View Full Version : Bốc phệ chánh tông - Dự đoán vận mệnh
DỰ ĐOÁN VẬN MỆNH CUỘC ĐỜI
theo ngày tháng năm sinh
Càn Khôn đã định vị, nhân vật mở đầu sinh
Cảm Âm Dương mà hoá đục, chia ngu trí ở trọc thanh
1 Đã giàu lại thọ, Thế hào Vượng tướng lại không thương
Không yểu thì nghèo, Thân bị hưu tù, kiêm bị chế
2 Thế vào Không địa, chung thân công việc chẳng thành
Thân ở Mộ hào, luống tuổi cầu mưu không toại
3 Quái cung suy yếu, căn cơ kém
Hào tượng Phong long, vẫn mệnh hay
4 Muốn hỏi thành gia, gặp quẻ Lục Xung là xấu
Như xem lập nghiệp, hào thành Lục Hợp thì nên
5 Thân động tự cường vượng, lộc lực làm nên
Thế suy gặp sinh phù, nhờ người mới khá
6 Ngày giờ hợp trợ, kính yêu trên dưới những riêng vì
Năm tháng khắc xung, ân đủ, bên trên chưa được dựa
7 Thanh Long, Tử Tôn vô khí, không thanh cao cũng bậc hàn nho
Bạch Hổ, Thê Tài cường vượng, tuy thô bỉ cũng hàng phú hộ
8 Phụ Mẫu trì Thân, tâm cần lao lực
Quỷ hào trì Thế, bệnh tật triền miên
Gặp Huynh đệ thì tài không thể tụ
Thấy Tử Tôn thì chẳng phạm hình
9 Lộc bạc, sát, xung, bôn tẩu Đông Tây lưu lạc
Phúc: Không, hung, chế, la cà Nam Bắc kiếm ăn
10 Tử trì Thế Không, thoát tục ly trần nhất định
Quý lâm độc đáo, nho văn oai vũ phi thường
11 Chu Tước cùng Phúc đức lâm Thân hợp Ứng, đệ tử Lê Viên
Bạch Hổ đới Phụ hào trì Thế gặp Kim đồ tể Liêm thị
12 Thế gia Quan Quỷ Huyền Vũ, kẻ trộm không sai
Thân đới Phụ Mẫu Câu Trần, nông phu nhất định
13 Tài, Phúc đương quyền, vinh hoa có lúc
Quan, Huynh cầm chính, phá bại không thường
14 Muốn luận Trung niên, hung sát may không tỏa chiết
Xem về Vãn cảnh, ác tinh rất sợ khắc hung
15 Chính Quái bất lợi, Lý Bật tuổi trẻ gian truân
Biến Quái có phù, Mã Viện thân già quắc thước
16 Một quẻ mùa Đông, Trương Công Nghệ gia môn hòa thuận
Sáu hào công cách, họ Tư Mã cốt nhục tương tàn
17 Mẫn Tử Khiêm hiếu hạnh, nội ngoại đều yên, do Phụ Mẫu sinh thân
Khổng Phu Tử nhân luân, thùy giáo xưa nay, bởi Huynh hào hợp Thế
18 Thế Ứng tương sinh, thời Hán, Bao Tuyên lấy Hoàn thị Thiếu Quân
Nội ngoại thương khắc, đời Đường Quách Hy sánh Phương Bình công chúa
19 Trang Tử gõ bồn ca, Thế thương Ứng vị
Hà Đông sư tử gầm, Ứng chê Thế hào
20 Thế gặp hung mà Ứng khắc, thi vịnh Kê Minh
Thân đới cát mà Tử phù, địch mừng họa lạc
21 Phúc gặp vượng như Khâm, Vương, có con đều bất hiếu
Tử hóa Huynh như Phùng Đỗ sinh con bất tiếu
22 Bá Đạo tuyệt tự chính vì Phúc Đức lâm không
Tử Hạ khóc con cũng bởi Phụ hào đới khắc
23 Phụ hào thuộc Mộc, con của Đậu Quân, đan quế chồi ngào ngạt
Quan Quỷ lâm Kim, anh em Điển thị, tử kính một gốc tốt tươi
24 Huynh trì Kim vượng, mừng thấy Tuân thị được bát long
Đệ tựa Thủy cường, lạ thấy Lục công ôm song ngọc
25 Nếu Thế hào gặp trùng điệp thì phải theo hiện tại để tường suy
26 Tài động, khắc Thân từ lúc nhỏ
Huynh hưng, túng ngẫu thuở trung niên
27 Hóa Phụ sinh Thân, Sái Vịnh nhận Quách Vinh làm bố
Hóa Tử hợp Thế, Thạch Kiên nuôi Quý Long làm con
