PDA

View Full Version : Xin nhờ chị Kim Cương và các Bác Cao Thủ trong diễn đàn chia sẽ về vận thái tuế



hoanhy
07-01-22, 02:08
Xin chào A/C trong diễn đàn
Em có một thắc mắc về vận thái tuế trong từ bình nếu thái tuế là dụng hỉ thì như thế nào ? Và nếu là kỵ thì ra sao ? Mong mn giải đáp giúp em được học hỏi thêm ạh!

thanh
07-01-22, 11:17
Mời bạn tham khảo mục Tuế Vận của Trích Thiên Tủy

Chương 28. Tuế Vận

Hưu tù trói ở vận, nhất là trói ở tuế, xung chiến là ai hàng, hòa thuận là ai hợp.

Nguyên chú: Nhật chủ ví như thân ta, thần ở trong cục, ví như con người dẫn theo thuyền ngựa, đại vận ví như chỗ đất đến, cho nên coi trọng địa chi, chưa chắc là không có thiên can. Thái tuế ví như chỗ người gặp, cho nên coi trọng thiên can, chưa chắc không có địa chi. Tất trước tiên phải rõ một nhật chủ, phối hợp với 7 chữ, quyền lực khinh hay trọng, xem hành hỉ là hành vận nào, hành kỵ là hành vận nào. Như ngày Giáp lấy khí thế xem ở mùa xuân, lấy tâm người xem người, lấy vật lý xem mộc, đại để mà xem khí thế còn lại ở trong đó. Gặp mặt chữ Canh Tân Thân Dậu, như xuân mà hành ở mùa thu, thì mới chặt đi cái sinh cơ này, lại xem hỉ và không hỉ, mà đất hành vận sinh Giáp phạt Giáp, đoạn nào là tốt xấu vậy. Một khi đến Thái tuế, tốt xấu liền hiện ra, vì vậy tường luận xu thế xung chiến và hòa thuận, mà được cơ thích ứng thắng bại, thì tốt xấu rõ ràng ở ngay trước mắt.

Nhâm thị viết: Phú quý tuy định ở cách cục, cũng phải gắn liền với vận đồ thuận lợi nữa, chỗ gọi là Mệnh tốt không bằng vận tốt vậy. Nhật chủ là bản thân của ta, trong cục có hỉ dụng thần là chỗ người sử dụng, vận đồ chính là chỗ đất ta đến. Cho nên lấy địa chi làm trọng. Yêu cầu thiên can không nghịch, tương sinh tương phù là tốt, cho nên xem một vận gồm 10 năm không được ngăn ra trên dưới, không thể khiến cho cái đầu tiệt cước. Bất luận cái đầu tiệt cước, thì cát hung không nghiệm vậy.

Như hỉ hành mộc vận, tất cần Giáp Dần Ất Mão, kế đến là Giáp Thìn Ất Hợi, Nhâm Dần Quý Mão; Hỉ hành hỏa vận tất cần Bính Ngọ Đinh Mùi, kế đến là Bính Dần Đinh Mão, Bính Tuất Đinh Tị; Hỉ hành thổ vận, tất cần Mậu Ngọ Kỷ Mùi, Mậu Tuất Kỷ Tị, kế đến là Mậu Thìn Kỷ Sửu; Hỉ hành kim vận, tất cần Canh Thân Tân Dậu, kế đến là Mậu Thân Kỷ Dậu, Canh Thìn Tân Tị; Hỉ hành thuỷ vận, tất cần Nhâm Tý Quý Hợi, kế đến là Nhâm Thân Quý Dậu, Tân Hợi Canh Tý.
Thà rằng khiến cho thiên can sinh địa chi, không nên địa chi sinh thiên can; thiên can sinh địa chi mà phúc dày, địa chi sinh thiên can mà khí tiết.

Sao gọi là Cái Đầu ? Như hỉ mộc vận mà gặp Canh Dần Tân Mão; hỉ hỏa vận mà gặp Nhâm Ngọ Quý Tị; hỉ thổ vận mà gặp Giáp Tuất Giáp Thìn, Ất Sửu Ất Mùi; hỉ kim vận mà gặp Bính Thân Đinh Dậu; hỉ thủy vận mà gặp Mậu Tý Kỷ Hợi.

