View Full Version : Bàn về cung Mệnh
Nhân có câu hỏi của Vũ Tham về cung mệnh và đây cũng là chủ đề thacmoc rất quan tâm, nên xin chị Kimcuong cho phép thacmoc “sắp xếp” lại bài “Phép tính cung Mệnh” của chị và các bàn luận của các thành viên trong diễn đàn trước thành một bài viết hoàn chỉnh để thấy được vai trò quan trọng của cung mệnh trong phép giải đoán Tử Bình. Ở đây, không có lập luận nào là của thachmoc cả.
Nhập đề, chị Kimcuong đã viết rằng: Cung Mệnh không được nhiều người chú trọng sử dụng trong luận giải, dù rất nhiều sách cổ đã đề cập đến phần quan trọng này. Nhiều mệnh lý gia chỉ dùng đến Cung Mệnh khi không tìm ra được lời giải ở tứ trụ. Nhưng thế cũng cho thấy Cung Mệnh chiếm 1 phần đáng kể trong hệ thống giải mệnh của Tử Bình.
Vì sao Cung Mệnh không được thông dụng, mà thường chỉ có 1 vai trò kết luận sau cùng? Có lẽ tại lý do duy nhất là sự trình bày về lý thuyết cung Mệnh trong các sách rất sơ sài giản lược và không có thí dụ dẫn chứng, nên đã tạo ra ngần ngại khi luận giải.
Như trong Tam Mệnh Thông Hội có 1 câu giản lược:
"Thần vô miếu vô sở quy, nhân vô thất vô sở tê, mệnh vô cung vô sở chủ, cố hữu mệnh cung chi thuyết."
Hiểu câu này như sau: Thần thánh không có miếu thờ thì không có nơi về, giống như người không có nhà ở thì không có chỗ nghỉ ngơi. Vì vậy mệnh số phải có cung an tọa. Hiểu rõ hơn, tứ trụ (cả 8 chữ) xem như là một người cần phải có nơi để nương náu, như thần thánh thì ngụ trong đền miếu vậy. Người mà không có nơi trú ngụ giống như mệnh số không có cung để trở về.
Còn nữa.
(Nếu chị Kimcuong cho phép, Thachmoc sẽ đăng tiếp bởi đây là nghiên cứu riêng của chị và một phần dành cho lớp học)
thachmoc và mọi người cứ tự nhiên bàn luận cho rõ.
(tiếp, kimcuong viết)
Uyên Hải Tử Bình cũng thuyết rằng cung Mệnh của tứ trụ giống như bộ não của người, toàn bộ tư tưởng hành vi thể hiện ra của người là do cung Mệnh. Trong Mệnh Lý Thám Nguyên và Tam Mệnh Thông Hội đều chỉ dẫn cách tìm cung Mệnh từ tháng sinh cộng với giờ sinh.
Đấy là cổ nhân khi trước chỉ nương vào tiết khí lệnh tháng mà tính, nên các tên tiết khí đặt ra là chỉ đặc điểm của mùa đương vượng, như Vũ Thủy là thời gian mưa ẩm sau tiết Lập Xuân, hay Hạ Chí là thời tiết vào giữa mùa hè nóng nực. Sau này mới được ghi nhận thêm với dương lịch (thật tế là 1 lọai âm-dương-lịch) và các tiết khí này ứng với quan điểm khí mùa của phương tây trong hệ thống của 12 cung hoàng đạo. (Các bạn tìm đọc thêm đề tài 24 điểm trên quỹ đạo của trái đất xung quanh mặt trời.)
Xét theo thời gian mà chúng ta đang hiện hữu, thì tiết mùa và mệnh cùng song hành theo chiều đi tới, còn giờ sinh của chúng ta được xét trong mối tương quan đó theo chiều nghịch. Đó là hình ảnh của "mệnh" biểu thị rõ ràng có 2 chiều âm dương cùng vận hành, 1 chiều dương (hiểu là luôn đi tới) và 1 chiều âm (luôn nghịch chiều). Hai chiều này cùng vận hành tới 1 thời điểm đứng lại, gọi thời điểm đó là "mệnh". Âm Dương được thể hiện bao quát trong tất cả mối quan hệ đều phải có tính chất cùng vận động thì mới gọi là đúng với sự hiện hữu của vũ trụ tự nhiên như thế.
