúng ngày giờ sinh, ông này nhất định phải sinh vào giờ hợi hoặc tý thuỷ thì mới có thể dụng thực thương tài, và chỉ giờ hợi mới ứng vận tử vong.
“Tại Nhật, Lee thừa nhận cô độc và cảm thấy khó kết bạn vì tâm lý bất bình của người Hàn với người Nhật thời chiến. Ông trở về Hàn Quốc nhưng rồi cũng quay lại Nhật Bản để học kinh tế tại Đại học Waseda, và sau đó học quản lý kinh doanh tại Đại học George Washington (Mỹ) nhưng không nhận bằng tốt nghiệp.”
Có lẽ do ấn là kị thần, học được cái bằng waseda có lẽ là cố gắng rất lớn :))
Xem nhà cửa trong tứ trụ sách cổ kim đều luận xoay quanh Ấn tinh, gốc là từ dịch lý, hào phụ mẫu biểu trưng của nhà cửa.
Tuy nhiên ấn tinh chỉ là nha của mình ở, ví dụ nguyên cục có ấn tinh gặp xung thì luôn luôn thay đổi nhà cửa, ấn gặp mã có thể ở nước ngoài với thời đại bây giờ. Còn khi xét nhà đất của một người (một dạng tiết kiệm tiền bằng cách mua đất thay vì gửi ngân hàng) thì là tượng của Ấn khố.
Nguyên cục gặp ấn khố, nếu tổ hợp tốt, ấn khố hữu dụng thường có nhiều đất đai, hoặc tâm ý của người đó khi có tiền thích để tiền vào đất hơn là gửi ngân hàng. Trong tứ trụ tài khố biểu hiện ngân hàng, nếu có đồng thời ấn khố và tài khố thì cân đối giữa mua đất đai và gửi ngân hàng.
Chính ấn là nhà danh chính ngôn thuận, mình đứng tên chủ, hoặc như nhà nước cấp nhà cho quan chức cũng có thể coi là chính ấn.
Thiên ấn là nhà ở trọ, nhà sống chung nhưng mình không là chủ hoặc thậm chí nhiều chàng ở rể cũng xem thiên ấn, nhà tham nhũng cũng có thể coi là thiên ấn.
Hạn mua nhà có thể vào những năm tài tinh xuất hiện khắc ấn, nếu ấn là kị thần thì việc mua nhà dễ dàng, thuận lợi. Nếu tổ hợp không lợi thì việc mua nhà này hao tổn nhiều hơn dự tính, phải vay nợ hoặc có rắc rối về giấy tờ.
Làm quan có cả thiên ấn lẫn chính ấn thì dễ tham nhũng đất đai, đây là một tiêu chí.
Khí thế và ấn tỷ
Vượng có vài loại vượng, do khí thế mà vượng, tức bính đinh gặp tỵ ngọ mùi, dần ngọ tuất, dụng thần là thực thương, lúc này thực thương vừa tiết khí thân, vừa chủ về tuổi thọ, nếu không có thực thương e mệnh không sống lâu.
Vượng do ấn vượng sinh, dụng thần là tài, tránh mộc đa hoả tắt, hoả vượng thổ khô, thổ đa kim mai, không có tài thì tài năng không được hiển lộ, con người lười biếng dựa dẫm, không thành tựu.
Vượng do tỷ kiếp trợ nhiều, dụng thần là quan sát khắc chế tỷ kiếp mà vệ tài, bằng không thì dễ bị cướp đoạt thành quả, làm bao nhiêu hết bấy nhiêu.
Có nhiều ca khó hơn, ví dụ như vượng nhờ cả tỷ kiếp và ấn tinh song thấu, thì khó mà có dụng thần hoàn mỹ, tài khắc ấn thì có tỷ kiếp, quan sát khắc chế tỷ kiếp thì còn ấn. Thế nên để có một tứ trụ hoàn hảo rất khó.
