View Full Version : Giải mã lý luận Manh phái
Tôi thấy nhiều bạn thích nghiên cứu Manh Phái, nhưng chưa thấy bàn luận cụ thể ráo riết. Chúng ta cũng nên thử vào từng chi tiết cách thức luận của phái này để học hỏi thêm (xét bài „Tài liệu phụ đạo mệnh lý Manh Phái, lesoi dịch) và thật sự qua đó, cách luận mệnh này chính xác, đơn giản, hợp thời hơn chăng?
(các đoạn in nghiêng là trích trong bài)
Nói về "chủ, khách" là từ ngữ quan trọng trong Manh Phái:
Có 4 "tầng" xét chủ/khách và 2 tầng khá thông dụng nhất:
Ở lúc phân tích tứ trụ cụ thể, phải lấy ý tứ tầng thứ hai làm chủ, xem nhật chủ bát tự (hoặc là Lộc) cùng tọa dưới chi ngày cùng can chi khác phát sinh quan hệ cái gì. Nếu như trụ giờ thấy Lộc hoặc là chỗ Thực Thương nhật chủ sinh ra, lúc này cũng có thể lấy trụ giờ làm Chủ vị để xem.
+ Hàm nghĩa tầng thứ hai: Trụ ngày là Chủ, trụ khác là Khách.
Trụ ngày là chỗ nhật chủ cùng tọa chi cung phối ngẫu, cả hai tổ thành nhà của nhật chủ; chỗ tiểu gia đình này còn phải đối diện với nhà của nó, tức là trụ năm là nhà cha mẹ, trụ tháng là nhà của anh chị em, trụ giờ là nhà của con cái. So với cái nhà của trụ ngày, những nhà khác đều là "Nhà của người khác". Như vậy, trụ ngày là Chủ, những trụ khác là Khách.
+ Hàm nghĩa tầng thứ ba: Trụ ngày, giờ là Chủ, trụ năm tháng là Khách.
Nhật chủ cùng tọa dưới phối ngẫu, trụ giờ là con cái lại tổ thành một gia đình; trụ năm, tháng là cha mẹ, anh em, thì là một tiểu gia đình của trụ ngày, giờ phải đối diện. Như vậy, trụ ngày, giờ thì là Chủ, trụ năm, tháng lại là Khách.
Ta xét thử bát tự này (nam, sinh 8.8.1988, 20 giờ)
tài
quan
nhật chủ
thương
MẬU THÌN
CANH THÂN
ẤT MÙI
BÍNH TUẤT
mậu tài
canh quan
kỉ tài
mậu tài
ất tỉ
nhâm ấn
đinh thực
tân sát
quí kiêu
mậu tài
ất tỉ
đinh thực
-Nhật chủ Ất Mùi có Thương quan ở trụ giờ và Tài lộ trụ năm, vậy lấy ngày, giờ làm CHỦ, năm, tháng là KHÁCH (Nếu như Tài Quan rơi ở Chủ vị, biểu thị Tài, Quan này chính là của ta; nếu Tài Quan rơi ở Khách vị, vậy thì trở thành của người khác.)
-Tính "Thìn Tuất xung" hay là "Mậu-Bính"?
(sau khi định vị như vậy vẫn chưa đủ, còn phải phân tích quan hệ qua lại giữa Chủ và Khách, xem Tài Quan có cùng ta (tức là Chủ) có chỗ liên quan hay không, hoặc là có chỗ ta dùng hay không, giữa hai bên có liên quan hay không)
-Tài của người khác nghĩa là gì? Hiểu chính xác như thế nào?
-Người này là nhân viên kỹ thuật của amazon, lương khá tốt. Vậy "Tài của người khác" vào tay mình qua sự nhận lương, không phải chính mình tạo ra (làm chủ nhân)?
Ở chương 1 bài „Tài liệu phụ đạo mệnh lý Manh Phái", trang thứ nhì, có 2 thí dụ về đoạn trên:
ấn
tài
nhật chủ
tài
GIÁP NGỌ
CANH NGỌ
ĐINH DẬU
CANH TUẤT
đinh tỉ
đinh tỉ
tân tài
mậu thương
kỉ thực
kỉ thực
tân tài
đinh tỉ
Mệnh này tọa chi Dậu Tài bị hỏa và táo thổ chế khử, là biểu thị có tiền tài, cũng không phải Tài tọa chi bị người khác cướp đi.
