PDA

View Full Version : Mệnh Lý Tiểu Long minh tinh màn ảnh Hồng Kong



lesoi
07-04-20, 10:59
Mệnh Lý Tiểu Long : Giờ Thìn, ngày 27/11/1940 DL - Ngày 28/10 âm.

Theo các bạn vì sao ở đại vận Tân Mão (33-42 tuổi), lưu niên Quý Sửu (1973) đột nhiên tử vong?

https://lyso.vn/lasotutru/1/081227111940/1/L%C3%BD%20Ti%E1%BB%83u%20Long.jpg

thetantr
07-04-20, 14:09
giáp sinh tháng hợi thấu canh đinh, khí số bất phàm.
Vận dần khá giống vận mão, tại sao vận dần không tử vong mà đến vận mão mới ứng?

lesoi
07-04-20, 17:35
Các bạn tham khảo thêm Link: https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD_Ti%E1%BB%83u_Long

honguyen
11-04-20, 21:51
Xem ra diễn đàn cũng vắng vẻ như phố xá ngoài kia. Có câu này trên mạng "Vắng như chùa Bà Đanh xưa rồi, nay là vắng như thời Cô Vy!"

Tôi là người mới nhập môn nên chỉ có vài nhận xét. Xin mọi người góp ý.

Có trang của Tàu và trang http://www.phongthuymenhly.com/LasoTuTru.aspx lại tính đại vận hơi khác: Họ Lý 04 tuổi khởi vận, năm 1973 (Quý Sửu) được xếp vào đại vận Canh Dần. Những trang web này tính sai?

Dạo này anh lesoi hay lấy các ví dụ trong bộ Cân Tương để đố mọi người nên tôi cũng tò mò đọc bộ này xem luận giải ra sao. Luận giải súc tích nhưng lại không đúng vì nhầm một chỗ rất quan trọng: nhầm năm Quý Sửu (1973) thành năm Quý Tỵ (1953). Thành ra tôi cũng hơi phân vân: rất nhiều ví dụ khác trong bộ Cân Tương (chỉ đọc hết cũng cần nhiều thời gian) không biết đúng sai thế nào? Phiền anh lesoi cho ý kiến.

Tôi nhớ anh lesoi đã từng dịch và đưa lên diễn đàn bài "Tự bính Tự" Can Chi. Anh lesoi dẫn là của Tác giả: Nữ sĩ Lý Quân nhưng tôi không thấy trong bộ Cân Tương. Tìm trên mạng tôi thấy một số trang web nói là của dân gian. Không biết thế nào?



Bài "Tự bính Tự" Can Chi có 04 câu ứng với bát tự của Lý Tiểu Long [Canh Thìn/ Đinh Hợi/ Giáp Tuất(Nhật nguyên) /Mậu Thìn]:

Giáp mộc địa chi phùng Thìn Tuất,
Lại phùng Mậu Canh đều không cát. (10 cái bát tự thì 10 cái đều sẽ phát sinh chuyện không tốt);
Huyết quang hoạ tai sẽ không miễn,
Xung hình hội hợp là ứng kỳ.

Kiến thức tôi còn ít nên chưa lý giải nổi.

Nhưng tôi để ý thấy một điểm. (Nhiều khi bài toán thêm điều kiện có thể dễ giải hơn chăng?)

Họ Lý qua đời vào ngày 20/7/1973 nghe đâu là vào giờ Hợi. Câu hỏi đặt ra không phải là "tại sao đột tử vào năm Quý Sửu (1973)?" mà phải là "tại sao vào năm tháng ngày giờ này?"

Đổi sang can chi đó là năm Quý Sửu, tháng Kỷ Mùi, ngày Đinh Tỵ, giờ Tân Hợi.

Mọi người có để ý thấy: Năm mất và tháng mất thiên khắc địa xung, ngày mất và giờ mất thiên khắc địa xung.

