View Full Version : Quan Sát hỗn tạp cách
Thấy các bạn nhập môn chưa rõ về cách Quan Sát hỗn tạp, ở phần chương bổ sung của Thiên lý mệnh cảo ( T/g Vi Thiên Lý ) cũng nêu khá rõ nét nhưng ít có ví dụ minh chứng. Tôi nghiên cứu ở Tích Thiên Tủy do Nhâm Thiết Tiều bình chú thấy cũng rất rõ quan điểm này, nay post lên để các bạn nghiên cứu thêm để luận mệnh.
Chương 21, phần I Thông Thần luận có chương Quan Sát như sau:
"Quan sát hỗn tạp lai vấn ngã, hữu khả hữu bất khả".
Nguyên chú: Sát tức là Quan, đồng loại cùng chung môn phái nhưng hỗn tạp vậy; Quan không phải là Sát, đều cùng trong một gia đình không thể hỗn tạp vậy. Sát trọng, Quan tòng theo, không phải là hỗn tạp vậy; Quan khinh, Sát trợ giúp, không phải hỗn tạp vậy. Bại tài cùng Tỉ kiên cả hai đều tới, Sát có thể khiến cho Quan hỗn tạp vậy; Tỉ kiên cùng Kiếp tài đều gặp, Quan có thể khiến cho Sát hỗn tạp vậy. Một Quan mà không có sinh Ấn, Sát trợ giúp, thì không phải là hỗn tạp vậy; Một Sát mà gặp Thực Thương, có Quan trợ giúp, cũng không phải là hỗn tạp. Thế lực ở Quan, Quan có căn, Sát có tình dựa vào ở Quan, Sát dựa vào Quan, Tuế trợ giúp mà hỗn Quan, là không thể vậy. Thế lực ở Sát, Sát có quyền, thế lực của Quan dựa vào Sát, Quan dựa vào Sát, Tuế phù trợ mà hỗn Sát, không thể như vậy. Tàng Quan lộ Sát, can trợ Sát, hợp Quan lưu Sát, đều là thành sát khí, vật khiến cho Quan hỗn tạp vậy; tàng Sát lộ Quan, can trợ giúp Quan, hợp Sát lưu Quan, đều là tòng theo tượng Quan, không thể mệnh Sát hỗn tạp vậy.
Nhâm thị viết: Sát tức là Quan vậy, thân vượng thì lấy Sát làm Quan; Quan tức là Sát vậy; thân nhược thì lấy Quan làm Sát, Nhật chủ quá cường, dù không có chế, không làm Sát bị khó khăn; Chính Quan lẫn tạp, nhưng không có căn cũng thuận theo Sát mà hành. Khứ Quan hết mức cả 2 đầu, dụng Thực dụng Thương đều có thể được; hợp Sát cuối cùng là đắc ý, đến hợp hay hợp khứ cần phải thanh. Độc Sát thừa quyền, không có chế phục, vị trí chức vụ cần quang minh chính đại; nhiều Sát có chế, chủ thông căn, thân chấp chưởng quyền hành. Sát sinh Ấn sinh thân, bước cao lên thềm vua chúa; thân đảm nhiệm Tài mà Tài sinh Sát, tháp cao đề danh. Nếu Sát trọng mà thân khinh, không bần cũng chết yểu; nếu như Sát ít mà bị chế quá, tuy học không thành, cuối cùng ở tứ trụ cần phải làm hạ thấp xuống, lại vừa nói Năm gặp vật chế; lấy một vị trí đạt được làm quyền quý, cớ sao nhất định tôn xưng Can giờ. Chế sát là Cát, hoàn toàn dựa vào điều hòa Cục là nhờ vào công của Sát làm quyền, kỳ diệu có lý lẽ trung hòa, nhưng mà gặp Sát gần Chủ suy, cuối cùng nhất định gia đình sụp đổ, chẳng nói là Cục đắc Sát thần, có thể toại nguyện vinh hiển rõ ràng. Sách nêu "Cách cách thôi tường, dĩ sát vi trọng", vốn dĩ nghiên cứu đương nhiên là cần thiết, nhưng sử dụng cần phải tinh thông.
Lý lẽ là Sát có thể hỗn tạp mà cũng không thể hỗn tạp, như Thiên can là Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm là Sát, Địa chi là Mão, Ngọ, Sửu, Mùi, Dậu, Tý, chính là Sát ở vị trí vượng địa, là không phải hỗn vậy; Thiên can là Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý là Quan, Địa chi là Dần, Tị, Thìn, Tuất, Thân, Hợi, chính là Quan ở vượng địa, không phải hỗn vậy. Như can là Giáp Ất chi là Dần, can là Bính Đinh chi là Tị, can là Mậu Kỷ chi là Thìn Tuất, can là Canh Tân chi là Thân, can là Nhâm Quý chi là Hợi, lấy Quan hỗn Sát, cần phải khứ Quan; Như can Giáp Ất chi Mão, can Bính Đinh chi Ngọ, can Mậu Kỷ chi Sửu Mùi, can Canh Tân chi Dậu, can Nhâm Quý chi Tý, lấy Sát hỗn Quan, cần phải khứ Sát; Năm Tháng cả 2 đều có can thấu một Sát, chi năm tháng bên trong có Tài, giờ gặp Quan tinh không có căn, chỗ này là Quan tòng theo Sát, không phải hỗn vậy; Can năm tháng cả 2 đều thấu một Quan, Chi năm tháng trong chứa có Tài, giờ gặp Sát tinh không có căn, chỗ này là Sát tòng theo Quan , không phải hỗn vậy; thế lực ở Quan, Quan đắc Lộc, Sát dựa vào Quan, can năm trợ Sát, là hỗn vậy ; thế lực ở Sát, Sát đắc Lộc, Quan dựa vào Sát, can năm trợ Quan là hỗn vậy. Bại Tài hợp Sát, Tỉ kiên địch Sát, quan có thể hỗn vậy; Tỉ kiên hợp Quan, Kiếp Tài ngăn cản Quan, Sát có thể hỗn vậy; một Quan mà Ấn thụ gặp nặng, Quan tinh tiết khí, có Sát trợ là không phải hỗn vậy; một Sát mà Thực Thương đều gặp là chế Sát thái quá, có Quan trợ là không phải hỗn vậy. Nếu Quan Sát đều thấu không có căn, tứ trụ Kiếp Ấn cùng gặp là quá trọng, chẳng những mừng được hỗn, mà bên trên cần có Tài tinh trợ Sát Quan vậy.