Mục đích của cung Mệnh không khác gì hơn là tìm bổn mạng chính của người, vì thời gian khi sinh ra đời, thái dương ngự trị ở nơi đó. Măt trời đại biểu cho sự thịnh vượng, sáng sủa, minh bạch, là điểm chỉ đạo cho ta hành động và hướng về. Tìm ra cung Mệnh để hiểu các ý nghĩa của thời gian đích thực khi ta sinh ra là như vậy.
Hãy quan sát giờ sinh Tí ở tiết lập đông là lúc giờ sinh và mùa sinh cùng hành Thủy. Cung mệnh được tính là ở vị trí Ngọ, đối xung với Tí, vì lúc này Hỏa tuyệt. Khi sinh giờ Ngọ thì cung mệnh ở Tí, tức là vẫn có đối xung trực tiếp nhau, và lúc này thì Thủy đến nơi đế vượng nhất.
Từ mốc này mà định các vị trí khác. Ta thấy rõ ràng là ngũ hành đóng vai trò cùng với Âm Dương rất sát sao, nguyên lý ngũ hành sinh vượng tiến thoái vì thế được thể hiện rất rõ ở cung mệnh.
(tiếp, kimcuong viết)
Nhưng cho tới nay không có ai xét gì thêm về cung mệnh. Tất cả đều nói lý thuyết mà thôi. Ngay chính trong Tích Thiên Tủy bình chú sau này cũng chẳng nhắc tới. Có lẽ có những điều mà những đại cao thủ viết sách là một chuyện, nhưng có những điều chỉ truyền lại cho học trò thân nhất của mình mà thôi. Mà điều này chúng ta cũng thấy là phổ biến ở thế giới Lý Số. Chẳng có ai, chẳng có thầy nào ghi chép lại đầy đủ các chi tiết để luận số mệnh, bởi vì có thể "thiên cơ bất khả lậu" chăng....
Kinh nghiệm của KC khi xét cung mệnh như thế là 1 biểu lộ như mọi vai trò khác của địa chi trong tứ trụ. Vì nó chính thể là "địa chi" nên không có gì phải suy nghĩ khác hơn là xét các tương tác của nó với địa chi trong trụ.
Cung Mệnh có thiên can và địa chi, tất phải chịu luật sinh khắc cùng với tứ trụ. Vì thế, luận cung Mệnh giống như luận các trụ khác trong tứ trụ vậy. Với những tương quan khác như Xung, Khắc, Hình, Hại, Phá giữa địa chi Cung Mệnh đối với địa chi trong các trụ, hoặc với đại vận, lưu niên, cả tháng ngày giờ hiện thời, đều lấy thập thần mà luận cát hung. Mức độ giảm khinh tùy theo thân vượng, nhược và môi trường đang sinh sống, kể cả sự kiện sống chung với người khác (gọi là cộng nghiệp).
Đầu tiên thì phải xét Mệnh với mùa sinh, như đã nhận thấy, cung mệnh có thể vượng hay suy. Như sinh giờ Ngọ ở tháng Hợi (lập đông) thì mệnh tại Tí, thì Tí tàng Quí, Quí tọa đế vượng là ngôi cao nhất trong ngày. Nếu trong trụ có Thân Thìn thì có thể xét tam hợp hình thành, luận thêm về Thủy mạnh hay yếu trong tứ trụ.
Dĩ nhiên phải hiểu là sinh tháng mùa đông cần điều hậu, có Ngọ là tốt rồi, nhưng Thân Tí Thìn tam hợp là cản trở bớt dụng thần điều hậu này.
Như thế mới gọi có chỗ đứng thực sự của cung Mệnh. Và ta thấy rõ ràng là các nguyên lý không có gì lại không thông qua qui tắc "ngũ hành bình hằng" cả.