Mời mọi người cho ý kiến!

thachmoc
12-04-20, 14:42
Sách mệnh lý TQ trên mạng thường có nhiều sai sót, một phần do sự nhầm lẫn của chính tác giả, phần nhiều do người chia sẽ không có tâm làm sai lệch nguyên bản. Đây cũng là chỗ khó của những người dịch thuật sách Tử Bình, vừa phải dịch chính xác nội dung vừa phải kiểm tra sự kiện, soi chiếu ngày tháng, thấm nhuần cách luận... để cho ra một bản dịch hoàn chỉnh, có giá trị tham khảo. Những sách đăng trên Kimtubinh, anh Lesoi và các dịch giả đều đã có gắng hết sức mình vì điều này.

Sách Cân tương dẫn chiếu ví dụ mệnh Lý Tử Long, luận giải lưu niên Quý Tị thiên khắc địa xung với trụ tháng, vận Tân Mão sinh khắc trực tiếp với Nhật chủ dẫn tới ứng kỳ LTT mất mạng, quả thực là thiếu sót. Chỗ này Cân quyết có 2 câu cuối rất có giá trị, chắc honguyen đã đọc qua:

"Giáp Tuất Thương quan khố Hà Khôi,
Mã nhập thảo nguyên Ngọc Nữ quý"

Hà Khôi chỉ Tuất khố của Thương quan. Gặp Mã (Ngọ), Ngọc Nữ (Đinh hỏa) đều quý. Vận dụng Cân quyết với mệnh LTL thì điểm mấu chốt sinh tử là ở chữ Tuất. Trong mệnh Tuất bị 2 Thìn xung đã là điểm bất lợi, ngoài ra trong Tuất có tàng Tân, Đinh, mâu thuẫn giữa Quan và Thương quan phát sinh trong chính nội tại, chỉ cần đúng thời điểm thì sẽ ứng kỳ. Đầu vận Tân Mão, thế lực của Tân nổi lên, khắc tiết nhật chủ, hỗn loạn Quan Sát. Đến năm Quý Sửu, Sửu hình Tuất làm giải khai mộ khố, Đinh hỏa có cơ hội trỗi dậy, lại thêm Quý thủy súc nộ tạo thành ứng kỳ.

Về xung khắc của thời điểm năm Quý Sửu, tháng Kỷ Mùi, ngày Đinh Tỵ, giờ Tân Hợi, tôi cho là không phải, vì đây là trời đất tự nhiên, bao trùm hết mệnh số con người, chỉ ứng kỳ đến ai khi có tác động lên can chi bát tự mà thôi.

thachmoc
12-04-20, 14:58
Xem thêm phần nhật nguyên Giáp Tuất sinh tháng Hợi, tôi thấy có ví dụ mệnh một người mà ngày tháng năm sinh trùng với LTL, chỉ khác giờ sinh. Mạn phép anh Lesoi tôi đưa ra đây để mọi người tham khảo:

VD 153, Càn: Giờ Mão, ngày 27/11/1940 DL (nhằm ngày 28 tháng 10 năm 1940 âm lịch).
Càn: Canh Thìn/Đinh Hợi/Giáp Tuất/Đinh Mão.
Vận: Mậu Tý/Kỷ Sửu/Canh Dần/Tân Mão/Nhâm Thìn/Quý Tị.
03 tuổi khởi vận.
"Thương quan Dương nhận ở chi giờ, thai đầu con cái tất khắc mất", mệnh chủ ở đại vận Kỷ Sửu, lưu niên Kỷ Hợi kết hôn, thai đầu sinh con trai không thành. Tạo này là một nhân viên nghiên cứu khoa học, lưu niên Mậu Thìn, đại vận Nhâm Thìn, bản thân vì tai nạn xe cộ liệt nửa người. Tiêu chí tai nạn xe cộ rõ ràng nhất đó là Giáp, Mậu, Canh, Thìn, Tuất, Dần, Thân xung khắc.

