View Full Version : Thập can hóa khí có thay đổi thập thần không?
Về thập can hóa khí, nhắc lại chúng ta có:
-Giáp Kỉ hóa Thổ
-Ất Canh hóa Kim
-Bính Tân hóa Thủy
-Đinh Nhâm hóa Mộc
-Mậu Quí hóa Hỏa
Trong vài sách cổ có ghi rõ như Tích Thiên Tủy, chương "Hóa Tượng" viết: "Như Giáp Kỷ hóa thổ, thổ âm hàn, cần hỏa khí (ấn) phải hưng vượng; thổ thái vượng thì lại cần lấy thủy làm Tài, mộc làm Quan, kim là Thực thần."
Bình thường không hóa thì Giáp là nhật chủ, tất Tài là Mậu Kỉ; nhưng khi hóa khí với Kỉ thành thổ, thì đổi lại Thủy làm Tài là như vậy. Các thập thần khác cũng vì thế mà đổi.
Nhưng nếu Kỉ là nhật chủ hóa khí với Giáp thì dĩ nhiên các thập thần giữ nguyên vị trí, vì Thổ vẫn là nhật chủ. Như bát tự của Trump hóa thổ (bính tuất, giáp ngọ, kỉ mùi, kỉ tị). Còn con trai của Trump là Barron thì có 2 cặp hợp nhưng không luận hóa: bính tuất, tân mão, mậu thân, quí sửu, vì tháng sinh là Mão. Đây chỉ là hợp bán, hợp trói.
Theo Mệnh Lý Thám Nguyên thì lại có lý thuyết khác. Thí dụ: Nhâm Tuất, Tân Hợi, Bính Thìn, Nhâm Thìn
Bính Tân gặp Nhâm Thìn mới thực sự hóa Thủy. Sau đó lập Bính vẫn là Tỉ, Tân thay vì là Tài trở thành Kiếp. Hóa Thủy thì sinh Mộc, lại tính theo Nhâm Đinh hóa Mộc, nên Đinh là Thương quan, Nhâm là Thực thần. Tiếp theo là Mậu Quí lại trở thành Chính/Thiên tài. Giáp Kỉ là Quan Sát và Ất Canh là Kiêu Ấn.
Trong Uyên Hải Tử Bình thì không luận như trên, chỉ thuyết về hóa thành mà vượng thì tốt, hóa thành tuyệt khí thì xấu. Cũng tương tự như Tam Mệnh Thông Hội, chỉ cần kị thần không nên hợp. Vậy thì ta thấy 2 sách này không nhấn mạnh hóa khí mà chỉ nói đến thập can hợp nhau, có đắc khí hay không.
Sách Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú, chương "Luận cung phân dụng thần phối lục thân" viết: "Thiên Tài là chồng của mẹ, như Giáp lấy Quý làm Chính Ấn, Mậu là Thiên Tài, Mậu Quý hợp như vợ chồng kết duyên với nhau. Bính lấy Ất làm Chính Ấn, Canh là Thiên Tài, Ất Canh hợp nhau, các thần khác cứ thế mà suy." Chính là khi Mậu Quý hợp hóa hỏa thì Bính trở thành Tỉ, Chính Ấn là Ất mộc, v.v...
Theo tôi thì "hóa khí" tương tự như các thuyết ngũ hành thái vượng trong bát tự. Thập thần nhất thiết không phải đổi khi không luận lục thân. Quan trọng là ngũ hành sinh vượng thế nào, vượng quá nên tiết hay nên khắc đều do bát tự. Và chúng ta cũng rõ đầu tiên luận ngũ hành là KHÍ chứ không phải thập thần.
Có bạn trăn trở về thập thần thay đổi là vì muốn rõ khi đó Kiêu Ấn có còn là thủy sinh mộc hay không, trong trường hợp Giáp Kỉ hóa thổ hay đã là vì hóa thổ mà Kiêu Ấn trở thành hỏa. Thật ra các bạn chú trọng nhiều đến thập thần quá mà không suy đoán là "kiêu ấn" trước tiên chính là ngũ hành sinh cho nhật chủ. Nhật chủ nhận nhiều sinh vượng thì phản lại là thất bại. Khi Thổ tiết khí Hỏa quá nhiều thì Hỏa suy yếu, và ta cho rằng Kiêu Ấn là cha mẹ cũng là một cách ẩn dụ về "sinh nhật chủ là cha mẹ" thế thôi.
Các bạn biết thêm điều gì về hóa khí, hãy bàn luận thêm.
