PDA

View Full Version : Luận thọ yểu



kimcuong
16-03-21, 14:01
Vài bạn hỏi tôi về cách luận mệnh thọ yểu đời người. Có tính được chính xác tuế vận nào yểu mệnh? Câu hỏi khá bức xúc, hẳn tự mình cũng nhận ra vấn đề chung quanh. Tôi xin thông cảm, nhưng trước hết xin đừng lo lắng thái quá. Nhất là khi chúng ta học mệnh lý, cái giải mệnh duy nhất thấy được là hiểu được mệnh phú, quý thế nào; gặp hung gặp cát đều không lo ngại mừng vui thái quá. Như trong "Mệnh Lý Tinh Hoa" của Bàng Khang Dân, có người định tự tử vì mất hết gia nghiệp. Sau khi được xem mệnh và đoán rằng thời gian tới sẽ lại sung túc, người ấy tin vào lời giải mà sống tiếp. Vì thế, nếu như học mệnh lý mà thấy điều hung từ một câu phú, một chương giải sinh tử nào đó mà lo nhiều thì hãy nghĩ rằng 10 phần trong sách nói có khi chỉ đúng 6. Còn 4 phần là do bản mệnh của mình là riêng biệt, có phúc đức hiện hành bổ cứu là quan trọng nhất.

Để bàn vào cách luận sinh tử này, tôi nghĩ trước tiên chúng ta xem lại các sách vở viết thế nào, cùng với thí dụ trong sách chỉ để làm tiêu biểu cho tác giả. Sau đó xét vào tứ trụ của mình sẽ thấy hoàn toàn không giống như thế. Tất cả chỉ là suy luận, cân lượng đúng sai tùy mình sẽ rõ.

1) Uyên Hải Tử Bình, chương "cách cục sanh tử dẫn dụng":

Bàn về cách cục này tự phải đưa ra các kết luận, nay chỉ lược bàn.
Ấn thụ kiến Tài, hành vận Tài kiêm tử tuyệt, ắt phải nhập suối vàng; nếu trong trụ có Tỉ kiên thì có thể giải được.
Chánh quan kiến Sát cùng với Thương quan hình xung phá hại, tuế vận cũng như thế nữa thì chết.
Chánh tài Thiên tài bị Tỉ kiên phân đoạt hoặc Kiếp tài Dương nhận lại kiến tuế vận xung hợp tất phải chết.
Thương quan cách, Tài vượng thân nhược, Quan sát thấy nhiều lại hỗn tạp xung Nhận, tuế vận lại thấy thì chết, sống được thì cũng mang thương tật.
Củng Lộc, Củng Quý, Điền Thực lại thấy Quan không vong xung Nhận, tuế vận lại gặp thì chết.
Cách Nhật Lộc quy thời, gặp hình xung phá hại; thấy Thất sát Quan tinh không vong xung Nhận tất tử.
Trụ vốn rất kị Quan Sát, tuế vận lại gặp thì chết.
Còn các cách khác, kị Sát cùng Điền thực, gặp tuế vận cùng nhập thì chết. Còn gặp các hung thần ác sát như Câu giảo Không vong Điếu khách, hoặc nhập cung mộ bệnh tử thì mười phần chết, chín phần sống.
Thái tuế Quan tinh, Tài đa thân nhược, trong trụ vốn có Thất sát xâm phạm thì thân nhược có cứu thì tốt, ko có cứu thì hung.
Kim đa thì yểu, thủy nhiều thì trôi, mộc vượng thì yểu, thổ vượng thì ngu đần, hỏa nhiều thì càn ngốc, thái quá thì bất cập.
Khi luận những điều này, đầu tiên không được câu nệ, cứng nhắc, thứ nữa là (không được) võ đoán; mà cần phải cân nhắc đến điều mình suy đoán mới quyết sinh tử được.

Các bạn đều nhận thấy điều lặp đi lặp lại là "lại kiến tuế vận" hoặc "tuế vận cũng như thế nữa", tất nghĩa là dù Thương Quan kiến Quan hay Tài phá Ấn là "điều kiện" (bản mệnh) thì cũng không xảy ra yểu mệnh nếu trong tuế vận không có.

Nhật Lộc Quy Thời là như Giáp lộc ở giờ Dần, Ất lộc ở giờ Mão, là vị trí lâm quan. Thân mà đắc lệnh như lại sinh ở mùa Xuân thì quá vượng, chỉ nên tiết, chớ nên khắc, vì thế nên Lộc kị gặp xung. Cách này như tòng cách vậy, đã theo thì không nên gặp phá hại.