Tóm lại, Nhật chủ vượng là có thể hỗn vậy, Nhật chủ hưu tù là không thể hỗn vậy. Hiện nay đem Sát phân ra làm 6 cách, chỗ này sau khi thí nghiệm phân loại rõ ràng ở dưới để tham khảo:
(1) Tài sinh Sát nhược cách
Ấn
Sát
Nhật nguyên
Tỉ
Kỷ Dậu
Bính Dần
Canh Thân
Canh Thìn
Tân
Giáp,Bính,Mậu
Canh,Mậu,Nhâm
Mậu,Ất,Quý
Kiếp
T.Tài,Sát,Kiêu
Tỉ,Kiêu,Thực
Kiêu,Tài,Thương
Đế vượng
Tuyệt
Lộc
Dưỡng
Đại vận: Ất Sửu/Giáp Tý/Quý Hợi/Nhâm Tuất/Tân Dậu/Canh Thân
Mệnh này lấy tục luận là xuân kim thất lệnh, Tài vượng sinh Sát, Sát tọa Trường sinh, nhất định cần phù thân ức Sát, không biết xuân kim tuy không đương lệnh, địa chi gặp 2 Lộc Vượng, lại vừa được giờ Thìn có Ấn Tỉ bang thân, trong nhược biến thành vượng, gọi là Mộc nộn Kim kiên. Nếu không có Bính hỏa, thì Dần mộc khó mà tồn tại; nếu không có Dần mộc, thì Bính hỏa không có căn, nhất định cần dụng Tài sinh Sát, 2 chữ mộc hỏa không thể khuyết 1 vậy. Giáp vận vào trường học; Tý vận hội thủy sinh mộc, được vua cấp lương; Quý vận có Kỷ thổ đương đầu, không gặp hung; Hợi vận hợp Dần, Bính hỏa Tuyệt xứ phùng Sinh, cửa quan chiến thắng; Nhâm Tuất, chi hội Tây phương, mộc hỏa đều bị thương, gặp một chặng đường trở ngại, hình háo đều gặp; Tân Dậu, Kiếp Nhận tùy tiện làm càn, bị mất bổng lộc. Tiếc là mệnh này gặp phải vận đến Tây Bắc kim thủy, nếu hành đến Đông Nam mộc hỏa, tự nhiên khoa Giáp liên tục đăng quan, đường quan lộ hiển hách vậy.
( còn tiếp)
cảm ơn bác lesoi nhiều, đúng là chủ đề e đang quan tâm.
mong bác post tiếp các ví dụ, e đọc vẫn chưa hiểu lắm.
(tiếp theo)
VD 2:
Sát
Tỉ
Nhật nguyên
Kiếp
Bính Thân
Canh Dần
Canh Thân
Tân Tị
Canh,Mậu,Nhâm
Giáp,Bính,Mậu
Canh,Mậu,Nhâm
Bính,Mậu,Canh
Tỉ,Kiêu,Thực
T.Tài,Sát,Kiêu
Tỉ,Kiêu,Thực
Sát,Kiêu,Tỉ
Lộc
Tuyệt
Lộc
Trường sinh
Đại vận: Tân Mão/Nhâm Thìn/Quý Tị/Giáp Ngọ/Ất Mùi/Bính Thân
Mệnh này Thiên can thấu 3 kim Canh Tân, địa chi tọa 2 Lộc Vượng, Bính hỏa dù vướng phải góc được Lộc, nếu như không có Canh Tân nguyên thần thấu lộ, không phải hỏa ở chi Lộc, kim vốn ở Trường sinh, rõ ràng là dụng Tài sinh Sát vậy. Thìn vận, là dư khí của mộc, được vào nhập học; Tị vận hỏa gặp Lộc Vượng, khoa Giáp liên đăng; Giáp Ngọ, Ất Mùi, mộc hỏa đều vượng, làm quan đến cửa vua.
Nếu lấy Bát tự mà xem, mệnh này không bằng mệnh trước, chỉ vì mệnh trước vận hành Tây Bắc, còn mệnh này vận hành đến Đông Nam. Phú Quý, tuy là định ở cách cục, khó khăn hay thuận lợi hoàn toàn là ở vận hạn, gọi là “Mệnh hảo bất như vận hảo” ( Mệnh tốt không bằng vận tốt), rất đúng vậy.
(2) Sát trọng dụng Ấn cách
VD 1:
Tỉ
Sát
Nhật nguyên
Sát
Mậu Tý
Giáp Dần
Mậu Ngọ
Giáp Dần
Quý
Giáp,Bính,Mậu
Đinh,Kỉ
Giáp,Bính,Mậu
Tài
Sát,Kiêu,Tỉ
Ấn,Kiếp
Sát,Kiêu,Tỉ
Thai
Trường sinh
Vượng
Trường sinh
Đại vận: Ất Mão/Bính Thìn/Đinh Tị/Mậu Ngọ/Kỷ Mùi/Canh Thân
Mậu thổ sinh tháng Dần, giờ Dần, thổ suy mộc thịnh, may mắn Nhật chủ tọa ở dưới Ngọ hỏa, sinh hợp hữu tình, gọi là Chúng Sát hoành hành ( Sát đông ỷ thế làm bậy), đồng nhất có thể hóa. Tý thủy là Tài, sinh Dần mộc mà không xung Ngọ hỏa, hợp tình mà thông quan. Lại vừa gặp vận đến Nam phương hỏa thổ, do đó sớm đăng Hoàng Giáp, làm quan nổi tiếng.
VD 2:
Kiếp
Kiêu
Nhật nguyên
Sát
Kỷ Hợi
Bính Dần
Mậu Tý
Giáp Dần
Nhâm,Giáp
Giáp,Bính,Mậu
Quý
Giáp,Bính,Mậu
T.Tài,Sát
Sát,Kiêu,Tỉ
Tài
Sát,Kiêu,Tỉ
Tuyệt
Trường sinh
Thai
Trường sinh
Đại vận: Ất Sửu/Giáp Tý/Quý Hợi/Nhâm Tuất/Tân Dậu/Canh Thân
Mệnh này xem cách cục hơn hẳn mệnh trước, chỗ này là Tài Ấn tọa Trường sinh, mệnh trước thì Ấn phùng Tài xung. Không biết là mệnh trước thì tọa hỏa Ấn thụ, Thất Sát đều đến sinh hợp, mà Nhật chủ kiên cố, mệnh này thì Tài tọa bên dưới Nhật chủ, ngược lại là khứ sinh Sát, trợ trụ làm nghịch. Kiêm đến vận Tây Bắc, năm Mậu Ngọ được Hương Bảng, Kỷ Sửu được Tiến Sĩ, hai năm này Tỉ Kiếp bang thân, xung khứ Tài tinh cho nên mới tốt như vậy. Nhâm vận, Tài tinh phá Ấn, số phận gặp phải gian nan, mất lộc; qua Tuất thì củng ( vây quanh) Ấn, tuy cảnh tượng hơi có sức sống, vốn cũng là Xuân nguyệt Thu hoa ( ý nói cảnh tượng mùa xuân gieo trồng đến mùa thu thì ra hoa kết trái). Tương lai, trong vận Tân Dậu, mộc nhiều kim khuyết, tiết thổ sinh thủy, hợp khứ Bính hỏa, tai họa có thể được miễn chăng?