28 Thế âm, Phụ âm, Giả Tư Đạo là con thứ xuất
Thế vượng, Quan vượng, Trần Trọng Cử là bậc phi thường
29 Hóa Tử hợp Tài, Đường Minh Hoàng có con nuôi phản loạn
Nội Huynh hợp Ứng, Trần Bá Thưởng có người vợ loạn luân
30 Hào Ứng đới Câu Trần gặp Phúc đức, Mạnh Đức Diệu phục sinh
Thê Tài lâm Huyền Vũ ngộ hình, Dương Thái Chân tái thế
31 Hợp nhiều mà thần sát lâm Trì, cây tiền họ Hứa
Quỷ lắm mà hung tinh chẳng gặp, hoa chúc vua Tùy
32 Bạch Hổ lâm hình, Võ Hậu đa dâm ác
Thanh Long hóa phúc, Mạnh Mẫu có đức từ đường
33 Gặp Thanh Long mà hóa bại Huynh, Thái Diễn thông minh nhưng thất tiết
Hóa Tử Tôn lại sinh Thân Thế, Bá Cơ có đức hạnh hơn người
34 Hợp mà gặp Không, gái họ Đan chẳng ô danh tiết
Tĩnh mà xung động, Trác Văn Quân lẻn tới Tương Như
35 Tử động hình khắc, Vệ Cung Khương thề với con thuyền gỗ bách
Thân hóa Quỷ hình, Ban Tiệp Thu cảm thương chiếc quạt mùa thu
36 Hai Quỷ tranh quyền Thủ Phụ xung, Tiên Ngọc Liên gặp Như Quỳnh ở nơi Giang chủ
Sáu hào tương hợp ám động Tài, Tân Nhược Lan hẹn Đào Cốc tại chốn Sưu đình
37 Quỷ nhược không được sinh phù, Chu Thục Trinh bùi ngùi duyên phận
Quan cường lại liên long, Phúc, Ngô Mạnh Tử tốt đẹp lứa đôi
38 Muốn biết trẻ con sinh trưởng ra sao, dễ nuôi hay khó nuôi thì lấy hào Phúc đức làm Dụng thần mà suy đoán
39 Hóa Quan, nhập Mộ, vị tát đã có cháu
Trợ Quỷ, thương thân, khó tránh được cảnh bệnh tai
40 Thai liên Quan Quỷ, hiểm nguy từng đã có phen
Tử đới Quý nhân, vinh hiển tất nhiên gặp lúc
41 Gặp cứu tinh như gió nhẹ lùa gốc
Phùng Tuyệt địa như mưa nặng vùi hoa
42 Tử Tôn hóa Quỷ, Hiệu Thương chưa đầy năm đã qua đời
Lộc Quý lâm hào, Bái Trú 14 tuổi lên làm tướng
43 Hung sát khắc quẻ Chấn, Lý Lệ Bá 9 tuổi mới biết đi
Cát thần tự cung Càn, Bạch Cư Dị chưa đầy năm đã biết chữ
44 Bát thuần ngoan liệt, Tấn Tử Ngã lòng lang dạ sói
Lục Hợp thông minh, Đường Lý Bạch văn chương cẩm tú
45 Dương tượng, Dương cung, Hầu Tắc vốn người đĩnh ngộ
Âm quái, Âm hào, Tấn Huệ quá độ ngây ngô
46 Long Phụ phù Thân, Tô Oánh dấu đèn đọc sách
Tuế Quân lâm Phúc, Ban Siêu quẳng bút tòng nhung
47 Quan Quỷ chẳng thương, Tào Bân chọn ấn được phong Hầu
Phụ thân hữu khí, Trác Dân bắt đóm cũng thành danh
48 Hào Kim động hợp, khóc chẳng ra hơi
Phụ Mẫu tĩnh xung, con ăn thiếu sữa
49 Dụng vượng dễ nuôi trẻ mập
Chu suy ngoặt ngoẹo trẻ gầy
50 Thân lâm Phụ Mẫu, dưỡng dục khon trì thân khổ
Thế gặp Tử Tôn, cù lao sẽ thấy báo đền
51 Nếu hỏi vinh, khổ, toàn ở Lục thần mà quyết đoán
Muốn phân thọ yểu, nên xem quẻ khác để tường suy
52 Mệnh vượng thì vinh hoa hứa hẹn
Thân suy thì phát đạt khó mong
Ví dụ ứng dụng
Sinh ngày Quý Mùi, tháng Mão dự đoán cả cuộc đời có công danh không
Quẻ chủ: Trạch Hỏa Cách
Quẻ biến: Phong Hỏa Gia Nhân
Do không khá về bốc dịch cho lắm, nên VT vẫn chưa hiểu về các lập quẻ của bốc phệ chánh tông? Dựa vào ngày tháng năm sinh để lập quẻ hay là kết hợp giải quẻ với tứ trụ!???