Kim đa thì yểu, thủy nhiều thì trôi, điều này cũng nói lên sự vượng thịnh của một ngũ hành, nghịch vận gặp thuận chiều cũng là hung. Như một mệnh nữ: Nhâm tí, Tân hợi, Nhâm tí, Quí mão, chết vì bịnh phổi năm Nhâm Thìn, vận Đinh Mùi.

2) Trong Mệnh Lý Tinh Hoa, tác giả Bàng Khang Dân viết:

Ngũ hành cách cục hoàn toàn bị thương, cấp cấp liền đi quy lộ;
Tứ trụ Tài Quan đều bại, mau chóng lo dọn trước sân.
Thân suy Ấn trọng, Bành Tổ quanh năm không biết xử trí.
Mộc hướng Xuân sinh, xử thế an nhiên có thọ;
Ngày thủy vượng Đông, cả đời an bình vô lo.
Kiếp Nhận giao gia, mệnh chết do bệnh đậu mùa.
Lan Can Huyết Nhận, thân sinh ghẻ lở vết sẹo.
Bệnh kim ở rốn, bởi vì kim gặp hỏa khắc.
Cảo khanh cắt lưỡi, bởi vì do mộc bị kim thương;
Tỷ Can (chú Trụ Vương, thời nhà Thương) oan tâm, là do Kiếp Nhận lâm vào độ Mệnh.
Kỷ Tín kiền cường khí khái, hỏa kim tranh chấp ở thập cung.
Thất Sát không chế, công lao Hàn Tín không thành.
Thực thần nhập thủy, Khuất Nguyên thân chết chôn vùi;
Lộc phá Mã khuynh, Hạng Vũ tự vẫn ở sông Giang.
Quan tù Ấn tuyệt, Ngu Cơ 9 phần mất thân;
Sát trọng Thân khinh, Nhan Tử khó thoát số định.
Sát cường Nhận trọng, suy là đường chết yểu.

Trong bài trên có câu "Mộc hướng Xuân sinh, xử thế an nhiên có thọ; Ngày thủy vượng Đông, cả đời an bình vô lo.", thế nhưng thí dụ nữ của tôi lại không tính như thế, là vì tuy đắc lệnh, nhưng thái quá, lại khuyết 2 hành Hỏa, Thổ.

3) Nói về khuyết hành, Bàng Khang Dân cũng viết:

Ngũ hành nếu khuyết một hành, chợt đến vận này thì thôi nói tốt.

Nghĩa là tứ trụ thiếu một ngũ hành, đến vận là hung. Có thật đúng như thế chăng? Và đúng theo cách nào?
Thí dụ của BKD:

Kỷ Mão, Quý Dậu, Quý Sửu, Quý Hợi
Khuyết Hỏa là tài tinh. Đến vận Đinh Mão, năm Nhâm Thân 52 tuổi qua đời vì bệnh.

Nhưng không dễ lấy làm tiêu chuẩn đo lường "thiếu hành đến vận là tử". Thật ra BKD trước đó cho rằng luận mệnh phải có đủ Thai Nguyên, Cung Mệnh. Nếu 2 vị trí này xung đột với tứ trụ hoặc tuế vận thì khó nói cát lành hoàn toàn. Với thí dụ trên thì cung mệnh nằm ở Quý Dậu. Ta thấy ngay là vận Đinh Mão phản ngâm Quý Dậu, tức gặp thiên khắc địa xung. Ngoài ra, còn vấn nạn ở Sửu hại Hợi; ngày giờ có hình hại cũng là tiền đề nói tới hậu vận (con cái, bản mệnh) thế nào.

Lại một thí dụ khác của BKD:

Tân Sửu, Tân Sửu, Nhâm Tý, Giáp Thìn
33 tuổi đến Đinh vận, lai lịch tiên sinh toán mệnh nói vận này cát, nhưng trong Đinh phạm ung thư gan mà chết.

