PDA

View Full Version : Định đại vận, lưu niên cát hung



Freezing
20-11-23, 21:28
Định đại vận, lưu niên cát hung là vấn đề gây khó khăn cho người học mệnh. Quan điểm phổ biến nhất là khi đến đại vận, lưu niên gặp dụng thần thì cát, kị thần thì hung. Có người thì lựa chọn dụng, kị theo vượng suy thông thường ( vượng thì dụng Tài, Quan, Thực; suy thì dụng Ấn, Tỉ ). Sau khi nghiên cứu một thời gian cháu nhận thấy các sách còn sử dụng thêm phép xem khí số trong Cùng thông bảo giám để định dụng, kị thần. Vậy cách nào hiệu quả hơn hay ta cần kết hợp cả hai, liệu còn cách nào khác để xem đại vận, lưu niên cát hung hay không ? Mong mọi người cho cháu ý kiến.

VD1:
( Trích Dự đoán theo tứ trụ của Thiệu Vĩ Hoa )
Nam mệnh: 4 tuổi vào vận
Thực Thực Sát
Nhâm Nhâm Canh Bính
Thìn Dần Tý Tuất

Đại vận:
Quý Giáp Ất Bính Đinh
Mão Thìn Tị Ngọ Mùi
Phân tích mệnh cục và chọn dụng thần

1- Canh kim sinh tháng giêng là rơi vào tuyệt địa, nên thực thần, thất sát của Tứ trụ bị xì hơi quá nặng, do đó thân yếu. Có thể lấy ấn làm dụng thần, lấy thổ làm dụng thần cũng có lợi. Nhưng tháng giêng hàn khí chưa hết, mong gặp hoa để sưởi ấm canh kim, nên cuối cùng chọn hoả là dụng thần, kị thần là thuỷ. Tứ trụ này thuỷ lạnh kim hàn cần có hoả tốt. Sau năm 1986 hành đại vận bính ngọ, sau 34 tuổi là tài vận sự nghiệp khá thuận lợi, nhưng tốt nhất là tài vận mậu thân từ 54 tuổi trở đi. Cuối đời tiền tài rất phát đạt.

2- Người này thân nhược tài vượng, tài lâm nguyệt kiến, tức là người có của nhưng không phải loại giàu to. Nam không nên thân nhược, thân nhược sẽ không chịu được thịnh tài vì nhiều của sẽ chuốc lấy tai vạ. Người này đại vận bính ngọ tương đối khá, đặc biệt sau năm 1988 tài vận rất tốt. Các năm 1994, 1995 cầu tài bất lợi tuy hai năm đó vẫn là năm tài vận nhưng khó gặp may.

3- Người này thất sát ở ngôi trường sinh, sau năm 34 tuổi lại gặp vận thất sát, thất sát tương đối vượng, nhưng thực thần chế sát mạnh quá cho nên trên quan trường không thuận lợi, gặp tiểu nhân nhiều, cầu quan không lợi. Sau năm 34 tuổi sẽ có chức vụ nhất định vì có khả năng về lãnh đạo.

Freezing
20-11-23, 21:29
VD2:
( Trích Mệnh lý côi bảo của Đoàn Kiến Nghiệp )
Càn tạo:
Ấn Tỉ Sát
Ất Bính Bính Nhâm
Mùi Tuất Dần Thìn

8 tuổi khởi đại vận:
Ất Dậu, Giáp Thân, Quý Mùi, Nhâm Ngọ, Tân Tị.