Mong cô kimcuong giúp đỡ với ạ!
Tôi dùng quẻ Mai Hoa để lập quẻ chủ và quẻ biến, giống như chiêm quẻ ngày giờ hiện tại để hỏi đoán việc xảy ra. Dùng cho ngày tháng năm sinh là 1 cách tiếp cận những gì quẻ Mai Hoa luận đoán. Đây chỉ là khái quát và không chuyên sâu như Tử Bình hay Bát tự Hà Lạc.
Cách thức lập quẻ Mai Hoa đơn giản, nhưng hiểu được nội dung luận đoán cần phải nhiếp tâm vào phương pháp. Có nghĩa là nếu chỉ thử đoán chơi vài thí dụ và nhận định ngay là đúng sai thì không có kết quả gì cả. Thật tế là nhận định này cũng gồm cả việc học Tử Vi hay Tử Bình hoặc 1 môn đoán mệnh nào khác, nếu chỉ muốn biết ngay 1 lá số đúng sai thì tất cả giải đoán sẽ nằm ở bề nổi, khó nắm bắt được sự thật rõ ràng.
Vậy trước khi lập quẻ phải đọc sách từ đầu chí cuối, nắm bắt được nguyên lý giải đoán của phương pháp và hiểu rõ ít nhất 1 ví dụ trong sách. Ngoài ra còn nên đọc qua 64 quẻ của Kinh Dịch.
Dựa vào ngày tháng năm sinh để lập quẻ hay là kết hợp giải quẻ với tứ trụ!???
Có thể kết hợp Mai Hoa (hoặc Bát tự Hà Lạc) để có được thêm 1 nhận định bổ sung cho tứ trụ. Các môn này kết hợp với nhau hầu như tốt, vì sẽ hiểu thêm các thuật ngữ chúng ta thường dùng là "dụng thần, kị thần, cừu thần, nguyệt kiến, nhật thần..v.v..."
38 Muốn biết trẻ con sinh trưởng ra sao, dễ nuôi hay khó nuôi thì lấy hào Phúc đức làm Dụng thần mà suy đoán
chị và mọi người có thể chỉ giúp em cách xác định hào Phúc đức ở đoạn nào ? Em thì thường dùng hào tử tôn.
thiếu bá có tài liệu "Tăng bổ bốc phệ chánh tông" không? Trong đó có ghi rõ:
Cứu Phụ Mẫu suy vi thể thống
Luận Quan Quỷ đoán tác hoạ ương
Tài nãi lộc thần, Tử vi phúc đức
Huynh Đệ giao trùng tất chí, phàm mưu đa trở trệ.
Tài là Lộc, còn Tử (tử tôn) có thể giải khắc Quan Quỉ nên gọi là Phúc Đức. Vậy xét hào Tử Tôn = hào Phúc Đức là đúng.
Còn có câu:
Tử tuy phúc đức, đa phản vô công
Nghĩa là lấy Tử Tôn làm thần phúc đức, nhưng nhiều Tử Tôn quá là phản khắc, tốt trở thành xấu.(Tương tự như luận trong Tử Bình, thập thần nào quá nhiều lộ ra thì giảm đi quí cách, hoặc như quan sát nhiều luận là Sát vậy.)