Nhân nguyên tư lệnh
Nguyệt lệnh chứa nhiều nhân nguyên, trong mỗi tháng đều có sự phân chia khoảng thời gian nắm lệnh. Nhưng có sự không nhất quán khi phân chia thời gian này, sách trích thiên tuỷ viết khác, uyên hải tử bình viết khác và tử bình chân thuyên cũng khác. Sách dự đoán theo tứ trụ của cụ Thiệu Vỹ Hoa thì chỉ nói sơ sài về cái này, nhưng cũng có dùng, điển hình là cụ phát minh ra cách tính toán vượng nhược là dùng nhân nguyên tư lệnh để phân chia.
Tuy nhiên nhân nguyên tư lệnh thì chắc chắn có, nhưng để nói mấy ngày A nắm lệnh, B nắm lệnh thì không thể cứ nhất nhất như vậy được.
Một số nhà nghiên cứu mới đây cho rằng nhân nguyên tư lệnh phụ thuộc vào từng năm. Ví dụ năm dần, thì mộc khí vượng và tư lệnh nắm quyền của hành mộc trong năm dài hơn thông thường.
Ở việt nam gặp lũ kỷ lục là vào năm 1996 bính tý, nước ngập năm 2008 Mậu Tý, và năm nay Canh tý, cũng gặp mức lũ kỷ lục, rõ ràng, thái tuế có tác động không nhỏ đến tư lệnh của các tháng. Rất nhiều trận lũ lụt lớn xảy ra vào các năm Hợi, Tý
Điển hình của nhân nguyên tư lệnh, có thể kể đến rét nàng Bân, xảy ra vào tháng 3 âm lịch và chỉ kéo dài vài ngày. Đây trùng hợp với tháng Thìn (tháng 3), tàng Ất, Quý, Mậu, và vài ngày rét đó có thể ứng vào thời điểm Quý thuỷ hành quyền. Nhưng cũng có năm vào thời điểm đó lại không rét lắm, thì lại thường ứng vào các năm tị, ngọ (hoả vượng cả một năm). Dĩ nhiên bây giờ do biến đổi khí hậu, thiên tượng ngày càng kỳ lạ, nên tương lai có lẽ môn tứ trụ này không còn đúng nữa.
Cùng trong một tháng tiết khí, nhưng nhân nguyên tư lệnh sẽ thể hiện khí hậu khác nhau. Ví dụ tháng sửu, quý thuỷ hành quyền thì rét và có mưa ngâu, kim hành quyền thì rét và hanh khô, thổ hành quyền thì rét “ngọt”. Người ta hay nói rét ngọt chờ xuân về, ấy là kỷ thổ tháng sửu đang hành quyền thoái khí để sang tháng Dần năm tới. Hiện vẫn chưa có một công thức định lượng chính xác ngày nào trong tháng thì ngũ hành nào nắm lệnh, thường chỉ ước lượng.
Có một các khá hay đó là dựa vào bệnh mà đánh giá, ví dụ một người có bệnh lý về mắt, Cận thị chẳng hạn, thì đó là do Mộc yếu nhược. Hoặc bị viêm da cơ địa, thường do kim vượng, hoả vượng làm thuỷ mộc yếu nhược, da khô, can thận suy kiệt...
Nguyên lưu
Là một phần của tinh- khí - thần, cái sinh ta- ta- cái ta sinh. Nếu là nhật chủ thì kiêu ấn- ta- thương thực là tinh khí thần. Nguyên lưu càng dày phúc càng lớn, vận xấu cũng không bại hoàn toàn, ngoài ra cũng thể hiện người sống thọ.
Đa phần dựa vào sinh hoá mà lưu thông, nhưng cũng có một số trường hợp dùng khắc, như thổ đa kim mai, dụng mộc để thổ sinh cơ, mộc đa hoả tắt, dụng kim để mộc sinh cơ.. còn lại tương tự như vậy.
Nguyên lưu có 3 phần: Nguyên đầu- con đường lưu thông - nơi tụ khí, trong đó quan trọng nhất là nơi khí tụ, vững chãi như thái sơn thì cực cát, hình xung khí tán thì bình thường, gọi là hữu danh mà vô thực.
Cũng có một dạng khác hiếm hơn, đó là không rõ nguyên đầu, cũng không rõ nơi thu cục, bát tự dạng này là hiếm nhất và là trạng thái vô cùng tốt, khí không quá vượng nhưng dồi dào.