>>> nghĩa là tính Tuất Ngọ là hỏa thổ khắc kim? (Tuất Ngọ là bán tam hợp hỏa)
kiếp
ấn
nhật chủ
tài
BÍNH NGỌ
GIÁP NGỌ
ĐINH DẬU
CANH TUẤT
đinh tỉ
đinh tỉ
tân tài
mậu thương
kỉ thực
kỉ thực
tân tài
đinh tỉ
Mệnh này lại là xấu. Tại sao? Bởi vì trụ năm thấu ra Bính Kiếp, một Bính thấu ra chính là tượng phá hư, ý là biểu thị Tài của mình bị người khác cướp đi.
>>> Cũng là Dậu Kim bị hỏa thổ khắc (Tuất Ngọ), nhưng bị phá hư là vì Bính thấu ra (hỏa trở nên cường vượng thái quá nên không đảm đương nổi?)
>>> Nếu gọi là "kiến lộc cách" sợ nhất là "kiếp tài phá tài" có đơn giản hơn?
Ta xét thử bát tự này (nam, sinh 8.8.1988, 20 giờ)
tài
quan
nhật chủ
thương
MẬU THÌN
CANH THÂN
ẤT MÙI
BÍNH TUẤT
mậu tài
canh quan
kỉ tài
mậu tài
ất tỉ
nhâm ấn
đinh thực
tân sát
quí kiêu
mậu tài
ất tỉ
đinh thực
Tạo này chân hóa hiếm gặp luận hỉ kị như thế nào nhỉ?
Ông đoàn nói thế thành ra các học viên lại thi nhau thủ dụng bát tự tài toạ ngày giờ lấy làm “tài của mình” thì chết :))
Bính ngọ- giáp ngọ- đinh dậu- canh tuất
Đinh hoả sinh tháng ngọ là đất lộc địa, thể tính cực vượng, dụng thần đầu tiên là thuỷ, vì toàn bàn không có thuỷ, cho nên thứ tầng của mệnh này cũng không cao, lấy dụng thần là canh kim trụ giờ.
Số trên luận ngọ tuất khắc dậu vì mùa hè, không có thuỷ thì thổ bất sinh kim, hơn nữa tuất dậu tương hại (tuất cậy hoả vượng hình khắc tân kim). Canh tuất cũng như vậy, mặc dù có mối quan hệ thiên địa, quân thần, phu thê nhưng ở đây do tiết khí mùa hè, thuỷ lại không có, nên thổ không sinh kim mà trở mặt khắc kim. Dụng thần bị khắc, thậm chí gặp vận bính thân, đinh dậu cũng không tốt vì cái đầu kim khí, cả đời Tỷ kiếp đoạt tài tinh.
Ông đoàn nói thế thành ra các học viên lại thi nhau thủ dụng bát tự tài toạ ngày giờ lấy làm “tài của mình” thì chết :))
Bính ngọ- giáp ngọ- đinh dậu- canh tuất
Đinh hoả sinh tháng ngọ là đất lộc địa, thể tính cực vượng, dụng thần đầu tiên là thuỷ, vì toàn bàn không có thuỷ, cho nên thứ tầng của mệnh này cũng không cao, lấy dụng thần là canh kim trụ giờ.
Số trên luận ngọ tuất khắc dậu vì mùa hè, không có thuỷ thì thổ bất sinh kim, hơn nữa tuất dậu tương hại (tuất cậy hoả vượng hình khắc tân kim). Canh tuất cũng như vậy, mặc dù có mối quan hệ thiên địa, quân thần, phu thê nhưng ở đây do tiết khí mùa hè, thuỷ lại không có, nên thổ không sinh kim mà trở mặt khắc kim. Dụng thần bị khắc, thậm chí gặp vận bính thân, đinh dậu cũng không tốt vì cái đầu kim khí, cả đời Tỷ kiếp đoạt tài tinh.
Bác luận giúp em bát tự dưới ở trong ví dụ của chị Kim Cương được không ạ.
tài
quan
nhật chủ
thương
MẬU THÌN
CANH THÂN
ẤT MÙI
BÍNH TUẤT
mậu tài
canh quan
kỉ tài
mậu tài
ất tỉ
nhâm ấn
đinh thực
tân sát
quí kiêu
mậu tài
ất tỉ
đinh thực
Càn: mậu thìn- canh thân- ất mùi- bính tuất
Ất mộc mùa thu khí điêu linh, canh kim thấu lại có mậu thổ sinh là tượng nguy hiểm, dụng thần ắt phải là thuỷ tàng trong thân-thìn, vượng ở nguyệt lệnh, danh là “huyền cơ ám lý tồn”, tài tuy nhiều nhưng không thể khắc ấn, nên đường học hành OK. Thêm đại vận một đường thuỷ mộc phù giúp dụng hỷ thần nên cuộc sống thuận lợi đi lên. Cũng nói thêm là mệnh tạo này tài tinh không tranh đố với dụng thần nên cũng còn cơ phát, nhưng có điều tài tinh là hại cho mệnh (sinh quan khắc thân), cho nên vận xấu đến dễ “đi” trên đống tiền lắm.