Em chưa đọc "Tăng bổ bốc phệ chánh tông" nhưng bài quyết này nhiều câu có tính ứng.
Câu 49 "...Chu suy ngoặt ngoẹo trẻ gầy" mong được chị giải nghĩa.
Chu là Chu Tước hành Hỏa. Dù Chu Tước lâm Huynh Đệ hay Tử Tôn bị cho là hung, cũng nên xét phân biệt dụng thần, nguyên thần, kị thần hay cừu thần. Nhưng nói chung thì cơ bản là : "lục thú là suy ra tính tình, hình trạng; cát hay hung thì suy từ sinh khắc của lục thân".
Chào huynh Thiếu Bá!
lesoi trước đây cũng nghiên cứu môn này rồi.
Sách này trước đây có bán Lấy tên Chu Dịch dự đoán học của TVH nhưng khi tôi nghiên cứu thấy các ví dụ sai rất nhiều. Tứ đó, tôi tìm hiểu sách Tăng San Bốc dịch của Dã hạc Lão nhân tra xem thì nó chuẩn hơn nhiều so với sách của TVH. Hiện cả hai Quyển sách này đều có bán trên mạng X Book. Khi đăng ký mua họ mang tới tận nhà. Nói chung theo môn Bốc dịch là lấy theo hai phương pháp:
+ Một là theo ngày tháng năm âm lịch mà dự đoán ( Theo cách Mai Hoa dich số, của Thiệu Khang Tiết);
+ Một là dùng phương pháp xủ quẻ bằng ba đồng xu, của Dã Hạc.
Môn bói toán này dễ nghiên cứu nhưng cần tập trung tư tưởng thật sâu ( xủ quẻ).
Có điều chỉ nghiệm trong thời gian đó thôi. Muốn xem mệnh lâu dài biết cả quá khứ vị lai thì Tử Bình là môn độc đáo, luận ngũ hành rất chuẩn so với các môn kia.
Ông TVH áp dụng luôn cả hai phương pháp Xủ quẻ ( bốc dịch) và Tử Bình để nghiệm chứng.
Anh lesoi, ai đã từng học bốc dịch đều biết "Bốc phệ chánh tông" mới là đệ nhất kỳ thư về bốc dịch, còn cuốn Tăng san chỉ dễ đọc thôi chứ không thể đi sâu được anh ạ, ví dụ thì hoàn toàn chủ quan... Kiến thức bốc dịch mà thiếu bá hấp thụ được ở trong Bốc phệ chánh tông cả. Sách TVH thì em xin phép không bàn, hì.
Cám ơn cô kimcuong, anh lesoi, anh thieuba.
Hiện VT đang tự học bốc dịch trước các môn dự đoán sự việc khác (có lẽ nó dễ hơn kỳ môn), nhung cho VT về các thuật ngữ cơ bản với nhé!
1/ Bốc dịch, bốc phệ, có phải giống nhau không? VT chỉ biết đến quẻ Mai Hoa lấy quẻ từ năm tháng ngày giờ, quẻ tiền gieo, quẻ ký tự, tâm ý quẻ, sự kiện quẻ, nhân tướng quẻ... mà thôi
2/ Vt thấy người ta thường thêm thần sát vào luận quẻ... Vậy cách lấy thần sát như thế nào? (Từ ngày giờ gieo quẻ hay can chi của hào thế?)
3/ Nếu được xin Ban Quản Trị lập thêm một Mục riêng dành cho quẻ dịch được ko ạ?
3/ Nếu được xin Ban Quản Trị lập thêm một Mục riêng dành cho quẻ dịch được ko ạ?
BQT sẽ xem xét đề nghị của bạn VuTham, tạm thời phần thảo luận về Dịch - Bốc phệ - mọi người viết trong topic này.
trân trọng,
menhly
Tôi cũng đồng ý là các bạn tạm thời viết về đề tài chiêm đoán quẻ (bốc dịch, bốc phệ) trong mục Chuyên đề phụ này.