(3) Thực thần chế Sát cách
VD 1:
Sát
Sát
Nhật nguyên
Thực
Mậu Thìn
Mậu Ngọ
Nhâm Thìn
Giáp Thìn
Mậu,Ất,Quý
Đinh,Kỷ
Mậu,Ất,Quý
Mậu,Ất,Quý
Sát,Thương,Kiếp
Tài,Quan
Sát,Thương,Kiếp
Sát,Thương,Kiếp
Mộ
Thai
Mộ
Mộ
Đại vận: Kỷ Mùi/Canh Thân/Tân Dậu/Nhâm Tuất/Quý Hợi/ Giáp Tý
Mệnh này tứ trụ đều là Sát, mừng là chi tọa 3 Thìn, thân thông căn Khố, diệu kỳ là không có kim, trụ giờ thấu Thực thần chế Sát .Thìn chính là dư khí của mộc, chiếm vị trí một tướng gác cửa quan, cả bầy hung ác tự bại trận. Đến vận Quý Hợi, Thực thần phùng sinh, nhật chủ đắc Lộc, khoa Giáp liên đăng; Giáp vận làm quan Huyện lệnh; Tý vận suy thần xung vượng, mất bổng lộc.
VD 2:
Sát
Sát
Nhật nguyên
Thực
Canh Thân
Canh Thìn
Giáp Tuất
Bính Dần
Canh,Mậu,Nhâm
Mậu,Ất,Quý
Mậu,Tân,Đinh
Giáp,Bính,Mậu
Sát,T.Tài,Kiêu
T.Tài,Kiếp,Ấn
T.Tài,Quan,Thương
Tỉ,Thực,T.Tài
Tuyệt
Suy
Dưỡng
Lộc
Đại vận: Tân Tị/Nhâm Ngọ/Quý Mùi/Giáp Thân/Ất Dậu/Bính Tuất
Mệnh này Giáp mộc sinh tháng Thìn, tuy có ít dư khí, nhưng có Canh kim lưỡng thấu thông căn chặt phá, mừng có giờ Dần Lộc Vượng, càng đẹp có Bính hỏa độc thấu, chế Sát phù thân. Ngọ vận ám hội Hỏa cục, trung Hương bảng; Giáp Thân, Ất Dậu Sát phùng Lộc Vượng, hình háo đủ điều; trực chỉ đến Bính Tuất vận, tuyển dụng làm Tri Huyện.
(4) Hợp Quan lưu Sát cách
VD 1:
Quan
Thực
Nhật nguyên
Sát
Quý Sửu
Mậu Ngọ
Bính Ngọ
Nhâm Thìn
Kỷ,Quý,Tân
Đinh,Kỷ
Đinh,Kỷ
Mậu,Ất,Quý
Thương,Quan,Tài
Kiếp,Thương
Kiếp,Thương
Thực,Ấn,Quan
Dưỡng
Vượng
Vượng
Quan đái
Đại vận: Đinh Tị/Bính Thìn/Ất Mão/Giáp Dần/Quý Sửu/Nhâm Tý
Mệnh này hỏa tăng trưởng mạnh ở mùa Hạ, là cực vượng vậy. Mậu Quý hợp mà hóa là kỵ, hoàn lại là mừng có Nhâm thủy thông căn mang Khố; càng đẹp là ở trụ năm tọa Sửu, đủ để làm mờ hỏa dưỡng kim mà giữ thủy, thì Quý thủy vẫn được căn, tuy hợp mà không có hóa vậy. Không có hóa trái lại là mừng có hợp, thì không chống lại Nhâm thủy vậy. Quả là vận Ất Mão, Giáp Dần, khắc thổ bảo vệ thủy, lộ trình tiến thẳng lên cao; đến vận Quý Sửu, từ làm quan Cầm Đường (Công đường, nơi xét xử thời xưa) mà chuyển lên Châu Mục (Châu Mục: là Quan phụ trách một Châu, Châu:là đơn vị hành chính thời xưa); cùng vận Nhâm Tý, do công việc quản lý tốt mà bước lên Hoàng Đường ( ý nói làm đến bậc Vương hầu), danh lợi đầy đủ vậy.
VD 2:
Quan
Thực
Nhật nguyên
Sát
Quý Tị
Mậu Ngọ
Bính Ngọ
Nhâm Thìn
Bính,Mậu,Canh
Đinh,Kỷ
Đinh,Kỷ
Mậu,Ất,Quý
Tỉ,Thực,T.Tài
Kiếp,Thương
Kiếp,Thương
Thực,Ấn,Quan
Lộc
Vượng
Vượng
Quan đái
Đại vận: Đinh Tị/Bính Thìn/Ất Mão/Giáp Dần/ Quý Sửu/Nhâm Tý/Tân Hợi/Canh Tuất.
Mệnh của chính T/g Nhâm Thiết Tiều ( Càn Long năm thứ 38, tháng 4, ngày 18, giờ Thìn), cũng là hỏa ở mùa Hạ, so với mệnh trước chỉ có hoán đổi một chữ Sửu, nhưng khác xa một trời một vực vậy, chữ Sửu này chính là Bắc phương thuộc thấp thổ, có thể làm mờ Bính hỏa đang mãnh liệt, có thể thu lấy ngọn lửa của Ngọ hỏa, lại vừa có thể giữ thủy tàng chứa kim. Còn Tị chính là Nam phương thuộc hỏa, Quý lâm Tuyệt địa, Bôi thủy dư tân ( một chén nước mà so với cả một thùng củi), hỉ kỳ hỗn tạp vậy mà không có mừng kỳ thanh trong vậy. So với mệnh trước thì Mậu Quý hợp mà không hóa, còn mệnh này thì Mậu Quý hợp mà nhất định hóa, chẳng những không thể trợ Sát, mà còn hóa hỏa là Kiếp, trái lại trợ giúp cho Dương Nhận mặc sức lộng hành. Tị trong tàng chứa Canh kim, không có đi theo trợ giúp, mặc dù là Nhâm thủy thông căn thân Khố. Tóm lại, không có kim sinh trợ, là tượng thanh mà khô, lại kiêm đến vận 40 tuổi tiếp tục gặp mộc hỏa, sinh trợ cho đất của Kiếp Nhận, cho nên ở trên thì không thể nối dõi cha ông để thành danh, còn ở dưới thì không thể lấy nỗi ruộng vườn mà lập nên sự nghiệp, cốt nhục Lục Thân ( gia đình), hầu như là một bức tranh bằng bánh, sự nghiệp nửa đời người cũng giống như đám phù vân (mây trôi). Đến vận Mão, Nhâm thủy lâm tuyệt địa, Dương Nhận phùng sinh, cốt nhục gặp biến động, đến nỗi gia đình bị sụp đổ, sản nghiệp tiêu tan. Cũng như nhớ lại lúc chưa học mệnh, nhờ người bói toán, một mặt không được khen ngợi, tưởng rằng danh lợi hiển nhiên, sau lại một hào cũng không ứng nghiệm. Sao không đau ư! Vã lại tôi ( tác giả) có bản tính vụng về ngốc nghếch, thích thành thực chứ không thích giả dối, không có nịnh hót, nhiều kiêu căng, thích giao du qua lại, mỗi lần sa sút khó khăn hợp lại, rất căm ghét tổ phụ ông bà vì toàn khuyên rằng nên sống trung hậu mà không nên sa ngã, sai lầm. Sau khi Tiên phụ nghiêm khắc đã qua đời, gia sản suy bại, dốc lòng học Mệnh, ý định là chỉ để kiếm sống qua ngày. Thân này 6 Xích (Xích: thước đo của Trung Quốc, đơn vị đo chiều dài bằng 1/3mét), chí hướng không phải là không có ham muốn vươn xa, uổng phí để cuối cùng bản năng trông thấy mà mĩm cười, bản thân tự thấy vận mệnh không tốt, không có ích lợi cho mọi việc, cho nên chủ định là làm con cá diếc bị mắc cạn, chỉ yêu cầu đạt đến lên hướng về sao Bắc Đẩu mà thôi. Hạn ở Địa, khốn ở Thời, than thở ư! Hay là do số mệnh vậy!