Có thể xét cung mệnh dưới vai trò phụ lực cho tứ trụ, một là để làm sáng tỏ một ngũ hành nào đó thực sự sinh vuợng hay không, hai là giúp chọn đúng dụng thần. Chẳng hạn như tứ trụ thiên về Hỏa vượng mà chưa xác định được tòng hay không, thấy cung Mệnh Tuất thì khả năng là nhiều hơn, vì trong Tuất có Đinh hỏa, vả lại Tuất là Mộ của Bính, thường gọi là "hỏa khố".
Có thắc mắc của anh Sonthuy (thành viên diễn đàn) về mâu thuẫn giữa vai trò của trụ ngày và cung mệnh. Chị Kimcuong trả lời: Trụ ngày biểu hiện nhiều sự việc hơn là cung mệnh, trụ ngày là cung thê, gia đình, cả tài chính, nhà cửa, nơi trú ngụ lâu dài. Còn cung Mệnh đã do chữ "mệnh" mà có ý nghĩa toàn năng hơn, có thể nó chính là tinh thần, hành vi tư tưởng thật đấy. Cứ thử kiểm chứng. Nếu Mệnh bị hình hại thương khắc chẳng hạn, hoặc bị tiết khí quá mức thì có thể gây bịnh cho tứ trụ.
Nếu như xét Cung mệnh là trụ thứ 5 ngoài tứ trụ, anh Thiếu Bá cũng nêu ra việc xét các ưu tiên tương tác giữa các trụ như thế nào và có thể xét được cung mệnh với vai trò bổ khuyết hành mà tứ trụ không có không? Theo chị Kim cương hẳn là việc xét (cung mệnh + tứ trụ) bình thường như đã làm và tính thêm ngũ hành của cung mệnh. Như thí dụ trong tứ trụ đã có Dần, Ngọ và Hỏa khí thịnh vượng nhất, nếu cung mệnh là Tuất thì việc chọn Hỏa làm đề cương cho tứ trụ là rõ ràng hơn. Trừ phần Hợp Hóa thiên can địa chi. Vì thế đúng là có tính đến việc bổ khuyết ngũ hành nếu tứ trụ bổn thể không có. Đây là điểm rất mới mẻ hầu như chưa có ai tính, các bạn hãy cẩn thận nghiệm lý nhiều hơn để xác định phần thiết yếu thực sự của cung mệnh.
Thêm vào đó, khi cung mệnh gặp thiên khắc địa xung, phục ngâm (thiên đồng địa đồng: can chi giống nhau) có thể dẫn tới các tác động như chuyển nơi ở, ly hương, tai họa, bệnh tật, thậm chí tử vong. Đặc biệt nếu đại vận, lưu niên và Cung Mệnh có động như thế, thường có vấn đề về sanh tử.
Các bạn hãy suy nghĩ lại các điểm khác biệt đó trong tứ trụ của mình khi xét lại với cung Mệnh, đôi khi sẽ giải tỏa được nhiều thắc mắc bấy lâu nay. Có 1 thí dụ về cung mệnh không cứu giải tứ trụ, như tình trạng đương số bị bịnh không có thuốc giải vậy:
Nam sinh 1.8.1961, giờ Mão, tiết Tiểu Thử, cung mệnh ở Mùi
Tài-----Ấn---------------Tài
Tân.....Ất.....BÍNH.....Tân
Sửu....Mùi....Dần......Mão
kỉ-------kỉ------giáp------ất
quí-----đinh---bính---------
tân-----ất-----mậu---------
Dưỡng.Suy....TS........MD
Cung Mệnh là Ất Mùi, trùng với trụ tháng thiên khắc địa xung với trụ năm. Tân kim ở trụ giờ cũng bị hợp. Kể như Tài kim mất dấu tích trong trụ. Bính hỏa sinh tiểu thử là Hỏa vẫn còn vượng khí, lại trường sinh ở Dần, có Mão mộc thổi thêm hơi sức. Nói chung tứ trụ rất cần Nhâm, Canh giải cứu. Cung mệnh lại cho thấy vị trí của Mộc Thổ rất vượng. Vượng quá hóa suy. Vận Giáp Ngọ, năm Mậu Ngọ 1978, đương số bị bịnh qua đời.