Nguyên lưu sẽ chạy theo hướng can chi cùng 1 trụ, hoặc chi cạnh nhau, can cạnh nhau, nếu gặp thần gây trở ngại thì bệnh ở thập thần đó, có thần khác khắc khử nó đi thì cát ở mặt đó.
Dĩ nhiên nguyên lưu nó cũng chỉ nắm một phần trong các cách luận mệnh, chủ yếu là phần Thông Quan. Mà tứ trụ thì bao gồm ba phần, trung hoà cân bằng, điều hậu và Thông Quan. Có nguyên lưu tốt là đã được 1/3 mệnh hoàn mỹ, thêm nhiệt độ hàn noãn táo thấp phù hợp, dụng thần vượng suy có lực thì không thể không phú quý, đạt cả Ngũ Phúc.
Nghiệm lý riêng, qua một vài trường hợp, tôi nhận thấy người nào mang bát tự có nguyên lưu dài, đạt cách thì thường có Phúc lớn, làm gì cũng nhẹ nhàng, Ứng với nhân tướng là có Tai đẹp (chủ phúc thọ). Bát tự có dụng thần cân bằng mạnh mà thêm nguyên lưu nữa thì đúng là như gấm thêm hoa, làm một mà ăn mười, phú quý dễ như trở bàn tay. Vì nó chỉ chiếm phần thông quan, nên nếu chỉ dựa vào nguyên lưu nói người này không thể phú quý là không đúng. Tứ trụ quan trọng nhất là dụng thần cân bằng, đây mới là cái để xem Phú quý ở đời. Ví dụ như mấy siêu sao bóng đá, danh tiếng, tiền bạc thì không thiếu, tuy nhiên họ phải rất vất vả nỗ lực luyện tập mới đạt được điều đó. Đó là dụng thần cân bằng thì tốt nhưng lưu thông kém vậy.
Bát tự thế nào thì lấy chồng/vợ muộn
Có nhiều tiêu chí, sau đây là tiêu chí điển hình
Tài tinh/quan tinh ở xa nhật can, nếu ở gần như toạ chi ngày, rất dễ tảo hôn. Nếu ở nguyệt can, thời can thì sẽ kết hôn trong khoảng 20-30 tuổi, nếu nguyệt chi- thời chi dễ kết hôn ở độ ngoài 30 tuổi, duy nếu ở năm- đặc biệt là chi năm thường cưới rất muộn, có thể ngoài 40 tuổi, khó duyên.
Vd: nữ sinh ngày 4/11/1933 giờ sửu
Quý dậu- nhâm tuất- giáp tuất- ất sửu
Quý hợi/giáp tý/ất sửu/bính dần/đinh mão/kỷ tị/canh ngọ
Giáp mộc lấy dậu kim là phu tinh, cách xa nhật can, chi ngày gặp hình, thêm đại vận đến hơn 70 năm cũng không gặp quan tinh. Nên cả đời không lấy chồng, sống độc thân đến lúc mất.
Khôn: giáp thìn- nhâm thân- mậu ngọ- kỷ mùi
Mậu thổ lấy giáp mộc làm phu tinh, cung phu thê gặp hợp, giáp mộc lại ở trụ năm thêm đại vận đến 55 tuổi mới gặp đất mộc thì còn chồng con gì đây?
Khôn: đinh mùi- bính ngọ- quý dậu- nhâm tý
Quý thuỷ lấy mùi thổ làm phu tinh, nằm chi năm cách xa nhật can, cũng là mệnh độc thân điển hình, tuy nhiên kỷ thổ tàng trong mùi, gặp vận dẫn xuất cũng có thể kết hôn, nhưng sau đó lại ly hôn và không tái giá.
Khôn: tân mão- tân sửu- bính thìn- giáp ngọ
Nhâm dần/quý mão/giáp thìn/ất tị/ bính ngọ
Bính hoả lấy nhâm quý làm phu tinh, thuỷ tàng trong sửu-thìn, hành vận dẫn xuất có thể kết hôn, tuy nhiên nhâm quý đại vận lại thấu xuất khi tuổi đời còn quá trẻ, tuổi kết hôn lại hành đất nghịch hành, cho nên cả đời cũng chẳng có hôn nhân, về hưu sống độc thân.