Thập can hợp, hóa hay không hóa khí, theo tôi như đã viết bài trên, thật sự không quan trọng bậc nhất khi định lại lục thân, mà cái chính là ngũ hành vượng nhược thế nào. Khí ngũ hành khi vào trạng thái quá vượng hay quá nhược sẽ gây vấn đề cho nhật chủ, và tôi cho là vấn đề chính. Còn việc tìm hiểu thêm về lục thân qua chính bát tự của nhật chủ rất miên man phong phú, nên chúng ta không cần chú trọng vào nhiều quá.
Thí dụ như một bát tự (sinh 15.8.1972, 1:30)
Nhâm Tí - Mậu Thân - Mậu Dần - Quý Sửu
Mệnh chủ Mậu hợp Quý trụ giờ, không hóa, chỉ gọi là hợp Tài tinh. Mậu tọa Bệnh ở Thân, trường sinh ở Dần (không tính là vượng, vì các trạng thái Sinh và Mộc Dục vẫn còn non nớt, có sách gọi là bại địa). Bính thiên ấn tàng trong Dần, cũng quá ít để phụ lực cho mệnh chủ. Thân suy lại hợp Tài tinh quá vượng; Tài là kị thần. Năm 1998 Mậu Thìn, vận Bính Ngọ, cô này tự vận chết (27 tuổi).
Chúng ta thấy rõ điều này: toàn bàn tuế vận và bát tự đều động, nghĩa là các can chi đều tương tác nhau, tạo nên áp lực sinh khắc cho mệnh chủ rất lớn. Điều này không phải ai cũng không vượt qua, nhưng phần lớn là gây trầm cảm nặng, có người không chịu nổi thì tự hại bản thân.
Toàn bàn động rất quan trọng, đó là tiêu chí gây thay đổi lớn, tùy vào ngũ hành dụng/kị mà ảnh hưởng bản thân. Như vận của cô này là Bính Ngọ, năm Mậu Thìn, ta thấy có những điểm như sau:
-Bính Ngọ phản ngâm trụ năm Nhâm Tí
-hợp tình hướng hỏa là kị thần: Mậu Quí, Ngọ Dần
-hợp hướng thủy: thân tí thìn
-bản mệnh có tam hình Dần Thân ở trụ tháng và trụ ngày
Theo pp dự trắc sinh tử của Manh Phái gọi là Mã Đảo Lộc Tà, nhân tiện nói qua để các bạn rõ về ngũ hành thái vượng. Theo pp này (Lộc ở can ngày, Mã ở can giờ), Mậu và Quý đều tọa Quan Đái ở tuế Thìn và Sửu, phần lớn gặp sinh tử trước mắt.
Theo tôi thì "hóa khí" tương tự như các thuyết ngũ hành thái vượng trong bát tự. Thập thần nhất thiết không phải đổi khi không luận lục thân. Quan trọng là ngũ hành sinh vượng thế nào, vượng quá nên tiết hay nên khắc đều do bát tự. Và chúng ta cũng rõ đầu tiên luận ngũ hành là KHÍ chứ không phải thập thần.
Có bạn trăn trở về thập thần thay đổi là vì muốn rõ khi đó Kiêu Ấn có còn là thủy sinh mộc hay không, trong trường hợp Giáp Kỉ hóa thổ hay đã là vì hóa thổ mà Kiêu Ấn trở thành hỏa. Thật ra các bạn chú trọng nhiều đến thập thần quá mà không suy đoán là "kiêu ấn" trước tiên chính là ngũ hành sinh cho nhật chủ. Nhật chủ nhận nhiều sinh vượng thì phản lại là thất bại. Khi Thổ tiết khí Hỏa quá nhiều thì Hỏa suy yếu, và ta cho rằng Kiêu Ấn là cha mẹ cũng là một cách ẩn dụ về "sinh nhật chủ là cha mẹ" thế thôi.
Các bạn biết thêm điều gì về hóa khí, hãy bàn luận thêm.
Theo thiển nghĩ của thuongth, khi hợp hóa, về bản chất tương tác giữa các can chi trong mệnh cục không thay đổi, nhưng Khí ngũ hành của các can hợp thay đổi (đổi tính chất và/hoặc cường/nhược hơn). Trường hợp can tham gia hợp hóa là Nhật chủ, nếu hóa khí thành ngũ hành khác thì ngũ hành của Thập thần cũng phải đổi chứ?, mặc dù quan hệ sinh khắc chế hóa không đổi. Ví dụ, nhật chủ Quý hợp Mậu hóa Hỏa. Kiêu Ấn lúc nào cũng là cha mẹ, nhưng ban đầu Kiêu Ấn ngũ hành là Kim, sau khi hợp hóa thì Kiêu Ấn trong mệnh cục là Mộc. Không biết thuongth có nghĩ sai hay không? Mong được giải thích ah.