Đấy là 1 cách giải thích được vị trí cung Mệnh làm mạnh thêm kị thần của trụ. Hoặc nói cách khác, Kỉ trong Mùi quan đái, sự "hung hăng" của tương tác Sửu-Mùi xung ngay ở trụ năm là những năm đầu đời càng lớn. Quả là số yểu mệnh thấy rõ.
Nói "cung mệnh là chủ của tứ trụ (mệnh vô cung vô sở chủ)" là cũng theo nghĩa này, chứ không phải là phương vị hay nhà cửa của đương số.
(Hết)
Cô KC cùng các bạn thân mến, cho đến giờ này khi ứng dụng Mệnh cung, lesoi cũng chưa thấy ứng nghiệm nhiều. Vì có một vài ví dụ khi tứ trụ cùng phối hợp với Mệnh cung ( cho là trụ thứ 5) thì có trụ thân nhược, nhưng nếu phối vào cung Mệnh thì lại là không nhược; khi phán đoán sẽ dễ sai lầm.
Vì thế theo lesoi nếu luận cung Mệnh thì luận riêng, và xem nó như là ngôi nhà của Tứ trụ ẩn náu suốt cuộc đời vậy. Sau đó, đến đại vận hoặc lưu niên thì phối riêng với cung mệnh ( coi như là đại diện cho tứ trụ), về phần này thì le soi chưa nghiệm chứng cho nên cũng chưa biết ra sao? Các bạn thảo luận để cô KC là người nghiên cứu lâu sẽ đàm luận cùng với chúng ta vậy.
Chào các bạn!
Ngoài tài liệu của cô KC trong lớp nhập môn, tôi tra trên mạng thấy rất ít tài liệu nói về Mệnh cung. Chỉ có Tam Mệnh thông hội thì chỉ nói như câu đầu dẫn mà Thạch Mộc đã nêu. Gần đây tôi lang thang trên mạng của TQ, thấy có một tài liệu nói về Cung Mệnh và Thai Nguyên.
Tôi sẽ post lên luôn để chúng ta cùng nhau trao đổi:
Mệnh cung
Mệnh cung, là nơi trú ngụ của nhân mệnh. Phép khởi đầu vốn lấy từ vị trí Tý là tháng 1, Hợi là tháng 2, Tuất là tháng 3, đếm nghịch đến Sửu là tháng 12 thì dừng lại. Sau đó cho giờ sinh rơi vào chi của tháng sinh, đếm thuận đến Mão, Mão chính là Mệnh cung. Thiên can của Mệnh cung theo phương pháp lấy tháng theo thiên can của năm sinh để xác định thiên can của Mệnh cung.
Như người sinh năm 1998, tháng 5, ngày 7, giờ Dần. tra cứu Tý là tháng 1, Hợi là tháng 2, Tuất là tháng 3, Dậu là tháng 4, Thân là tháng 5, sau đó ở tại Thân thượng khởi giờ Dần, Dậu thượng khởi ở giờ Mão, thì Dậu là chi của Mệnh cung. Lại xem năm 1998 là năm Mậu Dần khởi nguyệt pháp, vị trí Dậu có thiên can là Tân, thì Tân Dậu là Mệnh cung.
<< Tam Mệnh Thông Hội >> thuyết:"Thần vô miếu vô sở quy, nhân vô thất vô sở tê, mệnh vô cung vô sở chủ". Mệnh cung cần phải sinh vượng mà không nên suy, cần phải cùng với Niên mệnh tương sinh tương hợp, không nên hình xung, khắc hại.
- Cung Tý Sửu hợp thành Thổ tinh, sinh ở cách này thì lấy Thổ làm chủ. Là người có tài thiên về chuyên môn, nên thích hợp theo các ngành như nông lâm, khoáng sản, đường sắt, công trình, địa chất, kiến trúc, trình độ nhất định cao.