Mệnh này không theo võ nghiệp, không phát sinh sự kiện năm Quý Sửu, vận Tân Mão, mà sang vận Nhâm Thìn mới có chuyện. Mấu chốt là ở đâu nhỉ?

lesoi
14-04-20, 14:22
Dạo này anh lesoi hay lấy các ví dụ trong bộ Cân Tương để đố mọi người nên tôi cũng tò mò đọc bộ này xem luận giải ra sao. Luận giải súc tích nhưng lại không đúng vì nhầm một chỗ rất quan trọng: nhầm năm Quý Sửu (1973) thành năm Quý Tỵ (1953). Thành ra tôi cũng hơi phân vân: rất nhiều ví dụ khác trong bộ Cân Tương (chỉ đọc hết cũng cần nhiều thời gian) không biết đúng sai thế nào? Phiền anh lesoi cho ý kiến.

Ngay từ đầu khi tôi gặp bạn dịch lời thơ Cân tương của mệnh Lưu Cơ tôi đã biết bạn như thế nào rồi? Rất có duyên khi gặp bạn.
Trước hết là tôi muốn nói với bạn là không phải là tôi "Đố" các bạn, mà là tôi muốn các bạn cho ý kiến về mệnh lý để tôi trắc nghiệm thêm sự giải đoán của tác giả trong Quyết Cân tương để mà nghiệm lý; việc thứ hai, đó là bạn nhìn thấy một số sai lầm trong quyển sách mà tác giả đã bàn giải (như chỗ gạch dưới chữ màu đỏ mà bạn đã nêu), rất hoan nghênh bạn đọc góp ý. Trong sách rất nhiều chỗ ghi nhầm lẫn, tôi đã phải chỉnh lý lại nhiều, nhất là ngày tháng năm sinh bát tự ở các ví dụ.


Tôi nhớ anh lesoi đã từng dịch và đưa lên diễn đàn bài "Tự bính Tự" Can Chi. Anh lesoi dẫn là của Tác giả: Nữ sĩ Lý Quân nhưng tôi không thấy trong bộ Cân Tương. Tìm trên mạng tôi thấy một số trang web nói là của dân gian. Không biết thế nào?


Ở đề tài mang tên "Tự bính Tự" có nhiều tác giả, trong đó có tác giả Vương Khánh, Phan Hữu Chiêu... và nhiều tác giả khác bình luận về đề tài này. Còn nguyên tác "Tự bính Tự" chính là Quyết Cân tương của nữ sĩ Lý Quân.
Tôi biết bạn am hiểu về Tử Bình kể cả dịch thuật, cho nên nếu bạn tham gia bình luận đề tài này tôi rất hoan nghênh.

Còn câu hỏi này:

Họ Lý qua đời vào ngày 20/7/1973 nghe đâu là vào giờ Hợi. Câu hỏi đặt ra không phải là "tại sao đột tử vào năm Quý Sửu (1973)?" mà phải là "tại sao vào năm tháng ngày giờ này?"

Đổi sang can chi đó là năm Quý Sửu, tháng Kỷ Mùi, ngày Đinh Tỵ, giờ Tân Hợi.

Mọi người có để ý thấy: Năm mất và tháng mất thiên khắc địa xung, ngày mất và giờ mất thiên khắc địa xung.


Theo tôi sách Cân tương đã có từ lâu đời, đa số là các ví dụ thời xưa. Còn khi viết sách lại là con cháu ba đời (Lý Quân) viết ra, có đưa các ví dụ hiện đại vào sách và bình chú theo Quyết khiếu. Chúng ta cần phải có thời gian tra cứu thêm, vì đây chỉ là ý kiến riêng của Lý Quân chứ không phải của tiền nhân để lại.
Muốn học Cân quyết, đòi hỏi người dịch kể cả người học phải trải qua hiểu biết mệnh lý mới có thể nắm được vài phần vì nó quá sâu sắc trong đạo lý ứng dụng.

lesoi
14-04-20, 14:51
Mệnh này không theo võ nghiệp, không phát sinh sự kiện năm Quý Sửu, vận Tân Mão, mà sang vận Nhâm Thìn mới có chuyện. Mấu chốt là ở đâu nhỉ?