Giáp ngọ- canh ngọ- đinh dậu- canh tuất
Mệnh này, cũng chẳng khác gì, kim vẫn bị đoạt.
Nhưng hay ở vận, dương nam vận thuận, thay vì bính thân, đinh dậu như mệnh trên thì lại gặp nhâm thân, quý dậu, nó khác hẳn nhau, gặp thuỷ còn làm cho mệnh cục dễ chịu. Hơn nữa nguyên cục hoả không thấu, cho nên không có sinh khắc trực tiếp mạnh bằng hoả khí ở càn bính ngọ, cho nên kim khí ở mệnh tạo này có khí số tốt hơn kim khí ở mệnh bính ngọ. Bát tự này sợ nhất vận hoả thấu can đoạt kim khí, hoặc vận tị, mão là bại vận.
Lấy 2 ví dụ này ra để chứng minh tài của ta với tài không của ta là không hợp lý, dễ khiến người ta không phục. Ông đoàn kiến nghiệp rất hay trêu người.
Lấy 2 ví dụ này ra để chứng minh tài của ta với tài không của ta là không hợp lý, dễ khiến người ta không phục. Ông đoàn kiến nghiệp rất hay trêu người.
Chỗ này theo tôi, mỗi một môn phái đều có lý luận riêng, nhưng chung quy là chúng ta nên xem kết quả luận mệnh như thế nào? Tôi không theo phái nào, nhưng cái lý của họ Đoàn là ứng dụng "bát tự" với "lục hào", cho nên mới có những từ ngữ như "Thể Dụng", "Chủ Khách"...; kết quả cho ra khi luận mệnh là như nhau, đó là quan hệ ngũ hành và Thập thần. Như "Tài khắc Ấn", "Kiếp phá Tài"... Còn cách lý luận, thì vẫn như nhau.
Ta xét thử bát tự này (nam, sinh 8.8.1988, 20 giờ)
tài
quan
nhật chủ
thương
MẬU THÌN
CANH THÂN
ẤT MÙI
BÍNH TUẤT
mậu tài
canh quan
kỉ tài
mậu tài
ất tỉ
nhâm ấn
đinh thực
tân sát
quí kiêu
mậu tài
ất tỉ
đinh thực
Tạo này chân hóa hiếm gặp luận hỉ kị như thế nào nhỉ?
Theo tôi thì không hóa được, dù là Ất Canh thiên hợp, nhưng địa chi không có tam hợp, tam hội, có hỏa khắc kim, tháng Thân không có điều kiện để hóa.
Tôi lại tưởng các bạn cùng luận theo Manh Phái để tìm hiểu nhiều hơn :) Nhưng không sao, cứ tự nhiên "đả" lại thì có khi lại thấy ưu khuyết điểm của người, của ta.
Hung804 nói đúng, làm sao ra kết quả thì pp nào cũng chấp nhận. Nhưng hệ thống tư duy khác nhau nhiều lắm. Thí dụ ngay như "tài của người khác", ban đầu quả là không hiểu được, sau thì biết là họ muốn xem tài tự mình làm ra hay người khác đưa, có đúng không?
Hung804 nói đúng, làm sao ra kết quả thì pp nào cũng chấp nhận. Nhưng hệ thống tư duy khác nhau nhiều lắm. Thí dụ ngay như "tài của người khác", ban đầu quả là không hiểu được, sau thì biết là họ muốn xem tài tự mình làm ra hay người khác đưa, có đúng không?
Thưa cô KC, chỗ này ý phân ra Chủ và Khách là đúng như trong phép dự đoán "Lục Hào" vẫn có đề cập, có điều khi luận bát tự họ Đoàn đã đưa vào để phân định cho rõ quan điểm của mình mà thôi.
Chúng ta tiếp tục phân tích lý luận MP và các thuyết khác nhé. Các bạn cứ tự nhiên bàn thảo, tôi chắc rằng tự mình sẽ nhìn ra cách luận thông thường của mình có vững hay chưa.