- Cung Dần Hợi hợp thành Mộc tinh nên lấy Mộc làm chủ. Là người thích hợp với các ngành như pháp luật, kinh tế, y học, có lợi cho cộng đồng cùng các việc làm từ thiện đoàn thể như ở tôn giáo, trường học, y viện, xã hội.
- Cung Mão Tuất hợp thành Hỏa tinh cho nên lấy Hỏa làm chủ. Là người thích hợp với các ngành như khoa học tự nhiên, có lợi cho công nghệ hóa chất, cơ giới, kiến trúc, công trình bằng gỗ, công nghiệp quốc phòng.
- Cung Thìn Dậu hợp thành Kim tinh cho nên lấy Kim làm chủ. Là người nhiều tài nghệ thích hợp với các ngành như nghiên cứu luyện tập văn nghệ, thư họa, âm nhạc, kịch vui, điêu khắc, vàng đá, trang sức cùng có liên quan đến môn học về mỹ thuật.
- Cung Tị Thân hợp thành Thủy tinh cho nên lấy Thủy làm chủ. Là người thông minh tài trí, thích hợp với các nghề như văn khoa, có lợi cho sự nghiệp văn hóa giáo dục. Như cách cục thấp thì tinh thần hay nhiều sầu muộn.
- Cung Ngọ thành Thái dương, sinh ở cung này là người có trí thức về nông công thương, lợi nhất là chính trị, thành tựu nổi bật xuất sắc, nhưng cách cục bất lợi, có thể phát sinh bệnh tim.
- Cung Mùi thành Thái Ấm, sinh ở cung này là người có tính tình hay tự đắc, thích hợp thương mại, tiến hành vận tải đường thủy, mang tính kinh doanh lưu động về công thương nghiệp, hoặc làm bệnh viện khoa sản cùng đảm nhận y tá. Lập mệnh cung này, thường biểu hiện có tính khiêm nhượng.
- Cung Tý, là sao Thiên Quý, chí khí bất phàm, giàu có may mắn thuận lợi. Người nhập Tý cung, thái độ vui sướng, văn nhã động lòng người, cả đời hết sức tiêu cực cùng biểu hiện chán đời. Bằng hữu kết hợp, nhớ đến bạn cũ thâm tình; phu phụ theo nghiệp hát ca, kéo dài ưu ái; thông minh chân thực hơn người vậy. Có khi lập dị khác người, lời nói phát sinh quá mãnh liệt, hoặc sự tình phán đóan, tự mình bất đồng ý kiến, không khỏi chủ quan quá mạnh mẽ, dẫn đến tính tình quái gỡ. Song, ý chí kiên cường, vẫn là ưu điểm. Luận sự mà không luận người, không suy nghĩ ân oán chuyện cũ, có phong độ khoan dung độ lượng. Như phùng Tuế Vận không tốt, phương diện sinh lý có thể ảnh hưởng bệnh tim, hoặc có triệu chứng bệnh hoạn về đường máu huyết, tinh thần hay chán ghét, có triệu chứng giật mình, tim đập mạnh lo lắng không yên.
( còn tiếp)
( tt)
- Cung Sửu là sao Thiên Ách, trước khó khăn sau tốt, vất vã xa quê hương, về già mới tốt. Người nhập Sửu cung, thái độ vui vẽ, chí hướng bồng bột, rất mừng lập công. Cả đời tràn ngập của rơi to lớn, khẳng khái nhảy vào khó khăn, bất kể lợi ích bản thân. Duy chỉ có tốt là hay ngạo mạn, kiêu căng cùng có thái độ hay giáo huấn con người, dường như trời sinh đạo đức có dư, đối với kẻ khác thì hay tin tưởng, tôn kính, ca ngợi mà không phản đối. Có khi loại này hành động, hoặc vừa có thể tin người, giành được xã hội kính ngưỡng một thời, rút cuộc để tài năng quá lộ, kiêu căng quá mức, cuối cùng gánh lấy oán hận mà nhận lấy sự hãm hại mang theo, đủ để trở ngại sự nghiệp tiến triển. Như gặp Tuế Vận không tốt , phương diện về sinh lý hoặc có bệnh hoạn phong thấp, đầu gối bị liệt yếu, phổ biến là bệnh bàn chân mềm nhũn, cùng triệu chứng ngoài da bị ẩm ướt, nổi mụn trên da.