Ngoài ra theo thuongth được biết, theo lẽ thường, hợp hóa là theo kẻ mạnh, tương tự "tòng cách"; ví dụ chính hóa chồng Giáp hợp vợ Kỷ hóa Thổ (theo khí ngũ hành của vợ), trong thực tế có trường hợp phản hóa, tức Giáp hợp Kỷ hóa Mộc không vậy ah?
Trân trọng.
Như tôi đã viết, thí dụ Mậu Quí hợp và có hành Hỏa là khí "được hóa" mạnh, tính cách của Mậu và Quí bị thu hồi lại, tức là hành Hỏa chiếm vị trí của thổ và thủy. Nếu Mậu là nc, thì Hỏa vượng vẫn là Kiêu Ấn, không thay đổi; Quí là nc thì Kim chỉ là nhược càng nhược. Tính cách của 2 người này sẽ khác nhau rất lớn. Đó là ý kiến của tôi vẫn chú trọng đến bản tính là chính; thập thần là thứ yếu. Nếu muốn xem cha mẹ, tốt hơn là nên xem chính bát tự của cha mẹ. Các lý thuyết cổ thường luận về bản mệnh, chứ không luận chính yếu về lục thân thông qua bát tự của mình. Sau này phái tân thời mới chêm vào các hình tượng ẩn dụ gọi là lục thân, như Kiêu Ấn là cha mẹ. Đó chỉ nên xem là hành sinh trợ cho hành nhật can, người ta lại nghĩ ra "sinh cho mình" tức là cha mẹ vậy.
Thật sự thì các bạn muốn định hình như thế cũng được, chẳng hại gì, nhưng vẫn cần nhớ lục thân là thứ yếu trong khi luận hành sinh trợ (kiêu ấn) có tác dụng gì cho mệnh của mình.
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=611&stc=1
Nhờ mọi người giải đáp giúp, ở lá số trên, Giáp-Kỷ có hoá Thổ được không ạ?
ryouky ghi lại ngày sinh dương lịch và giờ sinh, vì hình nhỏ quá không nhìn rõ.
Dạ sinh ngày 14 tháng 5 năm 1991, khoảng 9h ạ
Bát tự: Tân Mùi, Quý Tỵ, Giáp Thân, Kỷ Tỵ ạ
Bát tự của ryouky có 2 cách giải, 1 là không hóa khí thổ, Giáp hợp Kỉ tài tinh, nhưng Tài không hữu dụng, vì thân nhược cần Ấn tinh là Thủy. Rất tốt khi có Quí thấu trụ tháng, có Tân kim trợ kề cận, tuy rằng lực của kim thủy tọa hàng địa chi quá yếu. Mệnh trung bình, vận kém hỗ trợ, lao lực nhiều. Cách thứ nhì là Giả hóa/Giả tòng Tài, tới vận Kỉ Sửu phất lên rất cao vài năm. Vận Tí, Hợi lại trở về bình thường hoặc thất thoát. Theo Tài tức là lấy Thực sinh Tài (hỏa thổ giả hóa), bỏ Ấn.
Tân mùi- quý tị- giáp thân- kỷ tị
Giáp kỷ hoá thổ cục, thổ ở tháng tị là mùa hè hoả viêm thổ táo, tiên quyết dung kim thuỷ. Lấy Kim thuỷ làm dụng thần thấu can năm tháng tiết hoá khí thổ vượng cường.
Kim thuỷ đều có căn tại thân, nhưng thân là giả căn, lại gặp 2 tị hợp thương thì dụng thần bị tổn thương lớn.
Đến kỷ sửu vận, thì quan ấn được trợ lực là tốt, nhưng tài vẫn khắc ấn thì thu nhập kém.
Nhìn chung, số khá là khổ về đường hôn nhân,
https://lyso.vn/lasotutru/1/093014051991/1/ryouky.jpg
Giáp Kỷ hợp, tài không phá ấn.
Thực nhiều là thương, thương quan phối ấn cách.
Bát tự của ryouky có 2 cách giải, 1 là không hóa khí thổ, Giáp hợp Kỉ tài tinh, nhưng Tài không hữu dụng, vì thân nhược cần Ấn tinh là Thủy. Rất tốt khi có Quí thấu trụ tháng, có Tân kim trợ kề cận, tuy rằng lực của kim thủy tọa hàng địa chi quá yếu. Mệnh trung bình, vận kém hỗ trợ, lao lực nhiều. Cách thứ nhì là Giả hóa/Giả tòng Tài, tới vận Kỉ Sửu phất lên rất cao vài năm. Vận Tí, Hợi lại trở về bình thường hoặc thất thoát. Theo Tài tức là lấy Thực sinh Tài (hỏa thổ giả hóa), bỏ Ấn.
Giờ sinh khoảng 9h nên con cũng không chắc là giờ Tỵ hay giờ Thìn ạ. Cô Kim Cương nghĩ là giờ gì hợp lý hơn ạ?