Bằng hữu giới thiệu nói, hắn là một vị Cục trưởng ở một địa phương, nhìn từ trong mệnh người này cũng là mệnh làm quan. Trước tiên tôi đi từ tính cách mà nói: "Ngươi làm việc quang minh lỗi lạc, làm người đường đường chính chính, lại đều có tinh thần phát triển, có năng lực sáng ý và cải cách, không phải là kẻ tầm thường." Nhưng thứ từ ngữ đẹp này hoàn toàn là phù hợp mệnh chủ thực tế, tạo này thuộc về cách cục Thương quan bội Ấn, dụng thần là Dần mộc và Nhâm thủy. Nhật chủ Bính hỏa giống như thái dương, cho nên thích quang minh lỗi lạc, trụ giờ Thất Sát là dụng thần, là có rèn luyện qua thực tế, năng lực khai thác mạnh mẽ, tọa chi Thiên Ấn là dụng, Thiên Ấn là thông minh, cần mẫn, không tuân theo quy tắc và có đủ tính sáng tạo.
Hắn trả lời là nói chính xác, tôi bắt đầu suy đoán vận làm quan quá khứ của hắn: "Bạn từ năm 1986, 1987 bắt đầu khởi chuyển tốt, năm 1988 đến 1991 bình thường, tuy có nỗ lực công tác nhưng không thấy thành quả, lãnh đạo cũng không khen thưởng. Năm 1992 thăng quan, đây là bước thứ nhất; Năm 1995 lại thăng, năm 1998 phải chuẩn bị đề thăng, nhưng tôi phân tích e rằng khó thành, nỗ lực cũng vậy. Bát tự của ngươi tốt, đến đại vận lại không tốt, mỗi một lần thăng chức đều rất gian nan. Hơn nữa theo năng lực của ngươi mà nói không phải là chức vụ hiện tại."
Hắn trả lời nói là hoàn toàn chính xác, năm 1986 đi vào một đơn vị tốt, năm 1992 thăng lên cấp phòng, năm 1995 thăng cấp phó phòng, năm 1998 chuyện thăng lên đã thông qua Phòng Tổ chức cùng Thường ủy Hội, mắt nhìn tưởng đã thành, nhưng nguyên là trên vị trí này mọi người sợ an bài không được lý tưởng mà không muốn đi, một mực cho đến hiện tại.
Tôi suy đoán là căn cứ: Bát tự dụng mộc, hành vận Quý Mùi, Mùi Tuất hình, khai mở mộ Mùi, luận cát. Năm 1986 Bính Dần, dụng thần Dần mộc phục ngâm, luận cát; Năm 1987 Đinh Nhâm hợp khử Thất Sát, Mão Mùi có ý củng hợp cũng cát. Nhưng vận Mùi bản khí tất lại là thổ, làm mờ hỏa là kỵ, cho nên ở lưu niên hỏa thổ tiết mộc mờ hỏa lại khắc thủy, không luận cát. Năm Nhâm Thân vào đại vận Nhâm Ngọ, Nhâm thủy dụng thần được Thân sinh mà vượng thấu, Thân xung Dần là phát động, cho nên suy đoán là điều thăng. Nhất thiết không thể đem Thân xung Dần xem là phá. Bởi vì bản thân Dần mộc ở trong bát tự không có xung khắc, đại vận cũng không xung khắc, Thái tuế đến xung là động, huống chi Thân kim cũng không phải là kim cường vượng, sẽ không có xung phá Dần mộc. Năm 1995 Dần Hợi hợp, hỉ thần Hợi thủy hợp Thân, Dần mộc được sinh là cát, nhất thiết không thể đem Dần Hợi hợp xem là hợp trói, bởi vì Dần Hợi hợp là sinh hợp, lại bởi vì chỗ Dần ở Chủ vị, là hỉ thần hợp ta. Năm Mậu Dần là dụng thần Dần mộc phục ngâm, là có chuyện tốt, nhưng thấu kỵ thần Mậu thổ khắc Sát, là càng phá Dần Ngọ Tuất hợp hỏa cục, dụng thần Dần mộc bị tiết, Dần mộc biến chất, không trợ nhật chủ, cho nên chuyện tốt không đến. Còn lúc ở năm Bính Dần, vì không ở vận Ngọ, cho nên chuyện tốt có thể thành.
Cuối cùng tôi suy đoán năm Canh Thìn (năm 2000) thăng chức là rất có khả năng, hắn phải nắm chặt hoạt động, tháng Hợi Tý có thể thành. Lại đoán hắn sau này sẽ không còn thăng quan nữa, năm nay là một lần cơ hội cuối cùng. Hăn nói năm nay người chiếm vị trí của hắn phải thoái lui (về sau không có trả lời).
Bát tự này lại không có tật bệnh tai họa khác, luận đến đây cũng nên kết thúc, bạn của tôi thấy tôi đoán rất thuận tay, liền đề nghị nhìn thêm một chút lúc nào hắn kết hôn. Tôi xem vận Thân Thê tinh xung nhập Thê cung, liền nói năm 1977 Đinh Tị hắn đính hôn, năm 1980 Canh Thân kết hôn, hết sức chuẩn xác.