Theo ĐKN viết, MP không luận vượng suy cường nhược, không luận dụng kị thần, mà chỉ lấy "tố công" làm chính. Tố công chính là chúng ta hay gọi là "tương tác" giữa các can chi, như hợp xung hình hại phá. MP thì chỉ lấy HỢP XUNG HÌNH là tố công; Hại và Phá tuy là họ cũng luận rất nhiều, nhưng không xem 2 hình thái này là trọng. Điều này cũng giống như thuyết thông thường ta hay luận, Hại và Phá là thứ yếu, có khi không xài đến, tức không cần để ý trong bát tự.
MP cho rằng dụng kỵ thần chẳng quan hệ gì đến bát tự, tìm kiếm nó mệt mỏi, rốt cục không đạt được vấn đề cụ thể nào. Chỉ có tố công mới cho chúng ta thấy được bát tự có động thái gì để vận dụng được cho đời sống. Thì cũng giống như thuyết khác, các tương tác trong bát tự nói lên những điều kiện thành bại của bát tự, nhưng cũng dựa thêm vào dụng thần/cách cục (nguyệt lệnh) làm chuẩn đề.
Một điểm đáng nhớ là MP -từ căn bản là không xác lập dụng thần qua nguyệt lệnh- cũng có luận vượng nhược, nhưng là từng trụ, chủ điểm là nhật trụ tọa gì (chủ vị), các trụ khác (khách vị) toạ gì, qua thập thần thì liên can với nhật chủ thế nào.
Thứ nhì đáng nhớ là MP chỉ tính vượng nhược khi có liên can đến "hợp Tài" hay "hợp Quan". Điểm này thì rõ không biết ĐKN tự ghi nhận hay chính thống MP như thế. Bởi vì lập luận này có phần kiên cưỡng, không nhất thống từ nguyên lý. Tức là, đã không nhận định nhật chủ vượng hay nhược từ đầu, thì tại sao đến phần Tài, Quan lại phải suy tính?
Tử Bình nói chung thật ra cũng là chú trọng nói đến Tài, Quan mà thôi. Vì Tài là năng lực ta thoát ra, còn Quan là năng lực kềm chế ta. Hãy ngẫm nghĩ lại xem có đúng là trong đời sống hàng ngày, chúng ta đều phải đối mặt với 2 khả năng sinh tồn này?
Đây là đoạn nói về hợp Tài và thân vượng nhược (bài Mệnh Lý Sơ Cấp):
Chú ý: Nếu hợp Tài thì nên nhìn thân cường hay nhược. Chỉ có hợp Tài mới nhìn thân cường hay nhược. Tại sao vậy? Hợp Tài là giống như đeo một bao quần áo. Thân cường có thể thắng Tài, thân nhược không thể thắng Tài. Cụ thể có các loại tình huống sau:
A: Thân vượng Tài vượng, hợp Tài có thể phát tài lớn
B: Thân nhược Tài vượng, hợp Tài khẳng định là nghèo khổ
C: Thân vượng Tài nhược, hợp Tài thì không quá khốn cùng, cũng có tiền tiêu, là mệnh bình thường.
D: Thân nhược Tài nhược, hợp Tài là có tiền, nhưng không phải đại phú, chỉ không thiếu ăn thiếu uống mà thôi.
Có 2 thí dụ về hợp Tài, 1 mệnh giàu, mệnh kia nghèo. Hãy xét thử:
1. Canh Tí, Bính Tuất, Nhâm Thân, Đinh Mùi (26.10.1900)
Phân tích: Nhâm tọa Thân trường sinh, niên trụ lại thấy Canh Tí, đắc cường căn lại có bang trợ nên thân không nhược. Tài cũng không nhược, vì toạ cường căn lại có Bính Tuất. Cho nên gọi là Thân vượng Tài vượng. Người này khởi nghiệp từ bất động sản, phát tài mấy ngàn vạn. Hành vận Nhâm Thìn phát. Nhâm là bản thân, Thìn xung Tài khố.
Ý trên nói là Nhâm hợp Đinh (tài), Nhâm tọa Thân là chủ vị được trường sinh, thêm Tí trợ lực, luận thân vượng. Tài vượng là do Bính tọa Mộ ở Tuất, Đinh tọa lâm quan (lộc) ở Mùi. Vận Nhâm Thìn (60 tuổi) phát. Khố Tài chính là Tuất thổ.
