sherly
24-05-23, 23:02
Đây có thể coi là phần đặc sắc nhất của Tử Bình.
Tứ trụ có 4 tam hợp
Thân tý thìn hợp hoá thuỷ
Dần ngọ tuất hợp hoá hoả
Tị dậu sửu hợp hoá kim
Hợi mão mùi hợp hoá mộc
Sách dự đoán theo tứ trụ cho rằng khi các điều kiện hợp hoá thoả mãn, thì tất cả các dư khí bị tiêu biến, chỉ còn hoá khí.
Tam hợp hoá khí là hình thức của Dung Hợp
Vd:
Dần Ngọ Tuất tam hợp hoá Hoả
Dần: Giáp Bính Mậu
Ngọ: Bính Đinh Kỷ
Tuất: mậu Tân Đinh
Hình thái của hợp hoá sẽ là, Bính trong Dần và Đinh trong Tuất sẽ dung hợp vào Bính Đinh trong Ngọ, tất cả các dư khí khác sẽ bị tiêu biến, Ngọ bản chất không bị biến đổi, chỉ Tăng Lực lên nhờ hiện tượng dung hợp.
Ngọ là dụng thần thì cát lợi may mắn, ngọ là kỵ thần thì suy bại hung nguy.
Tương tự với các Tam hợp hoá khí khác.
* Điều kiện của Tam hợp hoá khí
- như diễn giải dung hợp ở trên, trung thần là quan trọng nhất (nơi tụ khí của dung hợp địa chi).
- cần phải có thiên can dẫn hoá, có nơi nói Hợp cục không cần thiên can dẫn hoá, đó là do họ nhìn theo chiều hướng khác, việc thiên can dẫn hoá là để tiêu biến các dư khí còn lại trong tam hợp, còn khi đã gặp hợp, lực của trung thần tăng lên do dung hợp mà không cần dẫn hoá.
Thế nào là thiên can dẫn hoá
Như dần ngọ tuất hợp hoá hoả, thì thiên can cần Bính, hoặc Đinh nhưng không bị hợp hoá mất (như bính tân hợp hoá thuỷ, đinh nhâm hợp hoá mộc là mất)
Hoặc ngũ hợp thành hoá khí, như thấy Mậu Quý hợp hoá hoả cục cũng có thể dẫn hoá.
Đại vận cũng có thể dẫn hoá
Tuy nhiên có khác biệt của đại vận dẫn hoá và thiên can nguyên cục dẫn hoá.
Lấy vd như sau (nhặt trên website lyso)
Nữ:
Đinh mão- ất tị- tân dậu- ất mùi
Tị dậu bán hợp thấu tân là hoá kim, dư khí đều bị tiêu biến. Có nghĩa là Canh Kim trong tị dung hợp vào Kim khí trong dậu, có thể luận là dậu kim tăng lực và Tị hoả tiêu biến.
Tân kim sinh tháng tị thuộc mùa hè, hoả viêm thổ táo, thân nhược lấy Dậu trợ khí kim làm dụng thần.
Bát tự này dậu kim xung mão là tỷ kiếp khắc đoạt tài tinh, là số có khả năng phát tài, dựa vào hợp tác.
Nguyên cục lấy Trụ giờ làm kỵ thần, con cái không được nhờ, tàng sát, thiên tài không có chế thì rất phiền não và tốn tiền của vì con.
Cung phu thê là dụng thần, nhưng bát tự không có quan tinh (bính hoả bị tiêu biến) chỉ có Sát, hơn nữa Sát lại là kỵ thần gặp tài sinh, đây là số bất quý, hợp mất quan giữ sát là thích yêu đương tình nhân hơn là phối ngẫu.
Số hành vận Mậu Thân, Kỷ Dậu đều là các vận dụng thần ắt sẽ thuận lợi mà phát tài.
Số này nhìn chung nói về tiền bạc là người có phúc, nhưng tổng quan với nữ là không hạnh phúc, không trọn vẹn. Cung tử tức quá xấu, thương phu hại tử, về già ôm tiền thì cũng có để làm gì.