Freezing
20-11-23, 21:31
Ở VD1 cụ Thiệu cho rằng dụng thần là Bính và ở VD2 ông Đoàn cho rằng dụng mộc và Nhâm.

sherly
20-11-23, 22:16
Chào bạn, ở ví dụ thứ nhất của ông Thiệu Vỹ Hoa
Càn tạo:
Nhâm thìn- nhâm dần- canh tý- bính tuất
Số này canh kim sinh tháng dần, rõ ràng là nhược rồi, thiên can lại gặp khắc, tiết giao gia, hành vận cần thổ thấu can, và căn khí kim để bổ sung khí chất của nhật can mới tốt.
Tuy nhiên, có một điểm, thân nhược cho nên Tý thuỷ là Kị Thần, hành vận Bính Ngọ, đinh mùi vận, thì tuy rằng hoả khí bính đinh vẫn là kị thần, nhưng chi ngọ, mùi của đại vận lại xung khắc kị thần tý thuỷ, tứ trụ gọi là có bệnh được dược.
Ngọ mùi xung khắc tý thuỷ, thực chất là Thổ trong ngọ mùi khắc thuỷ, danh xưng là ấn tinh chế thương, hay thương quan đới ấn là vận sẽ có thuận lợi về địa vị, hoặc bằng cấp.
Nhưng Hoả vẫn là kị thần, điều này sẽ thể hiện việc 2 vận dễ gặp tai nạn hoặc công việc không thuận lợi điều này thể hiện việc luận định của ông ấy là “gặp tiểu nhân nhiều, cầu quan không thuận”.
Số này theo nhận định chủ quan của tôi thì tiền tài chẳng có gì đặc biệt, thậm chí là hơi nghèo.
Mãi phải đến vận Mậu Thân, Ấn tinh thấu can, địa chi trợ thân thì mới bớt nhiều sự áp lực của Sát tinh, nhưng vẫn lao tâm suy nghĩ nhiều do Thực thần Nhâm thuỷ đắc tam hợp cục triều nguyên thân tý thìn, tức thuận lợi trong công việc, có sự thăng tiến nhưng lao lực nhiều.
Còn cái vd trong mệnh lý côi bảo thì tôi không nhận xét, vì manh phái đoàn gia đã quá mất uy tín trong giới tử bình trung quốc rồi bạn ạ, trong sách rất nhiều ví dụ bịa.

tuongduy
21-11-23, 13:57
vượng thì dụng Tài, Quan, Thực; suy thì dụng Ấn, TỉĐây là phép căn bản thôi, cho ta 1 suy tư đầu tiên. Cũng nên hiểu là do đâu mà vượng hay suy. Sau đó là xem khí thế của ngũ hành cùng sinh khắc hình của can chi.

Ông ĐKN luận gì cũng "hết sức chuẩn xác" thì hẳn nhiên là hơi quá đáng, vì căn bản là cùng 1 lá số có ai giống ai? Tại sao có những thí dụ chuẩn xác như vậy thì dĩ nhiên là ông ta biết rồi và viết ra thành câu truyện thí dụ. Chúng ta cũng có thể học cái sai ở những thí dụ để biết cái đúng. Tôi thì không loại trừ thí dụ nào hết.