Nghĩa là người này đến vận Đinh Dậu đã chết. Cũng là khuyết Hỏa Tài tinh. Cung mệnh là Mậu Tí. Không ứng với lý lẽ của tạo người Quý Sửu, tuy cũng là thiếu Hỏa. Tôi cho rằng Tài tinh Hỏa ở vận đến hợp trói nhật nguyên, đồng thời phá Ấn. Mệnh tạo nào gặp Ấn vượng thân suy, thì 2 loại này không nên cùng động ở tuế vận, gọi là toàn bàn động, tất có hung hiểm.

sherly
16-03-21, 14:56
Chào chị KC
Kỷ mão- quý dậu- quý sửu- quý hợi
Quý thuỷ sinh tháng dậu kim, kim vượng thuỷ tướng, thiên can thấu nhiề thuỷ, địa chi hợi sửu trợ thế, thân vượng tỷ kiếp nhiều, dụng thần ở kỷ thổ sát tinh chế kiếp. Kỷ thổ này là thọ tinh. Không thích mão mộc tiệt cước khắc kỷ thổ. Tứ trụ này vẫn còn thọ được là vì sửu dậu bán hợp tăng lực kim xung mão. Hành vận đến đất sinh trợ mộc là hỏng.
Hành đinh mão đại vận, đinh hoả sinh kỷ thổ là cát, nhưng không thích mão mộc hợp hợi thuỷ hoá mộc, lại trợ kỵ thần của thọ tinh. Hành nhâm thân, nhâm đinh hợp trói, kỷ thổ thọ tinh mất hoàn toàn nguyên thần, cho nên mất mạng.
Tân sửu- tân sửu- nhâm tý- giáp thìn
Nhâm thuỷ sinh tháng sửu mùa đông, thuỷ vượng, kim hàn thuỷ lạnh, dụng thần ở hoả, nguyên cục không có hoả cũng là một tiêu chí yểu mệnh, thuỷ cường thế, thấu ấn có khí sinh thân, cho nên thọ nguyên tinh ở mệnh này là giáp mộc. Giáp mộc có căn tại thìn, gặp vận đinh dậu, dậu hợp thìn hoá kim, phá căn mộc, cho nên Mất mạng.

hp78
16-03-21, 18:00
Chào chị KC
Kỷ mão- quý dậu- quý sửu- quý hợi
Quý thuỷ sinh tháng dậu kim, kim vượng thuỷ tướng, thiên can thấu nhiề thuỷ, địa chi hợi sửu trợ thế, thân vượng tỷ kiếp nhiều, dụng thần ở kỷ thổ sát tinh chế kiếp. Kỷ thổ này là thọ tinh. Không thích mão mộc tiệt cước khắc kỷ thổ. Tứ trụ này vẫn còn thọ được là vì sửu dậu bán hợp tăng lực kim xung mão. Hành vận đến đất sinh trợ mộc là hỏng.
Hành đinh mão đại vận, đinh hoả sinh kỷ thổ là cát, nhưng không thích mão mộc hợp hợi thuỷ hoá mộc, lại trợ kỵ thần của thọ tinh. Hành nhâm thân, nhâm đinh hợp trói, kỷ thổ thọ tinh mất hoàn toàn nguyên thần, cho nên mất mạng.
Tân sửu- tân sửu- nhâm tý- giáp thìn
Nhâm thuỷ sinh tháng sửu mùa đông, thuỷ vượng, kim hàn thuỷ lạnh, dụng thần ở hoả, nguyên cục không có hoả cũng là một tiêu chí yểu mệnh, thuỷ cường thế, thấu ấn có khí sinh thân, cho nên thọ nguyên tinh ở mệnh này là giáp mộc. Giáp mộc có căn tại thìn, gặp vận đinh dậu, dậu hợp thìn hoá kim, phá căn mộc, cho nên Mất mạng.

Bác cho em hỏi chút ạ, Kỷ thổ ở đây là thổ mềm liệu có thể khắc Quý thủy được không?

tuongduy
16-03-21, 21:14
Giáp mộc có căn tại thìn, gặp vận đinh dậu, dậu hợp thìn hoá kim, phá căn mộc, cho nên Mất mạng.
Bác cũng cho em hỏi chút luôn, Dậu hợp Thìn hóa Kim với thiên can Đinh được hả bác?

sherly
16-03-21, 21:17
Chào hp78
Thực ra kỷ thổ là thổ điền viên, mậu thổ là thổ đê thành cứng cáp... là quan điểm mà tuỳ theo sự tham ngộ và cả trường phái của từng người. Còn với tôi thì không dùng những lý luận này, thổ nào cũng khắc thuỷ, hối hoả sinh kim cả.