Mấu chốt đều nằm ở câu thơ này: "Mã nhập thảo nguyên Ngọc Nữ quý", TM!

thachmoc
14-04-20, 15:52
Mấu chốt đều nằm ở câu thơ này: "Mã nhập thảo nguyên Ngọc Nữ quý", TM!

Đúng vậy anh! Như vậy mới thấy mỗi câu Cân quyết đều có giá trị. Đinh hỏa nguồn sinh là "quý" rồi.

thetantr
14-04-20, 18:12
sách in giấy mà nhiều lỗi
https://i.imgur.com/XZqvTH7.png
https://i.imgur.com/jpqfpmy.png

sherly
14-04-20, 23:47
Bruce lee võ sư nổi tiếng

lesoi
15-04-20, 14:40
sách in giấy mà nhiều lỗi
Trên chỉ mới là bộ Giáp, còn rất nhiều bộ cũng có rất nhiều chỗ sai. Cho nên phải so sánh với bản điện tử là vậy.

honguyen
07-05-20, 21:18
Có anh lesoi và thachmoc tham gia góp ý tôi rất mừng.

Xin bàn tiếp về mệnh tạo họ Lý:

Luận giải của thachmoc rất có lý nhưng tôi cũng bổ sung vài điểm và đưa thêm một góc nhìn khác.

Nếu nhìn nhận theo chiều hướng xung đột Thương(Đinh)-Quan(Tân) thì không phải ngẫu nhiên Lý Tiểu Long qua đời vào năm Quý Sửu, tháng Kỷ Mùi, ngày Đinh Tỵ, giờ Tân Hợi. Sửu tàng Tân, Mùi tàng Đinh. Đinh Tỵ <> Tân Hợi.

Chưa cần trích dẫn Quyết Cân Tương, nếu phân tích mệnh tạo theo quan điểm Điều Hậu (Cùng Thông Bảo Giám là kinh điển) thì trong mệnh tạo này Đinh phải là "dụng thần".

Ở một góc nhìn khác, theo "Ngũ Ngôn Độc Bộ":
Hữu Sát chỉ luận Sát,
vô Sát phương luận dụng,
chỉ yếu khử Sát tinh,
bất phạ đề cương trọng.

Trong mệnh tạo của họ Lý, có Đinh (Thương) giá Sát, Hợi(Ấn) tàng Nhâm (Kiêu) hóa Sát nhưng Hợi (Âm Thủy) và Đinh (Âm Hỏa) cũng có mâu thuẫn. Kiểu có cường địch nhưng phe ta lại mâu thuẫn vậy.

Tại sao họ Lý đột nhiên tử vong ở đại vận Tân Mão (33-42 tuổi), lưu niên Quý Sửu (1973)? Vì vận Tân Mão, Tân (Quan) xuất hiện. Năm Quý Sửu thì Quý (Ấn) lộ. Đinh (Thương) lo xung đột với Quan, với Ấn còn đâu còn tâm trí mà lo chuyện giá Canh (Sát). Sát được dịp như Hổ xổng chuồng...

Tôi để ý: Thủy (Ấn) trong đại vận Tân Mão cũng không mạnh nếu theo Ngũ Ngôn Độc Bộ: "thủy đáo cung Mão thương". Tân Mão lại là vận Kình Dương của Giáp. Vận Kình Dương kỵ gặp Quan (Tân) vì Quan là thứ khắc chế mình còn mình lại ở lúc tỏ ra cứng cỏi mạnh mẽ nhất.

Tôi dám chắc những luận giải trên đây của tôi còn nhiều chỗ sai sót. Hy vọng có ai đó ghé qua mục này xin góp ý thêm. Nếu có ai đó bình luận theo lăng kính của Manh Phái, Cách Cục, Vượng Suy thì hay quá. Tôi rất tò mò nếu Thẩm tiên sinh tác giả của Tử Bình Chân Thuyên phân tích mệnh cục này thì sẽ nói gì?