(5) Quan Sát hỗn tạp cách
VD 1:
Sát
Sát
Nhật nguyên
Quan
Nhâm Thìn
Nhâm Tý
Bính Dần
Quý Tị
Mậu,Ất,Quý
Quý
Giáp,Bính,Mậu
Bính,Mậu,Canh
Thực,Ấn,Quan
Quan
Kiêu,Tỉ,Thực
Tỉ,Thực,T.Tài
Quan đái
Thai
Trường sinh
Lộc
Đại vận: Quý Sửu/Giáp Dần/Ất Mão/Bính Thìn/Đinh Tị/Mậu Ngọ
Mệnh này Nhâm Quý đương quyền, Sát Quan nặng mà trùng lắp, mừng có Nhật chủ tọa Trường sinh, Dần có thể nạp thủy hóa Sát sinh thân, giờ quy lộc vượng, đủ để địch Quan; càng kỳ diệu là không có kim, Ấn tinh đắc dụng, thế Sát tuy mạnh, không đủ để sợ vậy. Đến vận Bính bang thân, lại phùng Kỷ Tị lưu niên, khứ Quan hỗn tạp, tin thắng lợi hồi đáp Nam cung, lên chủ trì một khu vực danh tiếng lẫy lừng.
VD 2:
Quan
Sát
Nhật nguyên
Kiêu
Giáp Tý
Ất Hợi
Kỷ Tị
Đinh Mão
Quý
Nhâm,Giáp
Bính,Mậu,Canh
Ất
T.Tài
Tài,Quan
Ấn,Kiếp,Thương
Sát
Tuyệt
Thai
Vượng
Bệnh
Đại vận: Bính Tý/Đinh Sửu/Mậu Dần/Kỷ Mão/ Canh Thìn/Tân Tị
Mệnh này Quan gặp Trường sinh, Sát phùng lộc, Tị Hợi tuy xung phá Ấn, mừng có Ất mộc vẫn có thể sinh hỏa, Dần vận hợp Hợi, hóa mộc sinh Ấn, liên tục bước đến Giáp bảng. Canh Thìn, Tân Tị chế Quan phục Sát, ra trông coi Quận lớn, danh lợi lưỡng toàn.
Nhâm thị viết: Mệnh Quan Sát hỗn tạp, phú quý rất nhiều. Tóm lại, Sát Quan đương lệnh, cần phải tọa dưới Ấn thụ, thì khí Sát Quan lưu thông, sinh hóa có tình: Hoặc khí nối liền giờ sinh, cũng đủ để phù trợ thân mà địch Sát. Nếu không có khí nối liền giờ sinh, lại vừa không có tọa dưới Ấn thụ, thì không bần cũng tiện. Như Sát Quan không đương lệnh, không luận theo cách này.
(6) Chế Sát thái quá cách
VD 1:
Tài
Thực
Nhật nguyên
Thương
Tân Mão
Mậu Tuất
Bính Thìn
Kỷ Hợi
Ất
Mậu,Tân,Đinh
Mậu,Ất,Quý
Nhâm,Giáp
Ấn
Thực,Tài,Kiếp
Thực,Ấn,Quan
Sát,Kiêu
Mộc dục
Mộ
Quan đái
Tuyệt
Đại vận: Đinh Dậu/Bính Thân/Ất Mùi/Giáp Ngọ/Quý Tị/Nhâm Thìn
Giờ gặp độc Sát, có 4 Thực tương chế, chi năm Mão mộc bị Tân kim cái đầu, huống chi Thu mộc vốn không đủ để khai thông thổ, dựa vào Hợi trong có chứa Giáp mộc bảo vệ Sát, đến Ất Mùi vận ám hội thành Mộc cục, tin chiến thắng báo về Nam cung, danh cao nơi cung điện; Giáp Ngọ vận, Mộc tử ở Ngọ, hợp để hóa thổ, gặp nhiều khó khăn, lấy năm Tị lại bị xung khứ Hợi thủy, mất lộc.
VD 2:
Sát
Tỉ
Nhật nguyên
Sát
Nhâm Thìn
Bính Ngọ
Bính Ngọ
Nhâm Thìn
Mậu,Ất,Quý
Đinh,Kỷ
Đinh,Kỷ
Mậu,Ất,Quý
Thực,Ấn,Quan
Kiếp,Thương
Kiếp,Thương
Thực,Ấn,Quan
Quan đái
Vượng
Vượng
Quan đái
Đại vận: Đinh Mùi/Mậu Thân/Ất Dậu/Canh Tuất/Tân Hợi/Nhâm Tý
Mệnh này Sát gặp tứ chế, trong trụ Ấn tuy không gặp, mừng có Sát thấu Thực tàng, thân thông căn Khố. Tóm lại, mùa Hạ hỏa nắm quyền, thủy không có kim sinh. Đến Dậu vận, hợp khứ Thìn thổ, Tài tinh sinh Sát, phát Giáp điểm trung thư; canh vận bảng tên liên tục được đăng lên, vào tòng quân cơ; Tuất vận, táo thổ xung động căn Nhâm thủy, lại gặp Mậu thổ thấu xuất, khẩn chế Nhâm thủy, mất lộc.
Nhâm thị viết: Cùng với chế Sát thái quá, không tốt bằng Quan Sát hỗn tạp vậy. Tại sao? Cái chế Sát thái quá, Sát đã thương tàn, tiếp tục hành vận chế Sát, 9 phần chết mà 1 phần sinh. Quan sát hỗn tạp, chỉ cần Nhật chủ tọa vượng, Ấn thụ không bị thương, vận trình yên ổn, chưa từng thấy không có phú quý vậy. Như Nhật chủ hưu tù, Tài tinh phá Ấn, tức là khiến cho độc Sát thuần thanh, nhất Quan không hỗn, khắp nơi nhiều ưu phiền mà vui ít, mất ý chí mà nhiều gian nan. Học giả cần chu đáo, kỹ càng ở chỗ này.
Vài lời nhận xét:
Qua phần trình bày của Nhâm lão tiền bối, chúng ta cũng có thể hiểu rất rõ câu nói: "Quan sát hỗn tạp lai vấn ngã, hữu khả hữu bất khả".
Câu cuối viết: Tóm lại, Nhật chủ vượng là có thể hỗn vậy, Nhật chủ hưu tù là không thể hỗn vậy.
T/g đã nêu rõ quan điểm của mình khi gặp tình huống Quan Sát hỗn tạp. Cho nên tôi nghĩ rằng, thân vượng thì có thể gánh được Tài Quan, dù có Quan Sát hỗn tạp cũng không phải lo lắng. Chỉ sợ thân nhược gánh không nỗi Tài Quan mà mệnh cục hỗn tạp sẽ gặp khó khăn chồng chất.