1/ Bốc dịch, bốc phệ, có phải giống nhau không? VT chỉ biết đến quẻ Mai Hoa lấy quẻ từ năm tháng ngày giờ, quẻ tiền gieo, quẻ ký tự, tâm ý quẻ, sự kiện quẻ, nhân tướng quẻ... mà thôi
Bốc Phệ : Bốc nghĩa là bói mai rùa, Phệ là bói cỏ thi.
Phương pháp bói toán khi xưa ban đầu chỉ dùng mai rùa hoặc cỏ để bói.
Dùng quẻ Dịch để giải thích nên gọi là Bốc Dịch.
Mai Hoa Dịch Số thì tương truyền là từ Thiệu Khang Tiết trước tác mà thành. Trong truyện có ghi nguồn gốc chữ "Mai Hoa":
Nguồn gốc tên Mai Hoa số:
Khi chưa đạt, Thiệu Khang Tiết đã dán Dịch lên vách, tâm trí hướng vào đó, mắt nhìn vào đó. Khi đã đạt được cái lý của Dịch rồi, tiên sinh lại muốn tạo các số của Dịch mà vẫn chưa tìm ra được đường lối. Một hôm đang ngủ trưa thì có con chuột chạy qua chiếc gối của tiên sinh, gặm rồi kêu lên mấy tiếng. Con chuột chạy khỏi thì chiếc gối vỡ ra. Trong gối có chữ, lấy xem thì thấy: “Chiếc gối này bán cho Thiệu Khang Tiết, ngày … tháng … năm … chuột cắn vỡ ra.” Tiên sinh thấy lạ vô cùng bèn tìm đến nhà người bán gối để hỏi. Người bán gối nói: Trước có một người tay cầm “Chu Dịch” ngồi nghỉ, lấy chiếc gối lên xem. Chữ này chắc của ông ta đó thôi. Cách đây cũng không lâu lắm đâu. Tôi có biết nhà ông ta. Tiên sinh theo người làm gối đi tìm tới nhà thì biết ông ta đã mất. Nhưng có để lại một cuốn sách và dặn người nhà rằng “ Ngày … tháng … năm … giờ … có một vị tú sĩ đến nhà, thì sẽ trao cuốn sách này cho ông ta. Thế là có thể kết thúc công việc của đời ta được rồi.” Người nhà lấy cuốn sách trao cho tiên sinh. Thiệu Khang Tiết vô cùng vui mừng, đem ngôn từ và bí quyết của “Dịch” suy ra diễn số. Tiên sinh nói với người con của ông già đã qua đời rằng “Khi còn sống, cha anh đã chôn vàng ở phía Tây Bắc giường ngủ, anh cứ đào lên lấy tiền buôn bán và lo việc ma chay”. Người con nghe lời quả đào được vàng. Tiên sinh cầm sách đem về. Sau xem hoa mai thấy chim sẻ tranh giành nhau đoán biết tối hôm sau có người con gái đến bẻ hoa bị ngã rồi bị té gãy tay. Tiên sinh bốc bói đều trúng cả. Hậu thế truyền nhau mà đặt tên là “Quan Mai số” hay Mai Hoa dịch số.
Tất cả đều khai phá ý nghĩa của quẻ Dịch là cơ bản. Chi tiết thêm vào như Thế, Ứng, lục thú, lục thân... đều được sáng tạo thêm.
(Thiệu Vĩ Hoa luận Tử Bình có bốc/bói thêm Mai Hoa hay không, điều này ắt hẳn rõ ràng, vì Thiệu Vĩ Hoa là hậu nhân của Thiệu Khang Tiết dĩ nhiên được truyền thụ phương pháp này.)
1. Đã giàu lại thọ, Thế hào Vượng tướng lại không thương
Không yểu thì nghèo, Thân bị hưu tù, kiêm bị chế
Trì thế hào chủ về sức khoẻ và tuổi thọ, vượng tướng thì khoẻ mạnh, thọ trường. Hưu tù thì kém, có bệnh trong người, lại bị nhật nguyệt động hào xung khắc thì yểu mệnh.
Trì thế hào cũng như cung mệnh trong tử vi vậy, phàm ở đời chuyện sinh tử là quan trọng nhất, thế nên rất cần thế hào vượng tướng, nếu hưu tù thì phải tránh bị xung khắc, được sinh hợp thì còn đỡ. Thân là trì thân (trì thế) không phải quải thân.