Càn: nhâm tý- mậu thân- tân mùi- bính thân
Tân kim lấy mộc làm thê tinh, toạ ngày nhưng chỉ là dư khí, cần dẫn xuất mới có thể kết hôn, hành vận đến 55 tuổi mới đến mộc vận, cũng là số độc thân.
*** mệnh có người phối ngẫu ngoại tình
Dấu hiệu kinh điển của việc này là phu thê cung (chi ngày) gặp đất tam hợp, bán hợp, ở trong điều kiện bổ trợ thêm các sao đào hoa, hồng diễm thì càng chắc. Có người cho rằng chi ngày gặp lục hợp là phối ngẫu ngoại tình là không đúng, dạng bát tự có lục hợp thế này là một dấu hiệu của việc khó có hôn nhân, và một khi đã có thì vô cùng bền vững, nếu tốt thì phu xướng phụ tuỳ, nếu xấu thì dày vò nhau cả đời.
Càn: ất tị- đinh hợi- kỷ mão- tân mùi
Chi ngày mão mộc, gặp tam hợp hợi mão mùi chủ về vợ ngoại tình
Càn: giáp thìn-mậu thìn-quý mão- kỷ mùi
Mão mùi thê cung bán hợp mùi, là số có vợ đi ngoại tình.
***xem phối ngẫu ít tuổi hay nhiều tuổi hơn mình.
Chủ yếu là xem sự chênh lệnh của vượng suy phu thê tinh và nhật can. Thân vượng hơn tài quan thì phối ngẫu nhỏ tuổi hơn, thân suy hơn tài quan thì phối ngẫu nhiều tuổi hơn.nếu càng cân bằng thì độ tuổi chênh lệch không có lớn, có thể ngang tuổi nhau.
Càn tạo:
Bính thìn- canh tý- kỷ dậu- Kỷ tị
Kỷ thổ sinh tháng tý thất lệnh, giờ có tị hoả hợp dậu kim, tị hoả biến tính, lực sinh thổ yếu, thìn thổ ở năm hợp tý thuỷ, lại gặp kim sinh, cho nên thân nhược mà tài vượng, lấy vợ hơn 8 tuổi.
Khôn
Nhâm dần- quý sửu- tân hợi- kỷ hợi
Hợi hợi tự hình mà động thuỷ cực vượng, kim khí bị tiết quá nhiều, mừng nhâm toạ dần mộc, tháng sửu mộc hoả đều tiến khí, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc ám sinh hoả, thân càng nhược tài quan càng vượng. Lấy chồng hơn mấy chục tuổi.
***bát tự được nhờ vợ-chồng, hôn nhân tốt đẹp
Xem về thể dụng, chi ngày tốt đẹp là hôn nhân tốt đẹp.
Càn tạo: mậu thân- canh thân- quý sửu- nhâm tý
Tý sửu hợp , sửu thổ biến tính, sinh kim trợ thuỷ, toàn cục thể tượng là hướng đến thuần tuý, chi ngày trợ thể, cho nên nhờ vợ nhiều, mà hôn nhân lại bền vững vì chi ngày gặp lục hợp.
Khôn tạo: Giáp dần- canh ngọ- quý tị- ất mão
Nguyên cục, hoả nắm lệnh, mộc lại sinh hoả khắc canh kim, thể tượng hướng đến thuần tuý, chi ngày hoả là dụng, hôn nhân rất tốt đẹp
Càn tạo: bính ngọ- quý tị- quý tị- mậu ngọ
Quý mậu hợp hoá hoả, lấy hoá thần làm thể tượng, chi ngày trợ hoá, không tranh không phá cho nên hôn nhân rất tốt đẹp
Số thế nào thì có quý nhân phù trợ?
Theo lẽ thường, quý nhân là những người giúp đỡ mình, và thực tế đã chứng minh rằng không có người thành công nào mà không có quý nhân cả, nó cũng liên quan trực tiếp đến bố cục của bát tự.