Cũng qua các ví dụ ở phần hợp Quan lưu Sát, T/g đã đưa bản thân ra để làm ví dụ so sánh, chỉ cần khác 1 chữ mà cuộc đời thay đổi hoàn toàn, dù là ai chăng nửa, mệnh làm quan thì làm quan, mệnh bần hàn ắt phải bần hàn.
Số mệnh là như vậy, dù có hiểu biết mệnh thì cũng khó tránh khỏi những gì mà Thiên định.
Qua đó, ở ngoài đời nhiều người không hiểu mệnh lý, cho rằng các ông thầy bói biết xem mệnh thì tại sao lại không xem giờ nào tốt để mà mua vài lá số hưởng lộc? :4:
anh lesoi kính mến!
trên các diễn đàn cuấn Trích thiên tủy chỉ có 09 chương. Anh đã có đủ bộ Trích thiên tủy thì anh có thể vì chúng em mà post hết lên được không anh Lesoi. Em cảm ơn anh trước nhé!
Cũng qua các ví dụ ở phần hợp Quan lưu Sát, T/g đã đưa bản thân ra để làm ví dụ so sánh, chỉ cần khác 1 chữ mà cuộc đời thay đổi hoàn toàn, dù là ai chăng nửa, mệnh làm quan thì làm quan, mệnh bần hàn ắt phải bần hàn.
Số mệnh là như vậy, dù có hiểu biết mệnh thì cũng khó tránh khỏi những gì mà Thiên định.
Qua đó, ở ngoài đời nhiều người không hiểu mệnh lý, cho rằng các ông thầy bói biết xem mệnh thì tại sao lại không xem giờ nào tốt để mà mua vài lá số hưởng lộc? :4:
Thực ra 1 chữ khác nhau ở trên nhưng khác nhau quá nhiều (một đằng hợp khứ, một đằng hợp hóa trợ cường thần). Vả lại chúng ta học mệnh lý cũng hiểu dù 2 mệnh có sinh cùng giờ ngày tháng năm thì cuộc đời vẫn khác nhau, đó là bởi "thập thần đa hướng"...
Yếu tố nào ví tiên thiên, yếu tố nào ví hậu thiên ? nếu phụ thuộc hoàn toàn vào Thiên định thì chưa vượt được cái vòng kiềm tỏa của mệnh số. Cần hiểu mệnh chính là như vậy! Tạo hóa có quyền của tạo hóa, song cũng không phủ nhận con người cũng có quyền riêng của mình, mà đôi khi chúng ta vẫn nói "phép vua thua lệ làng" đó sao !?
Chào Letung73!
Tôi đang nhờ cô KC thẩm định lại giá trị của tài liệu Tích Thiên Tủy mà tôi đang có, sau đó rồi mới post bài lên được.
Bạn đừng nôn nóng, hãy đọc Thiên lý mệnh cảo cho thuần đã, còn khi dịch tôi cũng đã hoàn thành gần xong bản dịch ban đầu rồi.
Vâng em rất cảm ơn anh!
chúc anh luôn khỏe để công hiến nhều cho diễn đàn KTB của chúng ta.
VD 2:
Quan
Thực
Nhật nguyên
Sát
Quý Tị
Mậu Ngọ
Bính Ngọ
Nhâm Thìn
Bính,Mậu,Canh
Đinh,Kỷ
Đinh,Kỷ
Mậu,Ất,Quý
Tỉ,Thực,T.Tài
Kiếp,Thương
Kiếp,Thương
Thực,Ấn,Quan
Lộc
Vượng
Vượng
Quan đái
Đại vận: Đinh Tị/Bính Thìn/Ất Mão/Giáp Dần/ Quý Sửu/Nhâm Tý/Tân Hợi/Canh Tuất.
Mệnh của chính T/g Nhâm Thiết Tiều ( Càn Long năm thứ 38, tháng 4, ngày 18, giờ Thìn), cũng là hỏa ở mùa Hạ, so với mệnh trước chỉ có hoán đổi một chữ Sửu, nhưng khác xa một trời một vực vậy, chữ Sửu này chính là Bắc phương thuộc thấp thổ, có thể làm mờ Bính hỏa đang mãnh liệt, có thể thu lấy ngọn lửa của Ngọ hỏa, lại vừa có thể giữ thủy tàng chứa kim. Còn Tị chính là Nam phương thuộc hỏa, Quý lâm Tuyệt địa, Bôi thủy dư tân ( một chén nước mà so với cả một thùng củi), hỉ kỳ hỗn tạp vậy mà không có mừng kỳ thanh trong vậy. So với mệnh trước thì Mậu Quý hợp mà không hóa, còn mệnh này thì Mậu Quý hợp mà nhất định hóa, chẳng những không thể trợ Sát, mà còn hóa hỏa là Kiếp, trái lại trợ giúp cho Dương Nhận mặc sức lộng hành. Tị trong tàng chứa Canh kim, không có đi theo trợ giúp, mặc dù là Nhâm thủy thông căn thân Khố. Tóm lại, không có kim sinh trợ, là tượng thanh mà khô, lại kiêm đến vận 40 tuổi tiếp tục gặp mộc hỏa, sinh trợ cho đất của Kiếp Nhận, cho nên ở trên thì không thể nối dõi cha ông để thành danh, còn ở dưới thì không thể lấy nỗi ruộng vườn mà lập nên sự nghiệp, cốt nhục Lục Thân ( gia đình), hầu như là một bức tranh bằng bánh, sự nghiệp nửa đời người cũng giống như đám phù vân (mây trôi). Đến vận Mão, Nhâm thủy lâm tuyệt địa, Dương Nhận phùng sinh, cốt nhục gặp biến động, đến nỗi gia đình bị sụp đổ, sản nghiệp tiêu tan. Cũng như nhớ lại lúc chưa học mệnh, nhờ người bói toán, một mặt không được khen ngợi, tưởng rằng danh lợi hiển nhiên, sau lại một hào cũng không ứng nghiệm. Sao không đau ư! Vã lại tôi ( tác giả) có bản tính vụng về ngốc nghếch, thích thành thực chứ không thích giả dối, không có nịnh hót, nhiều kiêu căng, thích giao du qua lại, mỗi lần sa sút khó khăn hợp lại, rất căm ghét tổ phụ ông bà vì toàn khuyên rằng nên sống trung hậu mà không nên sa ngã, sai lầm. Sau khi Tiên phụ nghiêm khắc đã qua đời, gia sản suy bại, dốc lòng học Mệnh, ý định là chỉ để kiếm sống qua ngày. Thân này 6 Xích (Xích: thước đo của Trung Quốc, đơn vị đo chiều dài bằng 1/3mét), chí hướng không phải là không có ham muốn vươn xa, uổng phí để cuối cùng bản năng trông thấy mà mĩm cười, bản thân tự thấy vận mệnh không tốt, không có ích lợi cho mọi việc, cho nên chủ định là làm con cá diếc bị mắc cạn, chỉ yêu cầu đạt đến lên hướng về sao Bắc Đẩu mà thôi. Hạn ở Địa, khốn ở Thời, than thở ư! Hay là do số mệnh vậy!
lesoi rất có công lao dịch thuật và gửi bài cho chúng ta, xin rất cám ơn.