Ý nghĩa thế trì hào là như vậy. Còn chuyện phú quý phải xét hào nào trì thế, ví dụ quan quỷ trì thế vượng tướng thì làm quan to nếu không bị phá, tài hào trì thế vượng tướng thì giàu có, phụ mẫu trì thế vượng tướng thì văn chương siêu quần...
2. Thế vào không địa, chung thân tác sự nan thành
Hào thế trì không vong, là sự không thực, là không quan tâm, không để ý.. ví dụ quan quỷ trì thế cho dù vượng tướng mà gặp không vong, thì bản thân vẫn có thể làm quan to, nhưng lại hay chuyển công tác, không cố định, không có đường hướng là tác dụng của không vong này. Hoặc tài hào trì thế gặp không vong, dù vượng tướng thì dễ làm đủ mọi nghề, có thể giàu có nhưng không có chí hướng rõ ràng, giàu nhờ may mắn nhưng không có hoạch định.
Khi tuế quân điền thực, thì tự nhiên năm đó thoát không, có cố gắng, hoạnh định rõ ràng, qua năm đó lại hết hứng.
Nói chung thế trì không vong không cứ phải là hung, nó chỉ là thần sát, ảnh hưởng đến tư duy, suy nghĩ. Sách xưa nói hay quá đề cao không vong, thực tế không phải vậy. Thường không vong ứng với sự “không thực”, không thực thích làm quan, không thực thích kinh doanh, không thực thích học hành, nhưng kết quả thì lại phải nhìn vào vượng suy nhật nguyệt, hào động sinh khắc.
Xem về tài vận
tài trì thế, phụ mẫu trì thế và quan quỷ trì thế là dễ kiếm nhất (chỉ nói đến các trường hợp lý tưởng)
Tài trì thế: bạch thủ thành gia, làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, là điển hình của người tay trắng lập cơ đồ.
Phụ mẫu trì thế: có tài vận nhưng khá vất vả
Quan quỷ trì thế: dễ kiếm nhất vì thê tài sinh thế, nhưng trường hợp này lại dễ bị hoạ quan trường hoặc bệnh tật do quỷ bên mình.
Nhiều thuyết trong bốc phệ cần phải được minh định lại. Nó cũng giống môn tứ trụ, nào là phi thiên lộc mã, củng lộc củng quý, vay mượn từ khắp nơi cho vào một bộ môn thành một nồi lẩu thập cẩm, không ăn thì tiếc, ăn thì.. đau bụng.
1. Chỉ có nguyệt hợp, nguyệt phá, không có nhật hợp hay nhật phá. Hào gặp nguyệt hợp là hào cường vượng, hào gặp nguyệt phá là hào vô công (yếu, vô dụng)
2. Nguyệt kiến chủ sinh khắc, vượng tướng hưu tù tử, nhật thần chủ về thần sát.
Nếu hào vượng tướng, hào động sinh phù gặp nhật sinh thành ám động
Hào hưu tù gặp nhật xung gọi là tán, chẳng có tác dụng gì.
3. Nhập mộ, hoá mộ, hoá không, hoá tuyệt... đều lấy nhật thần mà nói. Nhiều sách cho rằng tính ở nguyệt lệnh, vậy là không đúng.
4. có hai cách xuất không đó là xung hào không hoặc thực hào không. Khi xem nhân mệnh thì dùng chi năm là yếu tố thời gian để xem về cả đời.
Ví dụ quan quỷ trì thế lâm không vong tại dần, nếu thái tuế năm sinh ở vào chi dần hoặc chi thân thì thế hào xuất không điền thực, tức không phải không nữa, lúc này có thần sát của hào thế ngay lập tức phát huy tác dụng. Hào thế có đào hoa gặp lộc, chủ về buôn may bán đắt, gặp thanh long thì có chuyện vui vẻ, hoặc tửu sắc...