2. Giáp Dần, Mậu Thìn, Mậu Tí, Quí Sửu (17.4.1974)
Phân tích: Mậu Quý hợp, nhật chủ hợp Tài, nhưng là nhật chủ Thân nhược, Tài vượng. Quý Sửu đắc cường căn. Nhật chủ toạ dưới là Tý thuỷ, lại có Thìn khố, là mệnh nghèo. Một đời gặp cảnh khốn cùng. Hành vận Kỷ Tỵ, ngồi tù mười mấy năm. Vì sao? Vận Tỵ xuyên Dần là Sát, còn Tỵ là Lộc, có thể nói là Sát xuyên Lộc. May mắn là tuổi nhỏ, nếu không xuyên như vầy liền chết.
Mệnh tạo thứ nhì cũng có hợp Tài (Mậu Quí hợp), nhưng Mậu (chủ vị) tọa thai tại địa chi Tí, còn Quí (Tài) tọa lâm quan tại Sửu. Xuyên tức là Hại. Vận Kỉ Tị là vận đầu đời của nhật chủ (7 tuổi).
Các bạn phân tích lại qua cách của mình thế nào.
Canh tý- bính tuất- nhâm thân- đinh mùi
Hợp thần khí số không đủ, hành vận sinh trợ hợp thần, khắc khử kị thần. Hành mộc hoả vận là cát. Gọi là ức giả phù chân, vì là giả hoá cho nên có điều bất xứng ý.
Giáp dần- mậu thìn- mậu tý- quý sửu
Hợp thần không chân, lại vượng. Ức giả phù chân, cần hành kim vận, chỉ tiếc hành vận không thuận, nhâm thân, quý dậu, thuỷ tiết khí kim sinh mộc, lại càng phù trợ cho hoả, nên cả đời cơ hàn.
Thêm vd ngũ hợp giàu có:
Quý tị- nhâm tuất- kỷ hợi- giáp tuất
Giáp kỷ hợp hoá thổ, căn khí giáp mộc gặp tị xung chế, là chân hoá, mùa thu thổ khí căn nhược, hành vận cần hoả thổ vận. Trung vận nam phương, kỷ mùi, mậu ngọ, đinh tị suốt 30 năm hành vận dụng thần, cho nên rất giàu có. Chân hoá, tài tinh gặp chế cho nên phát phú quý.
Nói chung hoá cách thì lấy chân hoá, sinh khắc phù hợp mới là đẹp. Hai bát tự ví dụ trên đều là giả hoá, nên cho dù có hành vận đẹp vẫn có điều không như ý, hành vận không ức giả phù chân như bát tự thứ hai còn gặp tù tội, cô khổ bần hàn. Đẳng cấp chân hoá, giả hoá nó khác nhau như vậy.
Tỉ kiếp hợp tài tranh tài là phá cục, tài sát vượng thân nhược là bần tiện
Giáp dần / mậu thìn / mậu tý / quý sửu
Vận canh ngọ ngồi tù
Mậu quý tranh hợp ám hoả, phương nam đắc địa thì tỉ kiếp càng tranh đoạt
Theo tôi thì không hóa được, dù là Ất Canh thiên hợp, nhưng địa chi không có tam hợp, tam hội, có hỏa khắc kim, tháng Thân không có điều kiện để hóa.
thưa cô Kim Cương, Ất Canh hợp, nguyệt lệnh tháng Thân là đầu mùa thu Kim vượng, vì sao lại không tính là hoá Kim Khí?
thưa cô Kim Cương, Ất Canh hợp, nguyệt lệnh tháng Thân là đầu mùa thu Kim vượng, vì sao lại không tính là hoá Kim Khí?
Do không đủ lực và có kẻ phá đám nên không lấy nhau được bạn ah.
thưa cô Kim Cương, Ất Canh hợp, nguyệt lệnh tháng Thân là đầu mùa thu Kim vượng, vì sao lại không tính là hoá Kim Khí?
Tôi có viết là địa chi không có tam hội, tam hợp, lại có HỎA là khí khắc thần hóa, nên không thể gọi là hóa Kim.
Ngoài ra theo thuyết Tam Dương, nguyên thần hóa khí phát lộ chỉ khi nào trong tứ trụ có Thìn. Đó là dựa theo Lạc Thư. Theo thuyết này thì có thể bỏ qua các điều kiện khác mà công nhận chân hóa:
"Ất Canh đáo Bính Tí, chí ngũ vị phùng Canh Thìn nhi hóa kim"
Tức là từ Bính Tí tính tiếp ta có: Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỉ Mão, Canh Thìn
Cho nên Ất Canh tương hợp cần có Canh Thìn mới gọi là chân hóa. Còn lại tất cả là hóa giả, hoặc đến vận Canh Thìn, cũng gọi là hóa giả, vì mệnh tượng không phải hóa, nhưng cũng có tác dụng.