Nếu trên đây là tứ trụ của Nhâm Thiết Tiều tự bình giải, chúng ta thử học hỏi kỹ lưỡng xem thế nào. Vì nhân vật Nhâm Thiết Tiều là một người có danh tánh rộng lớn, nhiều người biết đến qua tài liệu Tích Thiên Tủy.
Với tứ trụ và đại vận như thế, điều thắc mắc là phần luận giải khó mà thông đạt. Theo tôi thì đại vận Đinh Tị đã là 1 tuổi (sinh năm 1773, Mang chủng bắt đầu từ ngày 5/6 khoảng 19 giờ, âm nhật chủ đếm nghịch), vậy các trình tự về đại vận theo luận giải rất khó hiểu theo phương pháp định thập thần ở vòng trường sinh:
Tóm lại, không có kim sinh trợ, là tượng thanh mà khô, lại kiêm đến vận 40 tuổi tiếp tục gặp mộc hỏa, sinh trợ cho đất của Kiếp Nhận,...
Vận 41 tuổi là vận Quí Sửu. Nếu nói "gặp mộc hỏa" thì phải là nói vận Giáp Dần trước đó (31 tuổi), "sinh trợ cho đất của Kiếp Nhận" thì phải là Dần Ngọ tương hợp (Bính nhật chủ gặp Đinh lệnh tháng là Kiếp Nhận).
Đến vận Mão, Nhâm thủy lâm tuyệt địa, Dương Nhận phùng sinh, cốt nhục gặp biến động, đến nỗi gia đình bị sụp đổ, sản nghiệp tiêu tan.
Vận "Nhâm thủy lâm Tuyệt địa" phải là vận TỊ, không phải vận Mão. "Dương Nhận phùng sinh" tức Đinh hỏa phải gặp Dậu. Thế nhưng cho rằng nói vận Mão là chủ ý, thì đang nói ở trên là vận Dần, sao lại nói đến vận Mão? Vì vận Mão trước vận Dần. Cũng thế, nếu vận Mão là chủ ý thì chính là Quí trường sinh.
Như vậy, phải chuyển sang ý nói về mùa, vì Thủy là ngũ hành ở trạng thái HƯU ở mùa Xuân (Dần Mão Thìn), còn Hỏa thì được tướng.
Cũng vậy, câu:
Còn Tị chính là Nam phương thuộc hỏa, Quý lâm Tuyệt địa, Bôi thủy dư tân ( một chén nước mà so với cả một thùng củi)...
quả là cách nói theo mùa chung chung, vì Tị Ngọ Mùi là mùa hạ, Thủy ở trạng thái Tù. Nếu xác định thập thần, Quí tọa Thai ở Tị.
Đến đây thì các bạn hiểu rõ: Nhâm hưu ở mùa Xuân, mà Quí thì Tù ở mùa Hạ. Như thế vẫn có sự phân biệt NHÂM và QUÍ. Vậy ý nghĩa của sự phân biệt theo mùa và thập thần rõ ràng là thế nào?
Ngoài ra, theo tôi là còn một chỗ cần nhận xét:
Tị trong tàng chứa Canh kim, không có đi theo trợ giúp, mặc dù là Nhâm thủy thông căn thân Khố.
Tức là trong Tị có tàng chứa Canh kim, không sinh trợ cho Nhâm thủy, mặc dù Nhâm có căn. Nhưng "thông căn thân khố" phải là "thông căn THÌN khố" mới rõ, vì Nhâm mộ khố ở Thìn.
Mệnh của Nhâm Tiết Thiều tựu chung tự cho là quá tệ hại ở vận Mão, phải chăng là Dương nhận cách bị Thực Thương nhiễu cục? Trong khi đó, Sát thấu, Quan thấu, nhưng cả Quan và Sát đều vô lực, vì Quí thì bị Mậu hợp, Nhâm tọa Thìn thì có căn, nhưng Tị và 2 Ngọ quá mạnh, Nhâm Thìn trở thành lực mỏng. Như thế ta càng hiểu vì sao trong bài tự giải ở trên đã nhấn mạnh đến Nhâm và Quí.
Nhận cách cần Quan Sát; Quan Sát không đủ sức chế thì cần Tài Ấn, nhưng cả hai đều cũng như hư không (Canh kim và Ất Mộc đều là dư khí ở Tị và Thìn)! Trong khi đó, nếu nhận xét về Thực Thương có tác dụng chế Quan Sát, và nhất là cung mệnh là KỈ MÙI, thì mới rõ Thực Thương phá cách cục như thế nào.
Thế nhưng, Nhâm Thiết Tiều là 1 người nổi tiếng, vậy có phải thế cục đã biến hóa thành "tòng Nhi cách"? Chính vì thế mà ý chí và tài hoa mới hiển lộ rõ rệt (dốc lòng học Mệnh, chí hướng ham muốn vươn xa), nhưng khổ thay, mệnh số cùng đại vận không cùng 1 đường, nên cuối cùng tự than vãn:
Hạn ở Địa, khốn ở Thời, than thở ư! Hay là do số mệnh vậy!
Hạn ở Địa, tức là địa chi Hỏa thái quá. Khốn ở Thời nghĩa là lại gặp vận Ất Mão, Giáp Dần, mộc sinh hỏa dư thừa, không có chế tất là cưỡng cầu mà bại vậy.
Nói thêm về câu này:
So với mệnh trước thì Mậu Quý hợp mà không hóa, còn mệnh này thì Mậu Quý hợp mà nhất định hóa, chẳng những không thể trợ Sát, mà còn hóa hỏa là Kiếp, trái lại trợ giúp cho Dương Nhận mặc sức lộng hành.
Chúng ta học Hóa Hợp chính yếu là từ trụ ngày, không phải trụ năm. Nhâm Thiết Tiều có nhật chủ là Bính hỏa, lại cho rằng Mậu trụ năm hợp Quí trụ tháng là hóa Hỏa. Thật ra, nếu theo sát qui định nhật chủ hóa hợp thì không phải, ở đây có thể cho rằng "hóa" là biến chất thái quá mà thôi, vì địa chi toàn Tị Ngọ, bản thân là Bính, nên Hỏa thái vượng.
Tứ trụ này có Ngọ hình Ngọ; đây cũng là 1 nhận xét cần chú ý.
Thấy đoạn bàn luận hóa khí cách Mậu Quý của chị KimCuong, gửi mọi người tham khảo một bài giải luận của đại sư rất nổi tiếng người Hoa, Tống Anh Thành.