Làm người bình thường rất sợ quan quỷ trì thế, vì nó chủ “quỷ” bên mình, làm hay gặp hoạ hoạn, tai nạn. Cần nhất hưu tù ở nguyệt kiến, nhật thần và hào động xung khắc
Sách xưa ghi, tử tôn trì thế hay gặp may mắn, hai từ “may mắn” ở đây ý chỉ cả đời không gặp hoạ hoạn cho quan quỷ gây ra, nhưng cầu quan thì e rằng là khó.
Còn quan quỷ trì thế mà gặp tử tôn động hào xung khắc thì ngược lại, người này chủ về có bệnh được thuốc, có hoạ nạn thì cũng qua, nếu quan quỷ vượng mà tử tôn nhược thì hoạ nạn cũng qua nhưng thường để lại di chứng, còn nếu ngược lại thì cát tường, hoạ có đến cũng chỉ là hoạ nhẹ mà thôi, thậm chí có người còn không cảm thấy gặp hoạ.
Hào ám động
Tịnh hào mà vượng tướng gặp nhật xung thì ám động
Tịnh hào mà hưu tù gặp nhật xung thì xung tán.
* có sách cho rằng hào động hay tĩnh cũng đều có thể ám động được.
Ám động không như minh động, chủ về phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí, may rủi đến một cách bất ngờ.
Hào ám động là một loại thần sát, không thể tác động lên cấu trúc sinh khắc của quẻ dịch sẵn có,
Lấy ví dụ, xem về tài vận mà hào tài vượng tướng lại ám động, ta nên hiểu người này có tài vận bất ngờ. Nó cũng giống như bao loại thần sát khác, như đào hoa nằm đất thê tài thì kiếm tiền dựa vào người khác giới, dịch mã cư thê tài thì kiếm tiền cần sự di chuyển nhiều chẳng hạn.
Xem chung thân cả đời, có nhiều cách lấy quẻ
Như cụ Thiệu Vỹ Hoa thì lấy quẻ nhân mệnh theo năm tháng ngày giờ, trong đó năm tính thiên can, không tính địa chi rồi luận lục hào theo quẻ sẵn có.
Ngài quỷ cốc tử thì lấy lưỡng đầu tạo quẻ dịch, nhưng cách luận thì có vẻ đã thất truyền, các nhà nghiên cứu sau này tự phát triển đưa lục hào vào luận đoán.
Hoặc dã hạc lão nhân thì cứ chơi quẻ 3 đồng xu theo cách nguyên thuỷ, vào ngày đẹp trời khấn đủ chu công, khổng minh... tĩnh tâm gieo đủ 6 lần lấy đó lập quẻ nhân mệnh. Dĩ nhiên cách xem này thì không dành cho người ít tập trung hoặc không có duyên khi lập quẻ.
Dùng cái nào thì quý vị cứ tuỳ hỷ, ai cũng đều có cái lý của họ.
Nhìn chung, quẻ nhân mệnh tốt khi hào thế phải thể hiện ít bệnh tật, khoẻ mạnh, thọ lâu. Người thích danh thì quan quỷ, phụ mẫu phải vượng tướng, người thích tài thì tử tôn thê tài phải vượng. Đó là cái đầu tiên, sau đó xem xung khắc sinh hợp của hào động với hào thế, với hào biến.
Trên fb có tác giả luận như sau
Với các trường hợp xấu, thời điểm Thực không nếu Thế không là thời điểm sự xấu xảy ra, ví dụ:
13/4/1991 13h30' dương lịch
Ngày Quý Sửu tháng Mão
CẤN VI SƠN
--- Quan Quỷ Dần Mộc (Thế)
- - Thê Tài Tý Thủy x Tỵ Hỏa
- - Huynh Đệ Tuất Thổ
--- Tử Tôn Thân Kim (Ứng)
- - Phụ Mẫu Ngọ Hỏa
- - Huynh Đệ Thìn Thổ
Thế tuần không mà Nguyên thần động hóa tuyệt, năm 2016 tức năm Thân, cuộc đời xuống hẳn, vì năm đó xung Không thực Thế để chịu việc Nguyên thần hóa tuyệt mà suy
————————
Xem quẻ nhân mệnh, nguyên thần hào thế rất quan trọng, tý thuỷ thê tài động hoá tuyệt, lại hợp nhật thần sửu thổ hợp trói, hoàn toàn không phát huy được năng lực sinh hào thế. Rõ ràng là mệnh khó kiếm tiền, năng lực không tốt.