sherly
16-03-21, 22:25
Chào tuongduy
Bát tự này, thổ có ý sinh kim, thổ yếu và khí thế kim mạnh.
Nguyên do, 2 trụ năm tháng đều là tân sửu (thổ sinh kim), trụ giờ giáp thìn (mộc khắc thổ). Lệnh đông thổ tù. Vì thế thìn gặp dậu sẽ hợp hoá kim, và mộc căn bị hoại.

hp78
17-03-21, 00:27
Chào bác sherly,
Theo em hiểu thì Kỷ tại Sửu và Mậu tại Thìn là thổ mềm nên không khắc thuỷ ạ. Trong bát tự này Kỷ thông căn tại Sửu nên em hiểu như vậy, nhưng nếu bát tự có cả Sửu và Mùi thì Kỷ là mềm hay cứng ??? Liệu cách em đặt vấn đề có sai không ạ.

kimcuong
18-03-21, 13:49
Theo em hiểu thì Kỷ tại Sửu và Mậu tại Thìn là thổ mềm nên không khắc thuỷ ạ. Trong bát tự này Kỷ thông căn tại Sửu nên em hiểu như vậy, nhưng nếu bát tự có cả Sửu và Mùi thì Kỷ là mềm hay cứng ???

Trích Tích Thiên Tủy, Thông Thần Luận:
Các mệnh gia nông cạn, làm ra các bài phú tạo mệnh, với cách nghĩ sai lệch, cho rằng giáp mộc làm lương đóng, ất mộc làm hoa quả; bính hỏa thuộc thái dương, đinh hỏa thuộc đèn đuốc; mậu thổ làm thành quách, kỷ thổ tức điền viên; canh kim thuộc sắt cứng, tận kim thuộc châu ngọc; nhâm thủy thuộc sông ngòi, quý thủy thuộc mưa móc. Luận theo đó đã lâu, bền chắc không thể phá được. Ví như giáp dương mộc không gốc rể gọi là tử mộc, ất âm mộc có gốc rể gọi là hoạt mộc, cũng đồng một thứ mộc mà phân ra sinh tử, chẳng là dương mộc chỉ thụ khí tử tuyệt, còn âm mộc chỉ độc thụ khí sinh vượng hay sao? Luận đoán thiên can các loại thiếu sót, bất nhất,xa vời thực tế như thế, làm sai lầm cho người sau vậy.

Qua trích đoạn trên, ta thấy hình tượng của các thiên can như trên không nên hiểu lệch khi luận giải. Kỷ vẫn khắc được Quí, điều kiện thì giống như mọi can chi khác tứ trụ. Tức phải tọa sinh vượng, có khí, thông căn, có hỗ trợ, không bị khắc phá quá mức. Như dụng Kỷ thì thông căn ở Sửu, Mùi, tốt nhất là Kỷ mùa Hạ... v.v...

lesoi
19-03-21, 07:14
) Nói về khuyết hành, Bàng Khang Dân cũng viết:

Ngũ hành nếu khuyết một hành, chợt đến vận này thì thôi nói tốt.

Nghĩa là tứ trụ thiếu một ngũ hành, đến vận là hung. Có thật đúng như thế chăng? Và đúng theo cách nào?
Thí dụ của BKD:

Kỷ Mão, Quý Dậu, Quý Sửu, Quý Hợi
Khuyết Hỏa là tài tinh. Đến vận Đinh Mão, năm Nhâm Thân 52 tuổi qua đời vì bệnh.

Nhưng không dễ lấy làm tiêu chuẩn đo lường "thiếu hành đến vận là tử". Thật ra BKD trước đó cho rằng luận mệnh phải có đủ Thai Nguyên, Cung Mệnh. Nếu 2 vị trí này xung đột với tứ trụ hoặc tuế vận thì khó nói cát lành hoàn toàn. Với thí dụ trên thì cung mệnh nằm ở Quý Dậu. Ta thấy ngay là vận Đinh Mão phản ngâm Quý Dậu, tức gặp thiên khắc địa xung. Ngoài ra, còn vấn nạn ở Sửu hại Hợi; ngày giờ có hình hại cũng là tiền đề nói tới hậu vận (con cái, bản mệnh) thế nào.