Nam: sinh 15/5 AL năm Tân Tị (1941), giờ Tỵ ( Lá số (http://dichvu.lyso.vn/lasotutru/1/093009061941/1/A.jpg) )
Thập thần
Thương
Sát
nhật chủ
Ấn
TÂN
GIÁP
MẬU
ĐINH
Tị
NGỌ
Tý
Tị
Tàng can
Mậu-Bính-Canh
Đinh - Kỷ
Quý
Mậu-Bính-Canh
Vận
Quý Tị
2 tuổi
Nhâm Thìn
12
Tân Mão
22
Canh Dần
32
Hỏi:
1. Tình cảm vợ chồng như thế nào? Vợ hiền lành nhân hậu ko?
2. Từ 32 - 40 tuổi (đại vận Canh Dần) ra sao?
3. Tổ nghiệp có hay không?
Đáp:
1. Bát tự này nhật trụ là Mậu Tý, trong Tý tàng Quý thủy, Mậu Quý hợp, lại sinh vào Ngọ nguyệt, ứng với Hóa khí cách; cách Hóa khí không những cần được trợ giúp hóa thần mà còn phải có ích cho cách cục, ở đây cách cục đã thành Hóa khí cách, Mậu Quý hợp lại bang trợ hóa thần, bởi vậy ông ta có được trợ giúp của vợ hiền, do Mậu Quý hợp nên tình cảm vợ chồng rất hòa hợp.
2. Trong Canh Dần đại vận 32 tuổi, Canh hội tiết khí Mậu thổ không tốt, thế nhưng, bởi vì Canh tại Dần vô lực, lại có thời can Đinh hỏa khắc, với lạnh Canh kim chẻ Giáp dẫn xuất công dụng của Đinh, Dần Ngọ củng hợp hỏa, cho nên tại đại vận này ứng nghiệm đại phát tài, buôn bán kiếm được rất nhiều tiền.
3. Hóa khí cách là cách cục đặc thù, phải là không hưởng gia nghiệp tổ tiên để lại thì mới tay trắng làm nên sự nghiệp (bạch thủ hưng gia).
(4) Hợp Quan lưu Sát cách
...
VD 2:
Quan
Thực
Nhật nguyên
Sát
Quý Tị
Mậu Ngọ
Bính Ngọ
Nhâm Thìn
Bính,Mậu,Canh
Đinh,Kỷ
Đinh,Kỷ
Mậu,Ất,Quý
Tỉ,Thực,T.Tài
Kiếp,Thương
Kiếp,Thương
Thực,Ấn,Quan
Lộc
Vượng
Vượng
Quan đái
Đại vận: Đinh Tị/Bính Thìn/Ất Mão/Giáp Dần/ Quý Sửu/Nhâm Tý/Tân Hợi/Canh Tuất.
Mệnh của chính T/g Nhâm Thiết Tiều ( Càn Long năm thứ 38, tháng 4, ngày 18, giờ Thìn), cũng là hỏa ở mùa Hạ, so với mệnh trước chỉ có hoán đổi một chữ Sửu, nhưng khác xa một trời một vực vậy, chữ Sửu này chính là Bắc phương thuộc thấp thổ, có thể làm mờ Bính hỏa đang mãnh liệt, có thể thu lấy ngọn lửa của Ngọ hỏa, lại vừa có thể giữ thủy tàng chứa kim. Còn Tị chính là Nam phương thuộc hỏa, Quý lâm Tuyệt địa, Bôi thủy dư tân ( một chén nước mà so với cả một thùng củi), hỉ kỳ hỗn tạp vậy mà không có mừng kỳ thanh trong vậy. So với mệnh trước thì Mậu Quý hợp mà không hóa, còn mệnh này thì Mậu Quý hợp mà nhất định hóa, chẳng những không thể trợ Sát, mà còn hóa hỏa là Kiếp, trái lại trợ giúp cho Dương Nhận mặc sức lộng hành. Tị trong tàng chứa Canh kim, không có đi theo trợ giúp, mặc dù là Nhâm thủy thông căn thân Khố. ...
Cảm ơn bài dịch hay của anh lesoi !
Bôi thủy dư tân (hoặc bôi thủy xa tân), "dư" là xe chứ ko phải là đống (củi) (trong tử vi có cách Kim dư phù giá = theo xe vàng phò vua , là chữ dư này) , một thành ngữ tiếng hoa ý chỉ làm một việc vô vọng không có kết quả, tuơng tự thành ngữ VN là "hạt muối bỏ bể" , " châu chấu đá xe", trứng chọi đá" , v.v... vì nghĩa bôi thủy dư tân là "một chén nước không cứu nổi một xe củi đang cháy". Đống củi cháy thì...kệ nó chứ :4:, còn xe củi là người ta chở củi ra chợ bán, để nguyên trên xe mà bán, chiều chở về,... nó mà cháy là vợ đói luôn !!!
Chữ bôi thành có nhiều thành ngữ, như bôi cung xà ảnh (=thấy rắn trogn chén nước, sợ hãi vu vơ), bôi tửu ngôn hoan (= rượu vào lời ra),...
Chúc anh vui vẻ !
Nam: sinh 15/5 AL năm Tân Tị (1941), giờ Tỵ ( Lá số (http://dichvu.lyso.vn/lasotutru/1/093009061941/1/A.jpg) )
Thập thần
Thương
Sát
nhật chủ
Ấn
TÂN
GIÁP
MẬU
ĐINH
Tị
NGỌ
Tý
Tị
Tàng can
Mậu-Bính-Canh
Đinh - Kỷ
Quý
Mậu-Bính-Canh
Vận
Quý Tị
2 tuổi
Nhâm Thìn
12
Tân Mão
22
Canh Dần
32
Hỏi:
1. Tình cảm vợ chồng như thế nào? Vợ hiền lành nhân hậu ko?
2. Từ 32 - 40 tuổi (đại vận Canh Dần) ra sao?
3. Tổ nghiệp có hay không?
Bàn loạn thêm hướng khác với tứ trụ này.
Ngọ hoả lâm KV được Tý hoá giải. Bát tự Thân Ấn cùng vượng vốn có thể dụng Thực Thương tiết tú.
1. Dụng Thực thương tiết tú vốn sợ Hoả vượng chế Kim, nhìn kết cấu bát tự mừng có Tý thuỷ hỳ thần chế hoả mà bảo vệ, hỷ thần đóng thê cung, vợ chồng tình cảm tương đầu hợp ý.
2. Vận Canh Dần, Canh chế Giáp vốn là nguyên thần của Hoả... Đương số theo hướng buôn bán kiếm tiền mà phát tài vào đầu hoặc cuối vận ? (hehe, cái này không thấy tác giả nhắc đến)
3. Thương đóng trụ năm tuy là dụng thần tiết tú song không đúng "Vị" nên không được hưởng gia nghiệp của tổ tiên....
Nam: sinh 15/5 AL năm Tân Tị (1941), giờ Tỵ ( Lá số (http://dichvu.lyso.vn/lasotutru/1/093009061941/1/A.jpg) )
Thập thần
Thương
Sát
nhật chủ
Ấn
TÂN
GIÁP
MẬU
ĐINH
Tị
NGỌ
Tý
Tị
Tàng can
Mậu-Bính-Canh
Đinh - Kỷ
Quý
Mậu-Bính-Canh
Vận
Quý Tị
2 tuổi
Nhâm Thìn
12
Tân Mão
22
Canh Dần
32
Hỏi:
1. Tình cảm vợ chồng như thế nào? Vợ hiền lành nhân hậu ko?
2. Từ 32 - 40 tuổi (đại vận Canh Dần) ra sao?
3. Tổ nghiệp có hay không?
Đáp:
1. Bát tự này nhật trụ là Mậu Tý, trong Tý tàng Quý thủy, Mậu Quý hợp, lại sinh vào Ngọ nguyệt, ứng với Hóa khí cách; cách Hóa khí không những cần được trợ giúp hóa thần mà còn phải có ích cho cách cục, ở đây cách cục đã thành Hóa khí cách, Mậu Quý hợp lại bang trợ hóa thần, bởi vậy ông ta có được trợ giúp của vợ hiền, do Mậu Quý hợp nên tình cảm vợ chồng rất hòa hợp.