Các sao thiên ất quý nhân, thái cực quý nhân, thiên nguyệt đức quý nhân chỉ mang tính chất bổ trợ, phần lớn là mang tính cách chủ quan của người đó chứ không mang nghĩa quý nhân (người giúp đỡ). Sách xưa luận nữ mệnh mà nhiều thiên ất quý nhân là mệnh tiện, thực chất là nữ mà mang nhiều thiên ất thì mệnh giao tiếp nhiều, thích lãnh đạo người khác, không chịu tam tòng tứ đức, không hợp với xã hội xưa chứ hoàn toàn không phải Thiên ất quý nhân là..nam nhân, có nhiều thiên ất quý nhân tức có nhiều nam nhân nên tiện, chỉ có 8 chữ- 4 địa chi, vậy tối đa 4 thiên ất, vậy chỉ tối đa có 4...nam nhân thôi chăng?
Để xem quý nhân, phải nhìn bố cục bát tự, nếu các vị trí sau mà có dụng (thể dụng) thì quý nhân rất hữu lực, đó là can tháng, can giờ và chi ngày, đó là các vị trí gần nhật can nhất, xa hơn là can năm, chi tháng, chi giờ và xa nhất là chi năm. Nếu dụng không có, hoặc có nhưng bị phá mất, thì số không có quý nhân giúp đỡ, gian nan vất vả, 1 việc chẳng thành. Dụng ở chi ngày là tốt nhất, là gần nhật can nhất, thực tế chỉ ra rất rất nhiều vị tỷ phú lớn đều nhờ...vợ, vợ là quý nhân của họ, đó là chi ngày hữu dụng vậy. Nếu chi năm-bằng cách nào đó hữu dụng thì cũng thể hiện người đó được hưởng âm đức (chi năm là đại diện tổ tiên- là cung phúc), người này rất may mắn, đôi khi đạt được thành công một cách kỳ lạ.
Càn: giáp tý- mậu thìn- canh thân- nhâm ngọ
Luận theo thuyết xưa, tam kỳ quý nhân hẳn là trí tuệ siêu quần, công danh rường cột quốc gia. Nhưng thực tế đây chỉ là người bình thường, hình thê khắc tử, cổ khổ bần hàn.
Canh kim sinh tháng thìn thuộc mùa xuân, là kim tử địa, tháng thấu mậu gặp giáp chế khắc, chi toạ thân kim gặp hợp cục theo thuỷ, giờ cũng vô dụng, phản trợ thành tiết hao, toàn cục không một chữ nào hữu dụng, cho nên sống cuộc đời không ai giúp đỡ, trồi sụt thất thường.
Càn: mậu tý- quý hợi- quý sửu- giáp dần
Quý thuỷ sinh tháng hợi, chi toàn hợi tý sửu thuỷ dĩ nhiên cường thế, thuận thế hoá tiết, trụ giờ gặp Giáp dần là thương quan thông căn có lực, mậu thổ trụ năm hợp quý thuỷ trụ tháng cũng minh chứng được người có địa vị đề bạt, số này hành vận thuận, cho nên được cả người làm quan cao lẫn người dưới quyền ủng hộ mà thăng chức. Thế mới thấy, quý nhân thật quan trọng. Số không có quý nhân, làm gì cũng bị ghét thì sớm muộn gì cũng bại nhục tổ nghiệp, danh lợi vô thành lại còn hay gặp hung hoạ.
MC lại văn sâm:
Đinh dậu- bính ngọ- quý sửu-?
MC tôi yêu quý nhất việt nam, đọc tiểu sử thì thấy chú Sâm khi chưa tới vận sự nghiệp cũng khá trồi sụt lao đao, nhưng có một điểm là nhờ vợ rất nhiều, vợ chú ấy luôn đứng sau chu toàn mọi việc. Có thời điểm chú Sâm thất nghiệp phải ở nhà vợ nuôi, công việc chỉ là phiên dịch cho khách Nga khi đến mua hàng nhà bố mẹ vợ.
Đó là vì chi ngày sửu thổ, là thổ ẩm, hối hoả tích thuỷ dưỡng kim.
Về sau này, vào vận thuỷ địa nên sự nghiệp lên như diều gặp gió, chiếm được cảm tình của rất nhiều người dân việt nam.
Bát tự không có tài, có thể giàu có không?
Sách cụ thiệu vỹ hoa cho rằng bát tự dạng này là mệnh thầy tu, nếu may mắn thì cũng chỉ phát trong vận tài, qua đó thì hết.