Lại một thí dụ khác của BKD:

Tân Sửu, Tân Sửu, Nhâm Tý, Giáp Thìn
33 tuổi đến Đinh vận, lai lịch tiên sinh toán mệnh nói vận này cát, nhưng trong Đinh phạm ung thư gan mà chết.

Nghĩa là người này đến vận Đinh Dậu đã chết. Cũng là khuyết Hỏa Tài tinh. Cung mệnh là Mậu Tí. Không ứng với lý lẽ của tạo người Quý Sửu, tuy cũng là thiếu Hỏa. Tôi cho rằng Tài tinh Hỏa ở vận đến hợp trói nhật nguyên, đồng thời phá Ấn. Mệnh tạo nào gặp Ấn vượng thân suy, thì 2 loại này không nên cùng động ở tuế vận, gọi là toàn bàn động, tất có hung hiểm.

Nói về khuyết hành trong bát tự, theo em, tùy theo hỉ hay kị trong bát tự mà luận định mới chuẩn. Trong thực tiễn chứng minh điều này là có thật. sách viết là vậy, nhưng ứng dụng là theo thực tiễn. Nếu hành khuyết là kị thần, tuế vận xuất hiện thì hãy cẩn trọng; nếu khuyết hành là hỉ thần, thì vận đó sẽ gặp may. Điều này, trong mệnh của tôi khuyết 2 hành hỏa thổ đã chứng minh điều này.

hp78
21-03-21, 22:26
Chào chị kimcuong,
Em sẽ tìm hiểu, nếu có thêm thắc mắc thì sẽ nhờ chị ạ.

FPTxmen
22-03-21, 09:25
Như lá này của cháu thì có được coi là khuyết cả Thổ và Kim ko ạ? Hay vẫn tính có Thổ tàng trong Ngọ và Hợi ạ.
Đinh Mão - Bính Ngọ - Đinh Hợi - Bính Ngọ

hp78
22-03-21, 18:54
Chào chị kimcuong,
Trong Trích Thiên Tủy có viết âm hỏa không thể sinh thấp thổ, phiền chị giải thích giúp em đoạn này được không ạ?

http://tubinhdieudung.net/showthread.php?1057-Ch%C6%B0%C6%A1ng-24-T%C3%ADnh-T%C3%ACnh
Kỷ Dậu - Đinh Mão - Kỷ Mão - Ất Sửu
Bính Dần/ Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu
Nhật nguyên Kỷ Mão, sinh vào giữa xuân, thổ hư ít tín, mộc đa kim khuyết, âm hỏa không thể sinh thấp thổ, Tín Nghĩa đều hư. Mà bát tự thuần âm, một mực nịnh hót, tâm tồn tại việc hại người ích ta, ý manh nha cười trên nỗi đau người khác.

kimcuong
23-03-21, 11:28
Như lá này của cháu thì có được coi là khuyết cả Thổ và Kim ko ạ? Hay vẫn tính có Thổ tàng trong Ngọ và Hợi ạ.
Đinh Mão - Bính Ngọ - Đinh Hợi - Bính Ngọ
Tính cả can tàng, bát tự trên thiếu Kim Tài tinh, Kỉ thổ trong Ngọ vẫn tính. Hỏa chiếm lĩnh, vượng thì nên tiết, nếu khắc thì phải có Kim khắc thấu ra và đủ lực, không thì cũng vất vả. Thổ tàng trong Ngọ nếu dụng được thì vận Giáp Thìn bắt đầu khá hơn. Bát tự này có 2 đường đi, vì có thể tính tòng vượng khí. Phải xem 2 vận đầu thế nào mới rõ hơn được.

kimcuong
23-03-21, 12:03
Chào chị kimcuong,
Trong Trích Thiên Tủy có viết âm hỏa không thể sinh thấp thổ, phiền chị giải thích giúp em đoạn này được không ạ?

http://tubinhdieudung.net/showthread.php?1057-Ch%C6%B0%C6%A1ng-24-T%C3%ADnh-T%C3%ACnh
Kỷ Dậu - Đinh Mão - Kỷ Mão - Ất Sửu
Bính Dần/ Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu
Nhật nguyên Kỷ Mão, sinh vào giữa xuân, thổ hư ít tín, mộc đa kim khuyết, âm hỏa không thể sinh thấp thổ, Tín Nghĩa đều hư. Mà bát tự thuần âm, một mực nịnh hót, tâm tồn tại việc hại người ích ta, ý manh nha cười trên nỗi đau người khác.
Văn chương trong Tích Thiên Tủy rất xúc tích, các bài luận giải cũng không chi tiết, nên đôi khi người đọc thẳng vào 1 bài như thí dụ trên sẽ thấy phân vân.