2. Trong Canh Dần đại vận 32 tuổi, Canh hội tiết khí Mậu thổ không tốt, thế nhưng, bởi vì Canh tại Dần vô lực, lại có thời can Đinh hỏa khắc, với lạnh Canh kim chẻ Giáp dẫn xuất công dụng của Đinh, Dần Ngọ củng hợp hỏa, cho nên tại đại vận này ứng nghiệm đại phát tài, buôn bán kiếm được rất nhiều tiền.
3. Hóa khí cách là cách cục đặc thù, phải là không hưởng gia nghiệp tổ tiên để lại thì mới tay trắng làm nên sự nghiệp (bạch thủ hưng gia).
Đăng và dnts, chị cũng bàn loạn theo cho vui luôn. Đổi ra ngày dương lịch: sinh 9.6.1941, tiết Mang Chủng, hỏa vượng thổ tướng, Quí tuyệt ở Ngọ.
Với cái nhìn về hình tượng tứ trụ thì chúng ta nhớ có câu "nhược chi thành hỏa cục, tức thấu Quí thủy, bất năng đại tể". Câu này ám chỉ cách tòng cường hay tòng vượng. Đó cũng chính là ý "bôi thủy xa tân" mà Đăng đã dịch lại đấy.
Vì thế khi hàng địa chi đã toàn là HỎA, cũng tương tự như Hỏa Cục (dần ngọ tuất, tị ngọ mùi), một giọt nước chẳng làm nên việc gì. Nếu khử được nó, kể như "được" nó. (Ý này được Manh Phái diễn tả rất hay, phải công nhận như vậy).
Mậu nhật can tọa Tí nên gọi là "ám hợp" Quí tàng trong Tí thì hay hơn, vì nhìn thấy được hình tượng nói trên, thật là diệu dụng. Bởi vì hợp mà hợp theo Thiên Can Ngũ Hợp như vợ chồng hợp nhau, thì hợp này vừa khử Thủy lại vừa "được" cả tình cảm, vợ và tài :)
Điều đó có khác với trường hợp có Quí thủy lộ, và có Đinh khử nó. Nhưng Quí thủy không lộ, mà ám hợp với nhật chủ là đổi sang ngay tình hình khác; có khử mà lại thành.
Mặt khác, cũng theo truyền thống, lệnh tháng Không Vong mà được xung, tức trở thành có tác dụng càng mạnh hơn (vì có Xung nên động). Quả là nhờ "ơn" Tí thủy, như một người hy sinh toàn năng toàn lực vậy.
Vợ hiền lành nhân hậu là đúng rồi (do ám hợp), vì nếu Quí mà thấu ra thì e rằng không còn trợ giúp nhau nữa.
Tứ trụ này vì thế mà dụng Hỏa, không dụng Canh. Vận Dần bán hợp Ngọ có thể thành công.
Nói thêm về ý của tôi cho rằng tứ trụ của ta chính là sự đối đãi của ta với mọi việc. Do cơ cấu này mà mới hình thành nên dụng, kị, hay hỉ. Chẳng có "thần" nào cả, hiểu như là 1 vị thần nào đó đứng ngoài điều khiển ta, mà nói là "tinh thần" của mình thì đúng hơn.
Vì vậy, như tứ trụ đang bàn ở trên, với kết quả biết được là hai vợ chồng tương ái nhau, trợ giúp nhau, theo tôi, điều cần hiểu sâu sắc là chính do người chồng thương yêu vợ (diễn giải theo Mậu Quí ám hợp) và được người vợ hiền lành (trong thực tế) nên mới có sự tương ái như vậy.
Nếu mà chúng ta biết được vài tứ trụ giống hệt như thế mà cũng có vợ hiền lành trợ giúp chồng, thì quả là Tử Bình đoán rất chính xác đúng không? Nhưng phải công nhận rằng, không thể có được như thế. Tình tiết cụ thể từng gia đình lại có thể khác, người vợ hiền hay quá hiền, giúp là giúp việc trong nhà, quán xuyến nhà cửa hay là giúp trong kinh doanh...v.v...
Vì vậy mà đoán vợ trong tứ trụ của mình không thể biết được chính tâm tình của người vợ, mà nên hướng cái nhìn về chính tâm tình của người chồng đối với vợ là đúng hơn.
Cũng thế, nhiều người hỏi đoán 2, 3 vợ hoặc hỏi ly dị, ly thân...v.v.. Câu hỏi là muốn biết trong tứ trụ của mình có cái gì nhìn ra các bà vợ trong đó hay không, mà không hỏi rằng chính tôi đối với tình cảm nam nữ ra sao?
Quả là nhờ "ơn" Tí thủy, như một người hy sinh toàn năng toàn lực vậy.
Vì vậy mà câu nói trên của tôi có thể nhận xét khác: Nhờ chồng biết thương yêu vợ mà gia đình hạnh phúc hài hòa. Công năng chính là từ bản chất tứ trụ của mình vậy.
Các bạn thử suy ngẫm thêm...
Vì vậy, như tứ trụ đang bàn ở trên, với kết quả biết được là hai vợ chồng tương ái nhau, trợ giúp nhau, theo tôi, điều cần hiểu sâu sắc là chính do người chồng thương yêu vợ (diễn giải theo Mậu Quí ám hợp) và được người vợ hiền lành (trong thực tế) nên mới có sự tương ái như vậy.
Vậng, đúng là như vậy. Bởi vì đó chính là tứ trụ của mình chứ ko phải là tứ trụ của vợ.
Bôi thủy dư tân (hoặc bôi thủy xa tân), "dư" là xe chứ ko phải là đống (củi) (trong tử vi có cách Kim dư phù giá = theo xe vàng phò vua , là chữ dư này) , một thành ngữ tiếng hoa ý chỉ làm một việc vô vọng không có kết quả, tuơng tự thành ngữ VN là "hạt muối bỏ bể" , " châu chấu đá xe", trứng chọi đá" , v.v... vì nghĩa bôi thủy dư tân là "một chén nước không cứu nổi một xe củi đang cháy". Đống củi cháy thì...kệ nó chứ :4:, còn xe củi là người ta chở củi ra chợ bán, để nguyên trên xe mà bán, chiều chở về,... nó mà cháy là vợ đói luôn !!!
Chữ bôi thành có nhiều thành ngữ, như bôi cung xà ảnh (=thấy rắn trong chén nước, sợ hãi vu vơ), bôi tửu ngôn hoan (= rượu vào lời ra),...
Hì hì.., đúng là chuyên gia dịch thuật, ý nghĩa là như vậy. Cảm ơn bạn đã nhắc nhở.
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.