Thực tế một mệnh bàn tứ trụ không thể có đủ hết tất cả các hành (tính cả âm dương), mệnh cục lấy dụng thần để luận thành tựu, lấy nhật chủ cùng nguyệt lệnh để định dụng thần.
Mệnh cục vô tài mà giàu có, thì thường mệnh cục đó thuộc dạng thuần tuý, tòng vượng, tài là kị thần, hoặc dụng thần là ấn tinh (tài tinh khắc ấn). Nói chung, chỉ cần tài tinh không tranh đố với dụng thần thì chắc chắn mệnh cục đó có phúc về tiền bạc, dụng thần tại ấn, vô tài hoặc tài sinh quan, hoặc tài tinh gặp chế là tốt. Đây là sự khắc kỵ của dụng thần. Tôi nhớ có bài ghi về phần này rồi.
Dụng quan sợ thương
Dụng tài sợ kiếp
Dụng ấn sợ tài
Vd: mậu thân- ất mão- mậu dần- đinh tị
Xuân thổ dụng thần là ở hoả, mậu thổ lấy thuỷ làm tài, tài tinh ẩn sâu trong thân kim, lại gặp dần mộc xung tán, cho nên không có lực mà tranh đố với hoả. Đinh hoả toạ kình dương, cho nên tài ấn không phá nhau, thêm vận hành nam phương cho nên phát giàu có.
Đinh mùi- canh tuất- kỷ mùi- mậu thìn
Kỷ thổ sinh vào mùa thu, thể khí hưu tù, lại thấu canh kim cho nên dụng thần ở đinh hoả. Nguyên cục lấy thuỷ làm tài, ẩn sâu trong thìn, gặp tuất xung chế, cho nên tài ấn không phá nhau, âm nam vận chuyển nam phương hoả địa, phát tài giàu có, tài sản có trên 5 triệu $.
Nhìn chung bát tự dụng thần ở ấn, mà tứ trụ tài tinh không tranh đố thường làm giàu bằng bất động sản.
Manh phái có chia ra phần luận chuyên về tài mệnh.
Lộc làm tài, thực thương làm tài, và quan sát làm tài.
Đây là hệ quả tất yếu của mối quan hệ dụng thần và tài tinh.
Khi tài tinh quá nhiều, quá vượng, dụng thần ở tỷ kiếp (lộc thần) trợ thân khắc tài, mặc dù có thể phát tài, nhưng loại này rất khổ cực vất vả.
Khi dụng thần ở tài, gặp kiếp hỗn thì lấy thực thương thông quan xem làm tài tinh, thực thương hoá kiếp sinh tài, kiểu làm giàu này như mở công ty, xí nghiệp, dùng trí lực đầu tư cầu tài, loại này không mệt mỏi thể xác như ở trên mà mệt về tinh thần.
Khi dụng thần ở ấn, gặp tài hỗn lấy quan sát sinh ấn xem làm tài tinh, tài quan ấn tam kỳ toàn, loại này thì kiếm tiền lại rất nhàn, dễ dàng nhất (manh phái cho rằng quan sát làm tài là tài phú lớn nhất), mệnh cục dạng này là mệnh cục số hưởng, hay gặp may mắn về tiền mà không vất vả.
Còn trường hợp khác, là dụng thần ở quan, mà gặp thương quan, lấy chính tài tinh để xem về tài mệnh, loại này thì tài vận bình thường, làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, không có gì đột phá.
MC lại văn sâm:
Đinh dậu- bính ngọ- quý sửu-?
MC tôi yêu quý nhất việt nam, đọc tiểu sử thì thấy chú Sâm khi chưa tới vận sự nghiệp cũng khá trồi sụt lao đao, nhưng có một điểm là nhờ vợ rất nhiều, vợ chú ấy luôn đứng sau chu toàn mọi việc. Có thời điểm chú Sâm thất nghiệp phải ở nhà vợ nuôi, công việc chỉ là phiên dịch cho khách Nga khi đến mua hàng nhà bố mẹ vợ.
Đó là vì chi ngày sửu thổ, là thổ ẩm, hối hoả tích thuỷ dưỡng kim.