Khái niệm Khách Chủ, áp dụng môn khác thì được, nhất là đoán quẻ dịch, vì đó là đoán sự việc tức thời, ta được mất, thành bại trong khoảng thời gian ngắn.
Tứ trụ không như thế, là bản đồ của cả cuộc đời. Nếu phân khách chủ sẽ không phản ánh đúng.
Đơn cử, tôi thấy rằng có ví dụ trong Manh Phái ĐKN viết tài hợp trung thần ở khách vị là mệnh làm công ăn lương? Theo chiêm nghiệm cuộc sống của tôi, bất kỳ người nào cũng có thời điểm khi xa rời vòng tay cha mẹ, tự thân lập nghiệp đều làm công ăn lương cả. Những ông chủ lớn, cũng đều từng làm công ăn lương, tích góp số vốn nhất định rồi gặp thời kinh doanh phất lên, hoặc thậm chí có những người vừa kinh doanh vừa làm công ăn lương? Vậy những bát tự như thế xem thế nào? Nói đến đây là thấy khái niệm Khách Chủ đưa vào tứ trụ bát tự là quá khiên cưỡng. Cái sai ở đây, là người xem Manh Phái dựa vào kết quả lập thuyết, mà không dựa vào quá trình để lập thuyết.
Ví dụ ông ĐKN gặp 1 thanh niên khoảng 30 tuổi có bát tự tài ở khách vị, anh ta đang đi làm thuê, lương cũng khá cao —> tài ở khách vị là đi làm thuê. Nghe đã thấy lý thuyết này có vấn đề, mới 30 tuổi, chưa biết tương lai và hầu hết ở độ tuổi đó nếu ko có những xáo trộn gì đó cũng đều làm thuê cả, cho nên lý thuyết dạng thế này là không đáng tin cậy.
Thứ hai: manh phái nói rằng dụng kỵ không liên quan gì đến bát tự? Chỉ dùng tố công để xem hiệu suất…?
Xem bát tự mà không xem dụng thần thì xem cái gì? Trong tất cả các thư tịch cổ kim, không sách nào không nói đến dụng thần (tuy nhiên cách cục và vượng suy chia đôi đường), nhưng dụng thần là thứ luôn tồn tại.
Vấn đề MP cho rằng bát tự hợp xung hình hại nhiều thì hiệu suất càng cao, cái này tôi không phản đối, vì dĩ nhiên khi đã xác định được dụng thần, nếu nơi này gặp hợp lực, thì dụng thần sẽ mạnh lên, ngược lại gặp xung khắc hình hại thì sẽ yếu đi rất nhiều, biểu hiện cuộc sống là hoặc sẽ rất tốt, hoặc rất xấu, đúng là có hiệu suất cao thấp, nhưng cách nói đấy chỉ là trau chuốt cái ý nghĩa và độ hoàn mỹ của dụng thần mà thôi.
"Tố Công" (performance analysis) là để đánh giá kết quả sự việc. Thực sự cũng là tìm dụng hay kị thần của bát tự, nhưng MP nhấn mạnh và chỉ nói đến hiệu suất của các tương tác Can Chi là chính. Lý luận dụng thần, hỉ thần hay kị thần hợp xung mà chúng ta học từ sách vở truyền thống đều được trình bày với từ ngữ khác trong MP hoặc vẫn nhắc tới như lướt qua.
Thí dụ bát tự (9.6.1962)
tài......ấn..........quan
Nhâm Bính Mậu Ất
Dần Ngọ Dần Mão
Vận: Đinh Mùi (9), Mậu Thân, Kỉ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tí
Phân tích trong tài liệu MP: Mậu sinh tháng mùa hạ không phải quá quý, quý ở trên Sát thấu Ấn, ba trụ đầu rất tốt. Thời trụ là kỵ, không hỷ thời trụ Chính Quan. Mậu toạ Dần Sát, niên trụ thấy Sát, Sát vượng. Quý tại nguyệt trụ Bính Ngọ tiết Sát sinh thân. Ấn hoá Sát lại cho mình sử dụng, cho nên là mệnh làm quan. Hai chữ Sát đều bị Ngọ hoá, không hỷ thời trụ Chính Quan thấu xuất, kề bên mà khắc nhật chủ. Chính Quan là bệnh, chữ Quan này không thể bị hoá hết. Hành vận Kỷ Dậu, Mão Dậu xung chế Mão Quan. Vận Dậu bắt đầu thăng quan. Người này là cán bộ lãnh đạo.