Sao gọi là Tiệt Cước ? Như hỉ mộc vận mà gặp Giáp Thân Ất Dậu, Ất Sửu Ất Tị; hỉ hỏa vận mà gặp Bính Tý Đinh Sửu, Bính Thân Đinh Dậu, Đinh Hợi; hỉ thổ vận mà gặp Mậu Dần Kỷ Mão, Mậu Tý Kỷ Dậu, Mậu Thân; hỉ kim vận mà gặp Canh Ngọ Tân Hợi Canh Dần, Tân Mão Canh Tý; hỉ thủy vận mà gặp Nhâm Dần Quý Mão, Nhâm Ngọ Quý Mùi, Nhâm Thìn Quý Tị vậy.

Bởi do can đầu hỉ chi, mà vận quan trọng ở Chi, tiền tài cát hung giảm nửa; Tiệt cước thì hỉ Can, chi không tải can, tất 10 năm đều xấu. Nếu như hỉ hành mộc vận, mà gặp Canh Dần Tân Mão, Canh Tân vận là hung vận, mà kim tuyệt ở Dần Mão, gọi là kim vô căn, tuy có hung hiểm mười phần, thì cũng giảm còn một nửa. Như nguyên cục thiên can có Bính Đinh thấu lộ, ngược lại vừa có thể chế kim, vừa có thể giảm được một nửa, hoặc lại gặp Thái Tuế phùng Bính Đinh, chế khắc Canh Tân, tất không có hung vậy. Dần Mão vốn là cát vận, bởi vì cái đầu có Canh Tân khắc địa chi, tuy cát lợi có 10 phần, cũng giảm còn một nửa. Như nguyên cục địa chi có một chút Dậu kim xung, chẳng những không cát lợi, mà lại hung họa vậy.
Lại như hỉ mộc vận, gặp Giáp Thân Ất Dậu, mộc tuyệt ở Thân Dậu, gọi là chi không tải can, cho nên vận Giáp Ất không cát lợi. Như nguyên cục thiên can lại thấu Canh Tân, hoặc thiên can Thái Tuế gặp Canh Tân, nhất định là hung hiểm cho nên gặp 10 năm xấu. Như nguyên cục thiên can thấu Nhâm Quý, hoặc thiên can Thái Tuế phùng Nhâm Quý, có thể tiết kim sinh mộc, tất an hòa không xấu vậy. Cho nên vận phùng cát không thấy cát, vận phùng hung không thấy hung, nguyên cớ đều do Cái Đầu, Tiệt Cước vậy.
Thái tuế quản tốt xấu trong một năm, như chỗ con người gặp gỡ, cho nên lấy thiên can làm trọng, tuy nhiên cũng không thể không xét địa chi, tuy có sinh khắc, không thể xung phá cùng nhật chủ vận đồ. Xấu nhất là thiên khắc địa xung, thái tuế xung khắc, nhật chủ vượng tướng tuy hung nhưng không đáng ngại, nhật chủ suy nhược tất gặp phải đại hung. Ngày phạm Tuế quân, nhật chủ vượng tướng không hung, nhật chủ hưu tù tất hung; Tuế quân phạm ngày, cũng giống như vậy. Cho nên lúc giao nhau nên hài hòa, không thể luận một mặt cùng đại vận vậy. Như vận phùng mộc là cát, ngược lại phùng mộc gặp hung nguyên do đều là xung phá bất hòa vậy. Theo lý này mà suy ra, tất cát hung không thể không nghiệm vậy.

Canh Thìn - Đinh Hợi - Canh Thìn - Đinh Sửu
Mậu Tý/ Kỷ Sửu/ Canh Dần/ Tân Mão/ Nhâm Thìn/ Quý Tị
Nhật chủ Canh Thìn, sinh vào tháng Hợi, thiên can Đinh hỏa cùng thấu lộ, Thìn Hợi tàng Giáp Ất, đủ để dụng hỏa. Vận đầu Mậu Tý, Kỷ Sửu, hối hỏa sinh kim, không được toại nguyện như ý. Canh vận, năm Bính Ngọ, Canh tọa Dần tiệt cước, thiên can 2 Đinh hỏa, đủ để đối địch 1 Canh, lại gặp năm Bính Ngọ, chiến thắng. Đánh hạ Tri huyện, Dần vận bạc tiền tương đối; Tân Mão tiệt cước, trong cục Đinh hỏa hồi khắc Tân kim, làm quan cấp Quận; vận Nhâm Thìn, thuỷ sinh căn khố, năm Nhâm Thân gặp nguy, 2 Đinh đều bị thương khắc, hết lộc.