Về sau này, vào vận thuỷ địa nên sự nghiệp lên như diều gặp gió, chiếm được cảm tình của rất nhiều người dân việt nam.
Mệnh tạo trên cho thấy rõ có khuynh hướng Hỏa Tài vượng, bình thường là mệnh kinh doanh. Nhưng lại không kinh doanh mà có tiếng tăm trong xã hội, vậy phải là hỉ Ấn tinh là chính. Tài dụng Ấn, ở đây là Bính hợp Tân, gián tiếp làm thân trở nên mạnh, có ý chí và tài năng xuất hiện. Vận Tân Sửu là điển hình.
Thêm một nhận xét về Tài tinh vượng dụng thần, thân nhược trong tứ trụ. Hỉ gặp Ấn tinh là như vậy.
Cương nhu
Xuân mộc, hạ hoả, thu kim, đông thuỷ thể khí thái vượng, nguyên cục không có khắc chế mới lấy thực thần tú khí làm dụng thần, thực thần đắc lực tự sinh tài, gọi là lấy không thành có.
Xuân thổ, hạ kim, thu mộc, đông hoả thể khí suy tuyệt, nguyên cục không có kiếp ấn trợ giúp, lấy thực thần chế sát, sát có chế sinh ấn, là tìm kiếm giả dối.
Thuận lý thì dễ thấy, biến lý thì khó tìm là đạo cương nhu.
Tân dậu- đinh dậu- ất mùi- đinh sửu
Thu mộc thể khí điêu linh, nguyên cục vô thuỷ, dụng thần ở đinh hoả khắc chế sát tinh cường vượng, hiềm đinh toạ sửu thổ, hối hoả sinh kim, lại xung mùi làm căn mộc hoả tản mát. Cho nên công danh chẳng thành, hành tị vận tam hợp kim cục, gặp nạn mà chết.
Mậu thìn- kỷ dậu- ất hợi- giáp thân
Thu mộc như mệnh trên, nhưng toạ hợi, dụng thần ở giáp mộc trường sinh, thân kim là trọc khí, hành thuỷ vận thi đỗ liên tục đầu bảng, về sau hành mộc vận làm quan bình an. Hành vận nên khắc trọc phù trợ dụng thần là như thế.
Diêm tích sơn:
Quý mùi- tân dậu- ất dậu- đinh sửu
Khác mệnh ở chỗ mùi ở xa, sửu không thể xung tán khí mộc hoả. Hành vận hoả địa nắm quyền, nhưng đến tị vận không tránh khỏi trắc trở, những năm 1927 đến 1931 5 năm tị vận bại trận trước quân của tưởng giới thạch, may chạy trốn được, về sau hành vận mộc về đài loan sống và chết ở đó, không gặp sóng gió chỉ có điều quyền lực không còn, cuối đời làm bạn với thơ văn và triết học
Chỉ khác vị trí gần xa của sửu mùi mà cuộc đời nó khác nhau đến như vậy.
Hỷ dụng thần tốt nhất toạ ngày giờ.
Ngày giờ là Môn Hộ, là gia cảnh lúc về già.
Vd:
Nhâm thân- bính ngọ- nhâm ngọ- bính ngọ
Số này dương nam thuận vận tây bắc, tài vượng gặp tỷ kiếp thấu khắc chế, lại có tinh thần nên không khô. Số giàu có, nhưng chung thân vô thành mà thôi. Bởi vì ngày giờ là trọc khí tung hoành, cho nên vợ con đều xấu, làm nhiều rồi cũng theo gió mây bay đi mất, có tồn lại được giá trị gì đâu?
Nhâm tuất- bính ngọ- đinh hợi- canh tý
Số này cũng là số giàu có, nhưng lại tốt hơn mệnh trên nhiều lần, ngày giờ đều là hỷ dụng, cho nên sự nghiệp, vợ con đều tốt, về sau con cái tài giỏi, phát huy cơ nghiệp người cha. Cho nên hơn nhau là ở ngày giờ, nhiều kẻ giàu có mà con cái phá của, vợ/chồng không hạnh phúc thì đau khổ về tinh thần, thế cũng có gì là Tốt?
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.