Ý chính cho rằng "Ấn hoá Sát lại cho mình sử dụng, cho nên là mệnh làm quan", nhưng trụ Ất Mão lại là điểm yếu (bệnh) của bát tự. Vì sao gọi là "không hóa hết"? Vì Ất thấu can khắc kề bên nhật chủ; Mậu sợ Ất! Thời điểm nào Ất mộc làm “khó” mệnh chủ? Đấy chính là khi Quan Sát Mộc vượng, Hỏa Thổ vượng. Chỉ khi nào xung được Mộc thì công việc tốt đẹp.
Qua các đại vận, 2 vận đầu không nói tới, chỉ đến Kỉ Dậu thì tiến thân, lý do Dậu xung được Mão (Mão chính là Ất).
Sang Tân Hợi thì xấu hơn, cho dù Tân thấu can, nhưng Tân lại hợp Bính, Hợi bán hợp Mão, Kim bị hợp khử, tức công việc trì trệ lại.
Đại để luận hiệu suất của MP trình bày như vậy. Quan trọng là từng Can, từng Chi được nhấn mạnh sự tương tác với nhau gây ra hiệu quả trong 1 quãng thời gian.
Nếu giải luận theo ngũ hành vượng suy và tìm dụng thần cho bát tự này thế nào?
Tôi cho rằng đơn giản thấy Mộc Hỏa quá thừa vượng, nhất là Hỏa ấn tinh nuôi con Thổ tận lực, người này ắt được nuông chiều quá mức. Vì Kim là hành tiết thổ không thấu ra, Quan Sát là hành kiềm chế mệnh chủ không khắc mà lại sinh trợ Ấn tinh. Đấy là kị thần của mệnh. Dụng thần trong trường hợp này phải là Tiết Chế, tức dụng Thực Thương chế Quan. Không có ở mệnh thì nhờ vào đại vận, tức con đường bung ra để tự lập. Nhờ vào Kỉ Dậu khắc được Mão, Kỉ ở vận trợ Mão nên gọi là có chút tiến thân.
Nếu luận Cách cục thì Ấn cách Bính Ngọ này thái quá (Bính Đinh trong Ngọ và Dần), thêm Quan Sát thừa vượng (Dần Mão thấu Ất) nên dụng Tiết hơn dụng Chế, tức dụng Thực chế Sát hoặc Thương phá Quan. Trong mệnh cục không hình thành thì dù ở đại vận hay lưu niên cũng chỉ là dụng được thời thế, không lâu bền.
Vậy điểm khác nhau lớn của MP và phái luận mệnh căn bản có thể áp dụng tùy theo điều mong muốn xem xét vận mệnh của chúng ta. Mệnh luận trước để tìm hiểu thành bại trong tương lai nói chung hay sự việc đang tiến hành thế nào cũng cần dựa vào bát tự, nghĩa là dựa vào cục bộ mệnh cách của bát tự.
mệnh lý quả là 1 môn học quá ư là khó, có lẽ khó có mô hình nào tổng quát nổi,
Năm nay dính nhiều thị phi với mất tiền, thì em thấy với lá số của em, mô hình manh phái đã dự đoán được
Cảm ơn chị KC bình xét.
Tứ trụ ví dụ đó
Nhâm dần- bính ngọ- mậu dần- ất mão
Tứ trụ này theo lý thuyết không thể coi là tốt được.
Tứ trụ bắt đầu từ Mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ. Hay quan- sát- ấn thân một đường tương sinh. Tuy nhiên thân Mậu Thổ là vượng, vì tương sinh như thế nên buộc phải hoá tiết tức lấy thực thương làm dụng thần để có điểm quý khí. Tứ trụ không có Kim, không nạp kim ở đại vận. Vận Kỷ dậu, chỉ là đạt được một chút quý khí không lâu dài cho kỷ thổ 1 đường sinh dậu kim.
Mậu thân- kỷ dậu- canh tuất, 3 vận này tiết thổ khí sinh kim thì còn thấy thuận cảnh.
Sang tân hợi đại vận, kim vô căn, hợi mão hợp mộc là hết rồi.
Lá số này chẳng thể coi là tốt được.
Tôi cũng không rõ mấy cuốn manh phái được tác giả viết năm nào, chứ theo ví dụ năm 1962 có lẽ thời điểm tác giả lấy ví dụ thì vẫn đang vận trình kỷ dậu, hoặc canh tuất, vẫn còn gặp điều tốt cho nên lập thuyết.
Cho dù có hành thổ kim đại vận, thì kim cũng không phải của người này (tứ trụ không có kim), làm lợi cho người, quyền lợi không thực chất.