@ anh Nguyễn Lê (lesoi):

Tôi tìm hiểu Tử Bình một thời gian nhưng tự thấy vẫn đang loay hoay ở giai đoạn nhập môn và vẫn đang tìm một hướng đi cho bản thân. Tôi thấy đi sâu vào môn này không thể không thông Hán tự và cũng đang mày mò tự học. Vì là tự học, sách vở hỗn tạp, thời gian có hạn, thiên tư không cao nên nhiều chỗ cũng vất vả.

Về bộ Quyết Cân Tương, người chưa qua giai đoạn nhập môn như tôi (và như anh nói phải rành nhiều phái Tử Bình mới vận dụng được) chưa thể hiểu được nhiều chỗ. Nhưng tôi để ý có hai nhược điểm của bộ này: 1. Các ví dụ đều ghi bát tự theo âm lịch thì khó tránh sai sót. 2. Ví dụ thì được về Lượng mà thua về Phẩm.

thanh
08-05-20, 08:44
Cách tính vào đại vận
3 ngày = 1tuổi hành vận
1 ngày = 4 tháng
6 giờ = 1 tháng

Lý Tiểu Long sinh ngày 27-11-1940 8h sáng
tính thuận đến ngày 7-12-1940 13h đại tuyết
tính ra có 10ngày 5giờ chia cho 3 = 3 dư 5 tháng
27/11/1943 cộng thêm 5 tháng = 04/1944 mới vào đại vận Mậu Tí
04/1954 vận Kỷ Sửu
04/1964 vận Canh Dần
04/1974 vận Tân Mão

Theo đúng lý thuyết tính năm vào đại vận thì Lý Tiểu Long tử cuối vận Canh Dần.

Hùng804
24-01-21, 12:41
Về bộ Quyết Cân Tương, người chưa qua giai đoạn nhập môn như tôi (và như anh nói phải rành nhiều phái Tử Bình mới vận dụng được) chưa thể hiểu được nhiều chỗ. Nhưng tôi để ý có hai nhược điểm của bộ này: 1. Các ví dụ đều ghi bát tự theo âm lịch thì khó tránh sai sót. 2. Ví dụ thì được về Lượng mà thua về Phẩm.

Tôi đã xem qua cách luận của bạn, bạn thật khiêm tốn. Thực tế, để dịch bộ sách này, tác giả buộc phải tra ngày âm lịch sang dương lịch để đối chiếu đúng tiết, đúng ngày hay không, rất công phu khi muốn dịch cho đúng.
Còn ví dụ trong sách, tác giả nào cũng muốn "Tô hồng" cho môn phái của mình, người thì thích nói trực tiếp, người thì thích diễn giải rồi mới vào chi tiết. Đó chỉ là cách lý luận của mỗi người, kết quả xem mệnh mới là vấn đề. Phép "Cân tương" đoán mệnh không có cầu kỳ, chỉ cần dùng kỹ xảo "Tự bính Tự" là đoán thẳng ra ngay. Nhưng đây cũng chỉ là phép đoán mệnh của một môn phái, chúng ta còn tham khảo rất nhiều môn phái khác nhau trong quá trình luận mệnh để kiểm duyệt đúng hay sai.
Theo tôi, Quyết "Cân tương" đoán mệnh giống như một lập trình, nguyên lý xuất phát đều là từ ngũ hành sinh khắc mà ra. Một bát tự sau khi bày ra, cũng cùng ngày giờ sinh nhưng sinh mệnh hoàn toàn khác nhau. Cùng là nhật nguyên, cùng là sinh một tháng, nhưng chỉ có hai trụ; bát tự thì có tứ trụ, 8 chữ, chúng đều có sự tương tác lẫn nhau trong quá trình vận động cả đời người, không chỉ có 4 chữ là nói lên được tất cả. Vì vậy, ngoài thuật sử dụng Quyết "Cân tương", đòi hỏi người luận mệnh cần phải xem tổng thể và cần phải nghiên cứu nhiều tài liệu khác nhau nữa mới có thể xem được.
Khẩu quyết là do người xưa để lại, còn dùng đúng hay sai là do con người.
Vì vậy, không có quyển sách mệnh nào là toàn diện được.