Thí dụ của ĐKN xem khí thế ngũ hành thì rõ ràng nhất, đó là mộc hỏa thổ cường vượng, kim không thấu, chỉ có Nhâm lộ chống chọi với Ất, Bính và địa chi mộc thổ. Cũng khá vất vả là đúng, nhưng nhận định mệnh làm quan chức thì chuẩn rồi. Tôi thì cho rằng thủy được khố Thìn là tốt, giúp mệnh chủ làm được công việc như 1 trọng trách của thân vượng.

Freezing
21-11-23, 18:32
Thưa cô sherly và bác tuongduy, trong trường hợp đại vận, lưu niên và bát tự phát sinh hình xung hợp hại thì chúng ta nên xem như thế nào ạ ? Cụ Thiệu có những nhận định như sau :

1- Đại vận hoặc lưu niên hình, xung, khắc, hợp làm mất kị thần trong mệnh cục là chuyển xấu thành tốt.

2- Đại vận hoặc lưu niên hình, xung, khắc, hợp làm mất hỉ thần, dụng thần trong mệnh cục là chuyển tốt thành xấu.

3- Đại vận hoặc lưu niên là hỉ thần hay dụng thần, nhưng bị một chữ nào đó trong mệnh cục xung khắc hay hợp chặt hỉ thần, dụng thần của đại vận, lưu niên thì tốt nhưng không thực, cho nên trở thành bình thường.

4- Đại vận hoặc lưu niên là kị thần nhưng có một chữ nào đó xung, khắc mất hoặc hợp chặt kị thần ấy thì xấu vừa, tức là trở thành bình thường.

5- Đại vận hoặc lưu niên hợp hóa thành công với mệnh cục thì lấy hóa thần đó để bàn cát hay hung. Hóa thành hỉ thần, dụng thần là tốt, hóa thành kị thần là hung.

6- Đại vận hay lưu niên hình phạt mệnh cục (cho dù là hình phạt mất hỉ thần hay kị thần) đều chủ về hung.

7- Địa chi của đại vận và lưu niên phát sinh thiên khắc địa xung với nhau hoặc can chi của đại vận và mệnh cục phát sinh thiên khắc địa xung với nhau, hoặc lưu niên và mệnh cục xung khắc nhau thì đều chủ về hung (nếu là khắc nhập hay xung nhập vào vận hạn đó thì càng nặng thêm).

8- Đại vận và lưu niên phát sinh thiên tỉ (tức ngang hòa nhau) địa xung hoặc thiên khắc địa tỉ, hoặc thiên tỉ địa hình (hình phạt) thì đều chủ về hung (nếu xung vào vận hạn đó thì càng nặng).

Freezing
21-11-23, 18:34
9- Đại vận, lưu niên, mệnh cục hình thành một địa chỉ xung ba chi,hoặc một can khắc ba can; một chi hình phạt ba chi, hoặc ba chi hình phạt một chi thì e rằng có tai nạn bất ngờ nguy hiểm đến tính mạng (phải hết sức chú ý). Có một chi xung hai chi, một can khắc hai can, một chỉ hình phạt hai chi hoặc hai chi hình phạt một chi, tuy có tai họa nhưng tương đối nhẹ hơn.

10- Trong đại vận, lưu niên, mệnh cục có bốn chi hợp với một chi, bốn can hợp với một can, một chỉ hợp với bốn chi hoặc một can hợp với bốn can thì chủ về tình cảm có sóng gió, bệnh tật hoặc thất bại tài sản và tình trạng đó kéo dài.

11- Trong mệnh cục lấy thương quan làm dụng thần thì đại vận, lưu niên kị nhất là thương quan. Phạm phải điều đó có thể tan nát nhân duyên, cãi nhau, kiện tụng hoặc phá sản.

12- Mệnh cục, đại vận, lưu niên có sáu địa chỉ hợp thành hai cục khác nhau hoặc tam hợp cục tương khắc nhau thì chủ về đại hoạ đến nơi, cái chết khó tránh.

13- Đại vận, lưu niên lấy hai chi xung một chi, xung nhập cung thê (vợ) là chủ về vợ có tai hoạ, xung nhập cung phụ mẫu là chủ về phụ mẫu có tai nạn, xung nhập cung con cái là chủ về con cái gặp tai nạn.