Nhưng luận về Âm Dương, sinh vượng tử tuyệt là chính nên quả là rất chí lý khi các chương Thiên Địa Nhân, Thể, Khí của hầu hết các sách đều luận trước khi vào Can Chi, sau đó mới đến Tượng, Cách, v.v... Cái lý lẽ Âm không thắng Âm như "âm hỏa không sinh thấp thổ" hay "thấp thổ không khắc thủy", tôi nghĩ là dùng chữ "dung nạp" thì hợp hơn. Nếu thích suy nghĩ qua hình tượng thì chúng ta thấy rằng khi lấy một nắm cát bỏ vào ly nước thì dĩ nhiên không có tác dụng "khắc" (nghĩa là làm nước biến mất). Cho rằng Kỷ thổ là nắm cát, ly nước là Quý thì ở đây thấy "không ăn thua gì".

Thế nhưng cho thật nhiều cát vào, ly nước sẽ chỉ còn đầy cát đã thấm nước, ta gọi là khắc được rồi đó, cũng chính là 2 tính chất dung nạp nhau, vì có phải là nước mất đi hoàn toàn? Không phải, cát và nước đã hòa hợp.

Trong cách luận mệnh, dùng chữ khắc, chế là vậy, bởi vì có Kỷ, có Quý, thổ có tính khắc thủy, để chế ngự bớt tính cách của Thủy. Thủy dung nạp Thổ để tự khắc chế mình. Tính tình con người cũng vậy, chúng ta biết tự kềm chế là do bản mệnh có sẵn 2 tính cách sẵn sàng dung nạp nhau để bình an.

Lai khi luận qua thí dụ, chúng ta cần phải nắm rõ SVTT (sinh vượng tử tuyệt) của các khí trong lệnh tháng. Như thí dụ trên (Kỷ Dậu - Đinh Mão - Kỷ Mão - Ất Sửu), can Đinh/Kỷ trong tháng Mão tọa Bệnh, không sinh, không khắc nhau. Tuy nhiên, phải nhìn cả lực thấu tàng của chúng, Đinh không có gốc, Kỷ thì tàng trong Sửu, nên Nhâm Tiết Thiều nói âm hỏa không thể sinh thấp thổ là vậy. Điều này không rõ ràng, vì bài luận quá ngắn. Chữ "không thể" chính là do lực của Đinh yếu.

Tuy nhiên nếu nhìn có hình ảnh khác, đó là Ất mộc là lệnh tháng, có thể trợ giúp Đinh hỏa, nên nói là Hỏa yếu cũng chưa hẳn đúng. Thế nhưng chúng ta nên hiểu thâm ý rằng, dù có trợ lực, nhưng bản thân (thí dụ) lười vẫn hoàn lười, có khác gì được cha mẹ giàu có, bản thân ỷ lại. Vì vậy, căn gốc, thấu tàng (tạo nên lực) rất nên chú ý trong khi luận tứ trụ.

Có gì không rõ, hoặc phản biện, các bạn cứ cho biết ý kiến.

FPTxmen
23-03-21, 15:37
Tính cả can tàng, bát tự trên thiếu Kim Tài tinh, Kỉ thổ trong Ngọ vẫn tính. Hỏa chiếm lĩnh, vượng thì nên tiết, nếu khắc thì phải có Kim khắc thấu ra và đủ lực, không thì cũng vất vả. Thổ tàng trong Ngọ nếu dụng được thì vận Giáp Thìn bắt đầu khá hơn. Bát tự này có 2 đường đi, vì có thể tính tòng vượng khí. Phải xem 2 vận đầu thế nào mới rõ hơn được.

Dạ. 1: về vận chạy thì cháu thấy là vận đầu Ất tỵ: học hành tốt, cũng luôn đứng top 1,2 ở quê. sang vận Thìn thì kém dần, rất nhiều chuyện phát sinh trong giai đoạn này...
2. Vấn đề thổ trong lá số này cháu theo dõi là ko dụng dược vì cứ những năm mậu kỉ xuất can là xấu( phải chăng thổ chỉ gửi lộc ở đất ngọ, nếu ko có can chi thổ trong cục ta nên bỏ thổ đi ạ :)))