Con năm 2019 cưới vợ. Năm 2020 tháng 10 sinh con gái. Năm 2022 có đổi việc làm.
Khi cháu viết sinh 9 giờ là đã thấy có giao thời giữa Thìn và Tị. Nếu cháu muốn hiểu chính xác mệnh của mình, quả là rất khó khi không thấu hiểu trả lời của mọi người. Cháu lấy vợ, sinh con ở đại vận thiên khắc địa xung với trụ ngày, gọi là xung (Dần Thân) nếu là giờ Thìn, gọi là gặp tam hình với cả trụ giờ nếu định giờ Tị. Cháu có thể nói thêm, hôn nhân có như kế hoạch đã định hay tình trạng thúc bách? Dù thế nào, cả 2 giờ Mậu Thìn, Kỉ Tị là hỏa thổ vượng, mệnh có Quí hỗ trợ Giáp và Tân trợ Quí.
Cháu nên cho biết 2 vận đầu xuông xẻ hay không. Vào vận Canh Dần mới gặp nhiều khó khăn? Hoặc cả 3 vận đầu đời đều không như ý muốn, học hành bất thuận lợi, luôn phải nhọc tâm sinh nhai?
Cháu nên hiểu, luận giải 1 mệnh không phải chỉ thấy bát tự là đủ. Vì có hàng vạn người giống mình. Mỗi người hoàn cảnh khác nhau vì phong thổ, gia đình, nên khi hỏi luận mệnh, cần có thêm chi tiết về những vận vừa qua. Những mốc thời gian này là 1 trong những cách giải giờ sinh và cách cục của mệnh.
Khi cháu viết sinh 9 giờ là đã thấy có giao thời giữa Thìn và Tị. Nếu cháu muốn hiểu chính xác mệnh của mình, quả là rất khó khi không thấu hiểu trả lời của mọi người. Cháu lấy vợ, sinh con ở đại vận thiên khắc địa xung với trụ ngày, gọi là xung (Dần Thân) nếu là giờ Thìn, gọi là gặp tam hình với cả trụ giờ nếu định giờ Tị. Cháu có thể nói thêm, hôn nhân có như kế hoạch đã định hay tình trạng thúc bách? Dù thế nào, cả 2 giờ Mậu Thìn, Kỉ Tị là hỏa thổ vượng, mệnh có Quí hỗ trợ Giáp và Tân trợ Quí.
Cháu nên cho biết 2 vận đầu xuông xẻ hay không. Vào vận Canh Dần mới gặp nhiều khó khăn? Hoặc cả 3 vận đầu đời đều không như ý muốn, học hành bất thuận lợi, luôn phải nhọc tâm sinh nhai?
Cháu nên hiểu, luận giải 1 mệnh không phải chỉ thấy bát tự là đủ. Vì có hàng vạn người giống mình. Mỗi người hoàn cảnh khác nhau vì phong thổ, gia đình, nên khi hỏi luận mệnh, cần có thêm chi tiết về những vận vừa qua. Những mốc thời gian này là 1 trong những cách giải giờ sinh và cách cục của mệnh.
Dạ 2 vận đầu cũng có thể gọi là suông sẻ ạ. cũng được gia đình hỗ trợ nên cũng ko có vấn đề gì đặc biệt. Vận Canh Dần thì cũng gập ghềnh, nhưng cũng vượt qua hết, bản thân luôn nghĩ còn trẻ thì không suông sẻ xíu cũng được. Học hành thì thi cử chưa tốt so với năng lực. Cảm ơn ơn trên là chưa phải nhọc tâm sinh nhai ạ. Kết hôn và sinh con tự nhiên duyên số ạ, không có thúc bách. Chỉ thấy bản thân không may mắn về tiền bạc ạ. Nên bản thân không giữ tiền, vợ giữ hết ạ.
Như cháu trình bày rõ như thế, nên luận giờ Thìn, vì theo cách dùng giờ mặt trời, giờ Tị bắt đầu từ 7:31-7:49 phút tùy theo địa phương tại VN. Nghĩa là sau 9:30 mới định giờ Tị. Cách này không phải mới, ngày xưa các thầy bói toán đã sử dụng giờ khác biệt ở nơi chốn khác nhau. Ngày nay chúng ta tính nhanh hơn nhờ máy móc. Chỉ cần chú ý khi gặp các giờ biên như thí dụ của ryouky.
Giờ Mậu Thìn lại rõ là không hóa khí thổ, tuy nhiên Tài là Thổ vượng, thân nhược, đến vận Tài Kỉ Sửu chính là sự thôi thúc rất mạnh, rất cần hỗ trợ của gia đình, bạn bè.
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.