Ất Mùi - Mậu Tý - Canh Thìn - Đinh Sửu
Đinh Hợi/ Bính Tuất/ Ất Dậu/ Giáp Thân/ Quý Mùi/ Nhâm Ngọ
Nhật nguyên Canh Thìn, sinh vào tháng Tý, Mùi thổ phá Tý thủy, thiên can mộc hỏa, đều được Thìn Mùi dư khí, đủ để dụng mộc sinh hỏa. Bính vận nhập học. Vận Ất Dậu, năm Quý Dậu, Quý hợp Mậu hóa hỏa, theo thuyết xưa Dậu là nơi Đinh hỏa trường sinh, không biết rằng Ất Dậu mộc bị tiệt cước, không còn là mộc, mà thực ra là kim vậy. Năm Quý Dậu, thủy phùng kim sinh, lại sinh mùa đông, làm sao mà có thể hợp Mậu hóa hỏa? Tất là khắc Đinh hỏa không còn nghi ngờ Dậu là thuần kim, chính là nơi tử địa của hỏa, nói đến thuyết âm hỏa trường sinh ở Dậu, thật là sai lầm vậy; kim tháng 8 lại gặp Tân Dậu, mộc hỏa trong cục đều bị thương, đề phòng sinh họa bất trắc. Cuối cùng chết ở trung nguyên.

Mậu Tý - Ất Mão - Bính Dần - Đinh Dậu
Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân/ Tân dậu
Nhật nguyên Bính Dần, sinh vào tháng Mão, mộc hỏa đều vượng, thổ kim đều tổn thương, thủy cũng hưu tù. Vận Bính Thìn, Đinh Tị, sản nghiệp tiêu tan không còn; vận Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, không thể sinh kim tiết hỏa, kinh doanh mắc nợ vạn kim, xuất ngoại chạy trốn; giao vận Canh Thân, Tân Dậu 20 năm, lại đầu cơ tích trữ được lợi, phát tài hơn 10 vạn.

Bính Thân - Quý Tị - Bính Ngọ - Giáp Ngọ
Giáp Ngọ/ Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi
Nhật nguyên Bính Ngọ, sinh vào tháng Tị giờ Ngọ, bầy Kiếp tranh Tài, uy hiếp can Quý thủy. Vận đầu Giáp Ngọ, Nhận Kiếp điên cuồng hung tàn, cha mẹ chết sớm; Ất Mùi trợ Kiếp, gia nghiệp thất bại hoang tàn; giao Bính Thân, Đinh Dậu, nghèo khổ không chịu nổi; giao vận Mậu Tuất, hơi có chỗ đứng chút ít.

Sao gọi là chiến?

Nguyên chú: Như vận Bính năm Canh, gọi là vận phạt tuế. Nếu nhật chủ hỉ Canh, cần Bính hàng, được Mậu được Bính là cát; nhật chủ hỉ Bính, thì tuế không hàng vận, được Mậu Kỷ để hòa là tốt. Như Canh tọa Dần Ngọ, lực lượng Bính lớn, thì tuế cũng không thể không hàng, hàng cũng bảo vệ mà không có họa. Vận Canh năm Bính, gọi là tuế phạt vận, nhật chủ hỉ Canh, được Mậu Kỷ lấy Bính hòa là cát; nhật chủ hỉ Bính, thì vận không hàng tuế, lại không thể sử dụng Mậu Kỷ tiết Bính trợ Canh. Nếu Canh tọa Dần Ngọ, lực lượng Bính lớn, thì vận tự hàng tuế, cũng bảo vệ không có họa.