Cảm ơn chị KC bình xét.
Tứ trụ ví dụ đó
Nhâm dần- bính ngọ- mậu dần- ất mão
Tứ trụ này theo lý thuyết không thể coi là tốt được.
Tứ trụ bắt đầu từ Mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ. Hay quan- sát- ấn thân một đường tương sinh. Tuy nhiên thân Mậu Thổ là vượng, vì tương sinh như thế nên buộc phải hoá tiết tức lấy thực thương làm dụng thần để có điểm quý khí. Tứ trụ không có Kim, không nạp kim ở đại vận. Vận Kỷ dậu, chỉ là đạt được một chút quý khí không lâu dài cho kỷ thổ 1 đường sinh dậu kim.
Mậu thân- kỷ dậu- canh tuất, 3 vận này tiết thổ khí sinh kim thì còn thấy thuận cảnh.
Sang tân hợi đại vận, kim vô căn, hợi mão hợp mộc là hết rồi.
Lá số này chẳng thể coi là tốt được.
Tôi cũng không rõ mấy cuốn manh phái được tác giả viết năm nào, chứ theo ví dụ năm 1962 có lẽ thời điểm tác giả lấy ví dụ thì vẫn đang vận trình kỷ dậu, hoặc canh tuất, vẫn còn gặp điều tốt cho nên lập thuyết.
Cho dù có hành thổ kim đại vận, thì kim cũng không phải của người này (tứ trụ không có kim), làm lợi cho người, quyền lợi không thực chất.
lá số này dụng kim là chuẩn nhỉ chị sherly, vừa tiết thổ vượng, vừa chế sát, trong sách thập can tinh túy có nói, nhật can thổ phải đắc khí hỏa kim, có lẽ là ý này
Tài liệu "Bắc phương manh phái mệnh lý" đọc được từ năm 2012.
Đến năm 2019 trên mạng xuất hiện lên các tài liệu Manh Phái-Đoàn Kiến Nghiệp.
Mệnh chủ sinh 1962 trong thí dụ, vận Tân Hợi từ 2011 cũng là khoảng thời điểm họ biết đến người này.
Năm nay dính nhiều thị phi với mất tiền, thì em thấy với lá số của em, mô hình manh phái đã dự đoán đượcthucthan có thể chia sẻ kinh nghiệm này không?
Tôi có tìm hiểu ở một số diễn đàn thì mr ĐKN bắt đầu xiển dương manh phái (lập thuyết, viết sách, mở lớp) là vào khoảng năm 2000,2001 gì đó. Tức những ví dụ này của ông ấy thu thập ở khoảng thời gian này hoặc sau đó vài năm.
Cảm ơn chị KC nhé
@thucthan, tứ trụ trên không có dụng thần trong mệnh cục, hay nói cách khác là tứ trụ yếu kém, thuỷ không có căn, không có kim.
Tài liệu "Bắc phương manh phái mệnh lý" đọc được từ năm 2012.
Đến năm 2019 trên mạng xuất hiện lên các tài liệu Manh Phái-Đoàn Kiến Nghiệp.
Mệnh chủ sinh 1962 trong thí dụ, vận Tân Hợi từ 2011 cũng là khoảng thời điểm họ biết đến người này.
thucthan có thể chia sẻ kinh nghiệm này không?
vâng chị kim cương, năm nay giáp thìn, em nhờ mối quen chạy việc cho vợ, sau quá trình trao đổi thì đưa tiền, số tiền cũng gần 300, các chỗ đều đã nhận tiền, xong đến tháng 7 âm, họ báo lại là fail, chạy vạy hỏi han thêm 1 tháng nữa thì chấp nhận fail hẳn, tiền mất việc ko lo được
việc nữa là: năm nay gia đạo sóng gió, em bị dính thi phi tình cảm, cuối tháng 6 âm bị dính,
Ngoài ra công việc của em thì cũng khó khăn, cac việc đều sảy ra vào nửa sau năm giáp thìn
em xem lại lá số của mình thì thấy: năm nay thìn xung tuất, hại mão, bán tam hợp với thân là cung phu thê, sinh thân nên toàn lá số phản cục,
lá số em: Đinh mão/ canh tuất/ mậu thân/ kỷ mùi
tổng kết lại thì tháng 7 âm lịch vừa qua, quá nhiều mệt mỏi chị ạ, tiền mất, việc ko lo được cho vợ, bị dính ồn ào chuyện tình cảm cá nhân, làm vợ con mệt mỏi, công việc thì khó khăn.
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.