Cậu này lại là người bình thường, không phải người làm quan, nên hào thế quan quỷ vượng là một điều nguy hiểm, lúc này tuần không làm cho hào trì thế lánh nạn, nhưng lúc thực không là sự gian nan ập tới liền.
Xuất không điền thực
Hào gặp không vong, chỉ không còn không vong khi nhật thần, nguyệt kiến lâm hào hoặc xung hào, hoặc hào đó động, hoặc hào động xung hào không vong, thái tuế lâm hào hoặc xung hào. Tất cả những trường hợp đó đều là bất không.
Như sách tăng san bốc dịch cho rằng hào vượng không phải không là không đúng, hào vượng chỉ là trạng thái tốt, chờ xuất không thì sự việc mới ứng nghiệm và nếu là dụng thần thì có trạng thái tốt, kị thần thì hung. Hoặc nhật nguyệt sinh hào, hào động sinh hợp hào không vong thì vẫn chỉ là trạng thái của hào đó tốt, khi vào thời điểm xuất không thì việc đó sẽ hiển hiện.
Xem quẻ nhân mệnh, phải xem kỹ về không vong, nếu hào tài gặp không vong thì khá hung, trừ khi xuất không điền thực, không thì cả đời khó kiếm tiền.
Vậy nên thấy không mà có thể là bất không, phải xem kỹ có xuất không điền thực hay không.
Thế cư không vị, chung thân tác sự nan thành
Câu này không nói rõ, dẫn đến về sau này nhiều trường phái mổ xẻ, rồi cách luận khác vì cái câu này. Thế lâm không vong, thì cả đời sẽ không có, không thực về cái mà nó đóng.
Ví dụ: thê tài trì thế lâm không vong, thì cả đời không có tiền, nhưng họ vẫn có thể có bằng cấp, địa vị, tiếng tăm chứ không nên hiểu là việc nào cũng không thành.
Sách bốc dịch cũng có một câu khác
Chiêm quốc vận 1 năm mà không có hào huynh đệ và quan quỷ hoặc cả 2 lâm không vong là quốc thái dân an.
Vì sao lại thế? Huynh khắc thê tài và quan quỷ là thần bệnh tật, không có hoặc lâm không vong thì yên tâm là an yên mà sống.
Không vong nó chỉ là tượng, tuy nhiên nếu chiêm quẻ nhân mệnh thì cũng kị hào thế không vong, nếu lại vào tử tôn hay thê tài thì kém lắm, vì tài là nguồn dưỡng mệnh, tử tôn là thần phúc đức, không có một trong hai đều không thể là tốt được, chỉ có quan quỷ và huynh đệ là thích không vong mà thôi.
Các trường phái bây giờ, khi chiêm nhân mệnh còn nói hào thế không vong là tâm mông lung, không có định hướng là không đúng. Ví dụ thê tài trì thế, thì bản thân cả đời truy cầu tiền bạc, nhưng lâm không vong thì thật không may là không có, cứ tiến đến cái đích mà không thể đạt, đó là ý nghĩa của không vong vậy. Lúc này cần các cát thần khác để giải bớt cái xấu của không vong, như gặp trường sinh, đế vượng, lộc, mã, quý nhân, thanh long thì dù không được nhưng tâm thấy an nhiên, vui vẻ, không được cái này thì được cái khác. Nhưng lại gặp thêm nhiều hung sát, tử tuyệt thì nguy.
Nếu chiêm việc gần, thì vượng tướng không sợ không vong, vì đợi xuất không là sẽ không còn không vong nữa.
Nhưng nếu chiêm nhân mệnh, vượng tướng gặp không vong thật là một điều phí phạm, giống như xe pháo mã đầy đủ mà đình chiến liên tục, tiền tài thì nhiều mà không phải của mình, tiếp xúc với tầng lớp sang quý mà ta chỉ là người giúp việc... trừ khi thái tuế xuất không điền thực, không thì kém lắm.
Cho mình hỏi diễn đàn mình có tài liệu về Chiêm Bốc quẻ Văn Vương không nhỉ?
bản thân mình không thích mai hoa dịch số của họ Thiệu lắm.
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.