Nhâm thị viết: Chiến là khắc vậy. Như vận Bính năm Canh, là vận khắc Tuế, nhật chủ hỉ Canh, đòi hỏi Bính tọa Tý thủy, Canh tọa Thân kim, trong cục lại được Mậu Kỷ tiết Bính, được Nhâm Quý khắc Bính thì cát; nếu như Bính Ngọ, Bính Dần, trong cục lại không có thủy chế hỏa, tất hung; như vận Canh năm Bính, là Tuế khắc Vận, nhật chủ hỉ Canh tất hung; hỉ Bính tất cát; hỉ Canh đòi hỏi Canh tọa Thân kim, Bính tọa Tý Thìn, trong cục lại gặp thủy thổ chế hóa là cát, ngược lại tất hung; nhật chủ hỉ Bính cũng theo chỗ này mà suy.

Tân Mão - Giáp Ngọ - Bính Thìn - Canh Dần
Quý Tị/ Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý
Bính hỏa sinh tháng Ngọ, Dương Nhận nắm quyền, chi đủ Dần Mão Thìn, thổ tòng theo thế mộc; Canh Tân lưỡng kim không thông căn. Vận đầu Quý Tị, Nhâm Thìn, kim phùng sinh trợ, gia nghiệp giàu có, vui vẻ thoải mái. Vận Tân Mão kim tiệt cước, hình tang phá hao, gia nghiệp mười bại hết chín. Vận Canh năm Bính Dần khắc vợ, Canh tọa Dần tiệt cước; năm Bính Dần là tuế khắc vận, Canh lại tuyệt mà Bính sinh, trong cục không có thần chế hóa, ở tháng Giáp Ngọ mộc tòng theo thế hỏa, hung họa liên miên, mắc bệnh mà chết.

Tân Mão - Giáp Ngọ - Ất Mão - Ất Dậu
Quý Tị/ Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý
Ất mộc sinh tháng Ngọ, Mão Dậu kề cận xung, can tháng Giáp mộc lâm tuyệt, ngũ hành không có thủy, mùa hạ hỏa nắm quyền tiết khí mộc, Thương quan dụng Kiếp, kỵ kim vậy. Vận đầu Nhâm Thìn, Quý Tị, Ấn thấu sinh phù, đắc thời thuận lợi. Vận Tân Mão, duy chỉ có năm Tân Dậu, xung phá Mão mộc, hình tang khắc phá. Đến vận Canh Dần, năm Bính Dần, kỵ kim mà Bính hỏa khắc khử kim, trong cục không có thủy tiết chế Bính hỏa, hỏa lại phùng sinh, kim tọa tuyệt địa, nhập học, thong thả thoải mái vậy.

Sao gọi là Xung?

Nguyên chú: Như vận Tý năm Ngọ, chỗ này gọi là vận xung tuế, nhật chủ hỉ Tý, thì phải trợ giúp Tý, lại được can năm, gặp thần chế Ngọ, hoặc Ngọ nhiều phe đảng, can đầu gặp chữ Mậu Giáp tất hung. Như vận Ngọ năm Tý, chỗ này gọi là tuế xung vận, nhật chủ hỉ Ngọ, mà đảng Tý nhiều, can đầu trợ Tý tất hung; nhật chủ hỉ Tý, mà đảng Ngọ ít, can đầu trợ Tý tất cát, nếu Ngọ trọng Tý khinh, thì không hàng, cũng không có xấu.

Nhâm thị viết: Xung là phá vậy. Như vận Tý năm Ngọ, gọi là vận xung tuế. Nhật chủ hỉ Tý cần can đầu gặp Canh Nhâm, can đầu Ngọ gặp Giáp Bính, cũng không có xấu; như can đầu Tý gặp Bính Mậu, can đầu Ngọ gặp Canh Nhâm, cũng có xấu. Nhật chủ hỉ Ngọ, can đầu Tý gặp Giáp Mậu, can đầu Ngọ gặp Giáp Bính, thì cát; như can đầu Tý gặp Canh Nhâm, can đầu Ngọ gặp Bính Mậu, can đầu Tý gặp Giáp Bính, thì cát; như can đầu Ngọ gặp Bính Mậu, can đầu Tý gặp Canh Nhâm, tất hung. Còn lại dựa theo chỗ này mà suy.

Sao gọi là Hòa?

Nguyên chú: Như vận Ất năm Canh, vận Canh năm Ất là hòa, nhật chủ hỉ kim thì cát, nhật chủ hỉ mộc thì không cát, vận Tý năm Sửu, vận Sửu năm Tý, nhật chủ hỉ thổ thì cát, hỉ thủy thì không cát.

