PDA

View Full Version : Nhân duyên phá vỡ không thể tan



lesoi
15-10-23, 09:27
Đây là bài viết của một Mệnh sư tên là Hoàng Giám.
Ông ta cũng là một Mệnh sư nỗi tiếng đương thời. Có một ngày, một người phụ nữ lớn tuổi điện thoại đến đến hỏi thăm, than van nói rằng: "cháu gái của bà ta không nghe lời, cùng một bạn trai yêu nhau, hiện đã sống chung với nhau một tháng, hỏi có biện pháp gì hay không?".
Lúc này Mệnh sư Hoàng Giám nói với bà ấy: "Hai người chúng nó là duyên phận trời sinh, có lực tương tác cực mạnh, hủy cũng không tan. Mệnh cục của chúng bổ túc cho nhau, sau khi kết hôn, cả hai đứa sẽ có cuộc sống rất tốt."
Mệnh cục của hai người này như sau:



Bát tự Nam (sinh ngày 4/8/1977 D.L)
Bát tự Nữ (sinh ngày 6/3/1982 D.L)


Đinh Tị (Năm)
Nhâm Tuất (Năm)


Đinh Mùi (Tháng)
Nhâm Dần (Tháng)


Quý Tị (Ngày)
Mậu Tý (Ngày)


Bính Thìn (Giờ)
Nhâm Tý (Giờ)


9 tuổi khởi đại vận: Bính Ngọ/ Ất Tị/ Giáp Thìn/ Quý Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý.
10 tuổi khởi đại vận: Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân/ Ất Mùi.



Ông ấy phê mệnh: Mệnh cục của cháu gái thuần dương, có đủ duyên với khác phái cực mạnh, từ nhỏ các bạn trai cùng học đều rất thích theo đuổi gần cô bé, thành tích học tập của nó luôn không tốt, rất kém. Đi học, làm chuyện gì đó cũng không nhớ, mất ba quên bốn, lại không giỏi ứng biến, nhưng chưa hề thiếu tiền tiêu xài (toàn bộ mệnh cục không có hỏa, khuyết Ấn tinh, chúng Tài quây quanh nhật chủ, ở ba bước đại vận trước lại là Thực Thương sinh Tài).