Tứ trụ có 4 tam hợp
Thân tý thìn hợp hoá thuỷ
Dần ngọ tuất hợp hoá hoả
Tị dậu sửu hợp hoá kim
Hợi mão mùi hợp hoá mộc
Sách dự đoán theo tứ trụ cho rằng khi các điều kiện hợp hoá thoả mãn, thì tất cả các dư khí bị tiêu biến, chỉ còn hoá khí.
Tam hợp hoá khí là hình thức của Dung Hợp
Vd:
Dần Ngọ Tuất tam hợp hoá Hoả
Dần: Giáp Bính Mậu
Ngọ: Bính Đinh Kỷ
Tuất: mậu Tân Đinh
Hình thái của hợp hoá sẽ là, Bính trong Dần và Đinh trong Tuất sẽ dung hợp vào Bính Đinh trong Ngọ, tất cả các dư khí khác sẽ bị tiêu biến, Ngọ bản chất không bị biến đổi, chỉ Tăng Lực lên nhờ hiện tượng dung hợp.
Ngọ là dụng thần thì cát lợi may mắn, ngọ là kỵ thần thì suy bại hung nguy.
Tương tự với các Tam hợp hoá khí khác.
* Điều kiện của Tam hợp hoá khí
- như diễn giải dung hợp ở trên, trung thần là quan trọng nhất (nơi tụ khí của dung hợp địa chi).
- cần phải có thiên can dẫn hoá, có nơi nói Hợp cục không cần thiên can dẫn hoá, đó là do họ nhìn theo chiều hướng khác, việc thiên can dẫn hoá là để tiêu biến các dư khí còn lại trong tam hợp, còn khi đã gặp hợp, lực của trung thần tăng lên do dung hợp mà không cần dẫn hoá.
Thế nào là thiên can dẫn hoá
Như dần ngọ tuất hợp hoá hoả, thì thiên can cần Bính, hoặc Đinh nhưng không bị hợp hoá mất (như bính tân hợp hoá thuỷ, đinh nhâm hợp hoá mộc là mất)
Hoặc ngũ hợp thành hoá khí, như thấy Mậu Quý hợp hoá hoả cục cũng có thể dẫn hoá.
Đại vận cũng có thể dẫn hoá
Tuy nhiên có khác biệt của đại vận dẫn hoá và thiên can nguyên cục dẫn hoá.
Lấy vd như sau (nhặt trên website lyso)
Nữ:
Đinh mão- ất tị- tân dậu- ất mùi
Tị dậu bán hợp thấu tân là hoá kim, dư khí đều bị tiêu biến. Có nghĩa là Canh Kim trong tị dung hợp vào Kim khí trong dậu, có thể luận là dậu kim tăng lực và Tị hoả tiêu biến.
Tân kim sinh tháng tị thuộc mùa hè, hoả viêm thổ táo, thân nhược lấy Dậu trợ khí kim làm dụng thần.
Bát tự này dậu kim xung mão là tỷ kiếp khắc đoạt tài tinh, là số có khả năng phát tài, dựa vào hợp tác.
Nguyên cục lấy Trụ giờ làm kỵ thần, con cái không được nhờ, tàng sát, thiên tài không có chế thì rất phiền não và tốn tiền của vì con.
Cung phu thê là dụng thần, nhưng bát tự không có quan tinh (bính hoả bị tiêu biến) chỉ có Sát, hơn nữa Sát lại là kỵ thần gặp tài sinh, đây là số bất quý, hợp mất quan giữ sát là thích yêu đương tình nhân hơn là phối ngẫu.
Số hành vận Mậu Thân, Kỷ Dậu đều là các vận dụng thần ắt sẽ thuận lợi mà phát tài.
Số này nhìn chung nói về tiền bạc là người có phúc, nhưng tổng quan với nữ là không hạnh phúc, không trọn vẹn. Cung tử tức quá xấu, thương phu hại tử, về già ôm tiền thì cũng có để làm gì.