14- Nếu trong đại vận, lưu niên, mệnh cục xuất hiện tam hình (ba hình phạt thì bất cứ hai hình nào nhập vào chính ấn của mệnh cục là có nguy cơ mẹ mất, nhập vào thiên tài của mệnh cục là có nguy cơ cha mất, nhập vào chính tài là có nguy cơ vợ mất, nhập vào thực thương là có điềm con mất.

15- Trong đại vận, lưu niên hoặc mệnh cục xuất hiện hai nhóm hình phạt lẫn nhau hoặc tuần hoàn tam hình (hình phạt) khi hình nhập vào vận hạn đó lại không có cái cứu giải (tức là không có thiên đức và nguyệt đức hoặc bị những cái khác hợp chặt) thì bản thân có tai vạ, nếu không may lại còn gặp xung nữa thì tai vạ càng nặng, có thể chết cũng nên. Nếu hình phạt không nhập vào vận hạn đó mà nhập vào chi năm (đồng thời không có gì cứu trợ) thì ông bà có tai vạ, hình nhập vào chi tháng
(mà không có cứu trợ) thì cha mẹ có tai vạ, hình nhập vào chi ngày (mà không có cứu trợ) thì con cái hoặc vợ có tai vạ.

16- Can ngày khắc thiên can của lưu niên (tức là phạm tuế quân) thì xấu, nếu có cứu (can khác khắc hợp làm xì hơi can ngày hoặc có quý nhân thiên đức) thì ngăn trở người đó tiến (tức không gặp của).

17- Trong đại vận, lưu niên và mệnh cục xuất hiện bốn chữ: tí, ngọ, mão, dậu thì tốt.

Duleminh
21-11-23, 20:20
Chào bạn Freezing,

Tôi xin nêu ra ví dụ thế này.
- Đau bụng thì siêu âm ổ bụng, không chụp X-Quang ổ bụng, hay điện tim đồ bụng...
- Kháng sinh chữa đau răng không phải loại kháng sinh chữa đau mắt đỏ, tiêu chảy...

Tương tự như vậy với luận mệnh:
- Có lá số dùng Vượng Suy luận rất chuẩn, dùng Cùng thông không luận ra sự việc.
- Có lá số dùng Cách Cục luận rất nhanh, dùng Vượng Suy lại trượt.
- Có lá số chỉ với 1 khẩu quyết Manh phái định ngay điểm mấu chốt. Cách cục không biết xếp vào cách nào, vượng suy còn đang tranh luận là vượng hay suy?

Vậy nên, không có phương pháp nào là Vạn Năng cả. Bạn không thể chỉ dùng mỗi X-Quang mà khám bách bệnh. Bệnh gì cũng cho đi chụp X-Quang, như vậy chẳng phải sẽ là hên xui lúc khám được lúc không? Vì thế mà tại Thư Viện có dòng chữ nhắc nhở: "Tẫn tín thư bất như vô thư. Đọc sách mà không gạn lọc, chẳng thà không đọc."

Về quan hệ giữa Mệnh cục - Đại vận - Lưu niên, bạn tham khảo đường link: http://tubinhdieudung.net/showthread.php?416-Quan-h%E1%BB%87-Tu%E1%BA%BF-V%E1%BA%ADn-M%E1%BB%87nh-c%E1%BB%A5c.

Tôi cũng là được chị ChiLinh chia sẻ link này.
Chúc bạn sớm sáng tỏ!

Freezing
21-11-23, 20:24
Chào bác Duleminh, cảm ơn bác đã chia sẻ ý kiến. Về phần đường link có vấn đề nên cháu không vào được ạ.

Duleminh
21-11-23, 20:26
Bạn Freezing thử lại xem sao
Tôi vừa copy lại. Tôi không thạo sử dụng công cụ trong page lắm.
Bạn thông cảm.

Freezing
21-11-23, 20:27
Cảm ơn bác, cháu đã vào được rồi.