Mệnh này nhật chủ là Mậu thổ, thông căn ở chi năm Tuất thổ, Dần mộc Sát tinh đương lệnh, được chúng Tài tinh tương sinh mà cường, mà thiên can mệnh cục, đại vận đều không thấy Bính Đinh hỏa Ấn tinh, Dần Tuất không củng hợp, Tuất thổ căn bé, mệnh cục Tài nhiều thì bản thân cực nhược. Bởi vì nhật chủ kiến căn ở chi năm, thì không thể Tòng theo Tài Quan, vẫn thấy Mậu thổ luận mệnh. Trước năm 29 tuổi hành hai bước vận là Tân Sửu, Canh Tý, Mậu thổ bị tiết, cực kỳ rất muốn tìm kiếm người bang thân tương trợ. Hiện tại tìm được bạn trai này vừa đúng có thể phù hợp chỗ nhu trong mệnh.
Mệnh cục của nam thanh niên này có nhật chủ là Quý thủy, thất lệnh thất thế vô căn, Tài (hỏa) vượng Sát (thổ) cường, lấy Tòng Tài (hỏa) luận mệnh. Hai bước vận đầu là Bính Ngọ, Ất Tị, bang thân sinh thân, một đường đắc thế thuận ý, 19 tuổi vào vận Ất mộc, là Ấn tinh của Đinh hỏa, lại hóa tiết Quý thủy sinh Đinh hỏa, tất là dễ dàng thi đậu vào đại học. Mùi, Thìn thổ là Thực Thương của Đinh hỏa, người này hết sức nhạy bén thông minh, dáng người cao khỏe mạnh. Nó vừa thấy cháu gái của bà ta, bởi vì lực tương tác khí ngũ hành cả hai hỗ trợ cho nhau, thì quả thật là vừa thấy đã thương yêu nhau. Nam này có mệnh cục hỏa cường thủy nhược, còn nữ này thì thủy cường không có hỏa, hỗ tương cho nhau gọi là Thủy Hỏa tương tế. Nam mệnh hỏa cường trở thành Ấn tinh hỗ trợ cho nữ này, thúc đẩy địa chi mệnh cục Dần Tuất củng hỏa cục mà sinh cho nhật chủ Mậu thổ, cho nên có thể tiếp nhận Tài cường vượng ở trong mệnh cục bản thân, bản thân từ đây khi làm việc luôn có đầu óc, thể xác lẫn tinh thần sung túc thoải mái. Mà cháu giá này có mệnh cục thủy cường vượng có thể trợ giúp cho nam thanh niên này có Quý thủy cô nhược, khiến cho nó có cảm giác bản thân từ đây về sau có căn cơ vững chắc, có chỗ dựa mạnh mẽ, toàn thân có lực, thúc đẩy Quý thủy tự lập cường tráng mà không Tòng Tài, mà bản thân sẽ tận hưởng mệnh cục Tài vượng, tràn đầy lòng tin đối với sự nghiệp. Mệnh cục cả hai đứa sẽ cùng dựa vào nhau cùng hỗ trợ cho nhau. Trọng yếu hơn là cả hai mệnh cục này có một loại lực tương tác do trời sinh, mệnh cục nam có thiên can ngày tháng năm là Đinh, Đinh, Quý, còn nữ mệnh có thiên can ngày tháng năm là Nhâm, Nhâm, Mậu, đối ứng với nhau cấu thành hợp cục, Đinh Nhâm hợp hóa mộc (nữ mệnh có chi tháng là Dần mộc là căn mộc cho nên có thể hóa mộc), Mậu Quý hợp hóa hỏa (mệnh cục nam mệnh có 2 Tị hỏa là căn hỏa cho nên có thể hóa hỏa), chi giờ của hai người có Tý Thìn bán hợp hóa thủy, can giờ là Thủy Hỏa tương tế. Sau khi hợp hóa mộc hỏa đối với từng chữ trong ngũ hành mệnh cục đều có tác dụng xúc tiến lưu thông. Loại kết hợp gắn chặt này khó mà bị ảnh hưởng bởi người bên ngoài hoặc là cho dù có bị phá hư cũng không thể nào phá hủy được.

==> Ông ấy kết luận như tựa đề. Các bạn nghĩ xem như thế nào?

Duleminh
23-10-23, 10:18
Thưa chú Lesoi,

Sau khi đọc luận giải, cháu thấy ấn tượng với cách sử dụng ngôn từ để truyền đạt với khách hàng của mệnh sư Hoàng Giám. Đồng thời, cháu cũng có vài điểm suy nghĩ như sau ạ:

1. Khôn tạo: Nhâm Tuất - Nhâm Dần - Mậu Tý - Nhâm Tý. (Ngọ, Mùi KV)
Đại vận: Tân Sửu (10) - Canh Tý (20) - Kỷ Hợi (30) - Mậu Tuất (40) - Đinh Dậu (50) - Bính Thân (60) - Ất Mùi (70) - Canh Ngọ (80).
a. Mệnh cục thuần dương?
- Điều này đúng với âm dương của can chi. Ở cấp bậc cao hơn âm dương của ngũ hành thì mệnh cục này âm rất thịnh dương suy.
b. Nhật chủ thân nhược, Tài vượng, Sát vượng.
- Nữ mệnh nên Bính - Kiêu là mẹ, thủy là Quan Sát - là chồng của Bính, thiên can thấu 3 Nhâm, địa chi thấy 2 Quý (bản khí của Tý). Đây là một trong những lí do người điện cho ông Hoàng Giám để hỏi về lá số của nữ mệnh là người dì, không phải là người mẹ.
- Tuất là bản thể của nhật chủ Mậu, trong Tuất tàng Tân, Đinh, Mậu. Thuở nhỏ xem trụ năm Nhâm Tuất, mệnh cục Tài quá lạm, Tân kim - thương quan suy nhược là tư duy yếu kém, sai lầm, Thương quan lại thích đi sinh Tài phá Ấn. Nhâm hợp mất Đinh. Vậy là lúc nhỏ không thích học, thích ăn chơi hưởng thụ, năng lực bản thân không có, Tài là của Sát. Ông Hoàng Giám phê:

từ nhỏ các bạn trai cùng học đều rất thích theo đuổi gần cô bé, thành tích học tập của nó luôn không tốt, rất kém. Đi học, làm chuyện gì đó cũng không nhớ, mất ba quên bốn, lại không giỏi ứng biến, nhưng chưa hề thiếu tiền tiêu xài (toàn bộ mệnh cục không có hỏa, khuyết Ấn tinh, chúng Tài quây quanh nhật chủ, ở ba bước đại vận trước lại là Thực Thương sinh Tài).
- Nữ mệnh lấy Quan Sát làm chồng, trong mệnh cục chỉ có duy nhất 1 Sát là thanh cục là tốt. Nhưng thân nhược Sát là Kỵ, lại có Tý thủy đóng phu cung cũng là Kỵ, đây là dấu hiệu của hôn nhân không thuận. Bệnh ở đây là do Tài quá lạm, thiên can thấu 3 Nhâm, địa chi thấy 2 Tý, dù nam hay nữ thì Tài quá vượng đều thể hiện là người có dục vong rất cao. Thủy tài có thể sinh Sát Mộc, nhưng Thủy quá nhiều thì Mộc trôi. Ông Hoàng Giám phê:

Mệnh này nhật chủ là Mậu thổ, thông căn ở chi năm Tuất thổ, Dần mộc Sát tinh đương lệnh, được chúng Tài tinh tương sinh mà cường, mà thiên can mệnh cục, đại vận đều không thấy Bính Đinh hỏa Ấn tinh, Dần Tuất không củng hợp, Tuất thổ căn bé, mệnh cục Tài nhiều thì bản thân cực nhược. Bởi vì nhật chủ kiến căn ở chi năm, thì không thể Tòng theo Tài Quan, vẫn thấy Mậu thổ luận mệnh. Trước năm 29 tuổi hành hai bước vận là Tân Sửu, Canh Tý, Mậu thổ bị tiết, cực kỳ rất muốn tìm kiếm người bang thân tương trợ. Hiện tại tìm được bạn trai này vừa đúng có thể phù hợp chỗ nhu trong mệnh.

Ông Hoàng Giám nói tìm được người bạn trai này vừa đúng có thể phù hợp chỗ nhu (âm quá nhiều) trong mệnh. Vậy xét lá số người nam để thấy phù hợp ông ta nói là gì?
2. Càn tạo: Đinh Tị - Đinh Mùi - Quý Tị - Bính Thìn. (Ngọ, Mùi KV)
Đại vận: Bính Ngọ (9) - Ất Tị (19) - Giáp Thìn (29) - Quý Mão (39) - Nhâm Dần (49) - Tân Sửu (59) - Canh Tý (69).
a. Nhật chủ Quý có căn gốc tại Thìn. Bốn địa chi không có tương tác với nhau nên Mùi là chân không, căn của Quý trong Thìn không bị mất đi. Nhưng mệnh cục Hỏa quá vượng thấu Đinh, Bính tại thiên can năm, tháng, giờ. Hỏa/thổ đồng cung, Quý tự hợp Mậu trong Tị nên xem giả tòng Tài Quan.
b. Ông Hoàng Giám phê:

Mệnh cục của nam thanh niên này có nhật chủ là Quý thủy, thất lệnh thất thế vô căn, Tài (hỏa) vượng Sát (thổ) cường, lấy Tòng Tài (hỏa) luận mệnh. Hai bước vận đầu là Bính Ngọ, Ất Tị, bang thân sinh thân, một đường đắc thế thuận ý, 19 tuổi vào vận Ất mộc, là Ấn tinh của Đinh hỏa, lại hóa tiết Quý thủy sinh Đinh hỏa, tất là dễ dàng thi đậu vào đại học. Mùi, Thìn thổ là Thực Thương của Đinh hỏa, người này hết sức nhạy bén thông minh, dáng người cao khỏe mạnh.
Nếu nam mệnh này tốt vậy thì tại sao người dì lại phải than van, khuyên ngăn lo cho cháu gái của mình?
- Nam mệnh lấy chính Tài làm vợ, Thiên tài làm người tình. Mệnh cục thiên can thấu 2 Đinh, 1 Bính, địa chi thấy 2 Tị chứa Bính bản khí, 1 Đinh trong Mùi. Tài tinh quá nhiều là có dục vọng rất cao, lại hỗn trọc là quen biết nhiều. Sát gặp KV là việc làm lúc có lúc không, mà thường là không. Chắc hẳn đây là lí do khiến người dì gọi điện cho ông Hoàng Giám để than van và hỏi có biện pháp gì hay không? Ông Hoàng Giám phê:

Trọng yếu hơn là cả hai mệnh cục này có một loại lực tương tác do trời sinh, mệnh cục nam có thiên can ngày tháng năm là Đinh, Đinh, Quý, còn nữ mệnh có thiên can ngày tháng năm là Nhâm, Nhâm, Mậu, đối ứng với nhau cấu thành hợp cục, Đinh Nhâm hợp hóa mộc (nữ mệnh có chi tháng là Dần mộc là căn mộc cho nên có thể hóa mộc), Mậu Quý hợp hóa hỏa (mệnh cục nam mệnh có 2 Tị hỏa là căn hỏa cho nên có thể hóa hỏa), chi giờ của hai người có Tý Thìn bán hợp hóa thủy, can giờ là Thủy Hỏa tương tế. Sau khi hợp hóa mộc hỏa đối với từng chữ trong ngũ hành mệnh cục đều có tác dụng xúc tiến lưu thông. Loại kết hợp gắn chặt này khó mà bị ảnh hưởng bởi người bên ngoài hoặc là cho dù có bị phá hư cũng không thể nào phá hủy được.
Lí do nhân duyên phá vỡ không thể tan ở đây là họ có điểm chung về dục vọng. Còn chung thủy, hạnh phúc hay không lại là vấn đề khác.
Cháu xin hết ạ.

lesoi
25-10-23, 10:56
@Duleminh (http://tubinhdieudung.net/member.php?2405-Duleminh): Tư duy về mệnh lý của bạn rất tốt. Từ bài viết của một Mệnh sư, bạn lại phác thảo thêm tư duy riêng cho mình, cho thấy chỉ số IQ của bạn thật tốt. Còn nhiều bài viết khác của Mệnh sư này, rảnh rỗi tôi sẽ đưa lên cho các bạn bình xét hầu rút ra kinh nghiệm riêng cho mình khi luận mệnh.

Duleminh
06-11-23, 08:19
Thưa chú Lesoi,

Được chú động viên, cháu rất vui ạ.
Cháu sẽ cố gắng hơn.
Cháu cảm ơn chú ạ.

kimcuong
27-03-24, 13:26
Xem lại bài này, có những điểm cần thấy:

- Về tòng cách: Mệnh nữ và mệnh nam, hai người đều có Tài khí vượng, Ấn tinh và Tỉ Kiếp kém. Nhưng mệnh nam rõ là mệnh tòng Tài, vì Quí không thông căn bản khí ở trụ nào, còn nữ có Mậu nhật chủ thông căn ở Tuất.

Nguyên tắc cơ bản: hoàn toàn Ấn, Tỉ Kiếp lực mỏng mới xét Tòng.

Vì thế, mệnh nam tòng Tài Hỏa, hỉ thần là Ất sinh trợ.
Mệnh nữ không thể tòng, luận thân nhược, nên dụng Đinh hoả Ấn tinh là chính.