Nhâm thị viết: Hòa là Hợp vậy. Như vận Ất năm Canh, vận Canh năm Ất, hợp mà có thể hóa, hỉ kim thì cát, hợp mà không hội, lại là hợp trói, không thích quan tâm đến nhật chủ của ta, thì không cát vậy. Hỉ Canh cũng vậy, cho nên hỉ Canh tất cần mộc kim đắc địa, Ất mộc vô căn, thì hợp hóa là tốt vậy, nếu Tý hợp Sửu, không hóa cũng là khắc thủy, hỉ thủy thì không cát vậy.

Sao gọi là Tốt?

Nguyên chú: Như vận Canh năm Tân, vận Tân năm Canh, vận Thân năm Dậu, vận Dậu năm Thân, thì tốt. Nhật chủ hỉ dương, thì Canh và Thân là tốt, hỉ âm, thì Tân và Dậu là tốt, phàm chỗ này đều nên suy ra.

Nhâm thị viết: Tốt, là loại tương đồng vậy. Như vận Canh năm Thân, vận Tân năm Dậu, nói là thật tốt, là chi lộc vượng, tự quay trở về bản khí của ta, như người thân ở trong một nhà, như vận Canh năm Tân, vận Tân năm Canh, là trợ giúp thiên can, như bằng hữu giúp nhau, cuối cùng không thân thiện lắm, tất trước tiên cần phải thông căn vận vượng, dựa vào tự nhiên là tốt. Như vận không có căn khí, thấy thế suy mà không có tình dựa vào, thì không phải tốt vậy.

sherly
01-03-22, 20:07
Sách dự đoán theo tứ trụ và các nhiều sách khác đều ghi:
Thái tuế là quân, đại vận là Thần.
Quân thì có thể sinh khắc thần, thần không thể nghịch. Điều này nói về cái lý trước sau, trên dưới, lớn nhỏ của quyền sinh khắc thái tuế và đại vận tứ trụ.
Từ các mối quan hệ sinh khắc, hợp hoá cũng thấy được mặc dù quyền lực của thái tuế là sinh khắc đại vận, làm rõ tốt xấu một năm, nhưng cũng có khi thái tuế không làm gì cả, một năm bình thường như bao năm khác, không phải năm nào cũng có biến cố được.
Tôi lấy ví dụ.
Bát tự dụng Hoả gặp Vận bính ngọ. Đại vận này chắc chắn là đại vận tốt, nhưng gặp năm Nhâm tý, năm này là năm thiên khắc địa xung với đại vận, thì năm này không có gì tốt, xấu về điều gì sẽ do Nhâm- tý đại diện cho cái gì. Ví dụ nhật can là kỷ thổ, thì năm này sẽ gặp khó khăn tiền bạc (thuỷ là tài tinh của thổ).
Năm tiếp theo là năm quý Sửu, cũng là khắc hại hoả khí, vậy người này liên tiếp 2 năm liền gặp khó khăn tiền bạc. Tuy nhiên ngay năm tiếp là năm giáp dần, giáp sinh bính, dần hợp sinh ngọ, thì công việc sẽ tốt, có thể thăng chức vì năm đó là năm Quan sát.
Người ta trọng đại vận hơn lưu niên, vì đại vận kéo dài cả 10 năm, tức chỉ có một số năm là có thể tổn hại đến dụng thần, đó là chưa kể yếu tố đó ở lưu niên phải có lực, bằng không thì chỉ là khó khăn nhỏ
Thậm chí khi nghiên cứu sâu hơn.
Ví dụ vận Bính ngọ là vận dụng thần, năm Nhâm tý kỵ thần, thì tháng Đinh Mùi thuộc năm Nhâm tý là có cứu (đinh hợp nhâm, mùi hại tý), nếu tháng đinh mùi có ngày Quý Sửu, thì ngày này lại không tốt (quý khắc đinh, sửu xung mùi). Tức càng về đơn vị nhỏ hơn (như tháng, ngày, giờ thuộc lưu niên) thì tầng sinh khắc nó càng cao. Nhưng dĩ nhiên cát hung cũng không lâu dài.