- Mệnh nữ cho là không thông minh nhạy bén bằng mệnh nam:
Giữa Ấn tinh và Thực thần, sự nhanh nhẹn về trí óc luôn nằm ở Thực thần; Ấn tinh chỉ hỗ trợ trực tiếp cho Tỉ Kiếp. Thông qua cả Ấn Tỉ đều vượng cùng vận hạn tương ứng thì khả năng thành tựu nhiều.

Thực thần và Thương Quan là hỉ hay dụng thì trực giác rất cao và xử trí nhanh nhạy.
Ấn tinh thực sự không cần quá vượng, miễn là không bị xung khắc hình hại thái quá, mệnh chủ vẫn có thể đạt danh vọng hay mong muốn như ý.

sherly
05-04-24, 02:01
Khôn tạo: Nhâm Tuất - Nhâm Dần - Mậu Tý - Nhâm Tý
Càn tạo: Đinh Tị - Đinh Mùi - Quý Tị - Bính Thìn
2 người này dính nhau như sam, có khả năng vợ chồng cao là vì nữ nhật chủ là Mậu, nam nhật chủ là Quý, là thiên can hợp uyên ương.
Tuy nhiên đó là duyên số, thực ra 2 người này nếu kết hợp hôn nhân sẽ tạo ra áp lực cho cả hai.
Có câu, nam dương nữ âm, với trường hợp này thì là nam âm nữ dương.
Mậu thổ lấy hành mộc làm chồng, mộc với quý thuỷ là thực thương, tức muốn kết hợp với nhau thì người vợ gò ép chồng thể hiện tính trẻ con (thuỷ sinh mộc), cái mà không phải bản thân anh ta mà là thực thương của anh ta.
Quý thuỷ lấy hành hoả làm vợ, hoả lại là ấn của mậu thổ, có nghĩa người chồng sẽ gò ép người vợ thành phụ mẫu của chính mình, điều cũng không phải bản thân cô ấy.
Chung quy lại là, mối quan hệ của hai người này là giả tạo, như Mẹ chăm Con, nhưng cả hai đều đeo mặt nạ trong hôn nhân. Người chồng được vợ chăm đối với người ngoài có vẻ tốt, nhưng cuộc sống hôn nhân sẽ vô cùng ngột ngạt.

Lẽ thường cuộc đời chẳng mấy ai được sống với cái tôi thật sự trong hôn nhân cả, dụng thần nằm chi ngày đi nữa cũng vẫn có thể có sự lệch pha, nó có thể nói lên sự giúp đỡ, quý nhân nằm ở nơi phối ngẫu, nhưng nó có thể không nói lên sự hạnh phúc.

Hôn nhân cứ nam dương ngũ hợp nữ âm nhật chủ thì mỗi người sẽ sống thoải mái với cái tôi của mình, hay đúng vị trí của mình.

Câu chuyện của người trong cuộc là thế, góc nhìn của mệnh lý tứ trụ hành nghề thì cứ chi ngày là hỷ dụng thần thì ắt sẽ có hôn nhân tốt (được nhờ).
Tuy nhiên nói gì thì nói 2 số này cũng chẳng nhờ được gì nhau đâu, mậu thổ nhược mà toạ tài thì tài này trở mặt, thay vì quý nhân giúp đỡ tiền bạc thì anh này gây áp lực tài chính cho cô này.
Nam mệnh quý thuỷ nhược toạ đất tài quan, thì thay vì nhờ nơi vợ phát tài quan thì cô này gây áp lực cả về tiền bạc lẫn công việc lên anh này.
Ông thầy trên nói tốt như vậy, theo tôi chỉ đúng ở cái khoản khó dứt khỏi nhau, chứ còn trợ tài phát quan ở cái lá số này e còn dài.
Nói chung là nên tách bạch ra, dính nhau kiểu ngũ hợp này khó bỏ, nhưng ngay cả nam dương nữ âm đi nữa thì cái tôi rất cao, nếu chi ngày không tốt (kị thần) thì mắng chửi nhau suốt ngày mà không bỏ được nhau đâu.