- Cung Dần, là sao Thiên Quyền, người có năng lực đức độ, thông minh, trung niên có quyền bính. Người nhập Dần cung, bản tính cương nghị, ánh mắt sắc bén, có nhiều năng lực chạy nước rút, tìm kiếm nhanh đường tắt để đạt mục đích. Kiêm có tính tình hoạt bát, tinh thần lời ăn tiếng nói làm cho kẻ khác có ấn tượng khắc sâu, mặc dù là ở thời niên thiếu đã có thể tự mình thấy như không có chuyện gì, giống như không thể cùng người cộng hưởng mà thành, mỗi lần áy náy ở trong lòng vẫn không đánh mất phong độ làm người. Vốn là lấy giao du rộng rãi, nhân duyên cực tốt, về già mưu kế về ẩn cũng không có dao động. Như tuế vận không tốt, về phương diện sinh lý có thể ảnh hưởng dưới tứ chi và bàn tọa ( mông), giống như bị mụt nhọt ung thư, đàm thủy kết tụ, ẩm ướt đầy ắp mà tích lũy ung thư, cùng giống như triệu chứng huyết dịch không thanh.
- Cung Mão là sao Thiên Xá, khảng khái thông tài, được mùa quyền lực thì cần nên khiêm nhường là trên hết. Người nhập Mão cung, thiếu thì thể chất suy nhược, thanh niên có thể chuyển thành cường kiện, nên huyết khí phương mùa cương bởi vì thần kinh vô cùng nhạy cảm, tức giận dễ dàng nhất, những nguyên nhân nhỏ nhất gây thành tranh chấp kinh nghiệm là không ít thất bại. Cho nên, bản thân sau khi trưởng thành tính cách biến đổi là nghiêm khắc, bản thân tiết kiệm, tự ràng buộc trong khuôn khổ, để năng lực bản thân tự phấn đấu giải quyết. Năng lực quan sát đặc biệt mạnh mẽ, ở người ở sự việc có thể ra vẽ nhìn thấy bề sâu, thiện ác phân minh như thấy được gan phổi, cho nên dễ hấp dẫn thu hút người đồng tình. Mà ở đời người hiểu rõ, tìm tòi giới tự nhiên cũng có ở mệnh tạo ra sự quái gỡ. Đặc điểm của Mão cung là do ở chỗ này. Như gặp tuế vận không tốt, về phương diện sinh lý có thể bị ảnh hưởng bộ phận sinh dục, phát sinh các loại triệu chứng như bệnh sỏi thận, trĩ bị lỡ loét, lòi trĩ, huyết độc.
- Cung Thìn là sao Thiên Như, việc nhiều chồng chất, cơ mưu tháo vát. Người nhập cung Thìn, tính cách ôn hòa, dáng vẽ bề ngoài mẫu mực, trí thức, hành động nho nhã, lễ phép. Là người vui vẽ trong việc sắp xếp phân giải tranh chấp, suy nghĩ chu đáo, bố trí sắp xếp cân đối, khiến cho sự việc đôi bên có thể được hài lòng, mãn nguyện. Có lúc gặp nhu cầu, thì đứng ra giúp đỡ, khắp nơi đều yêu thương quá mức mà bản thân lại không có chú ý, trái lại khiêu khích thị phi day dưa. Đặc biệt là ham muốn phụ nữ, càng hăng hái ứng phó, sau đó nếu lừa gạt nhẹ nhàng đồng ý mà dẫn tới sự mỉa mai, cũng bị phớt lờ thương hại, tác phong loại này, nhận thấy tùy theo hòa thuận, thiếu khuyết mà quyết đóan, kỳ thực là do bản tính sai khiến. Như gặp tuế vận không tốt, về phương diện sinh lý có thể bị ảnh hưởng đến bộ phận của thận, thủy hỏa bất tế, sống lưng yếu đuối cùng các loại chứng bệnh về tỳ, thận phát sinh.
(tt)
- Cung Tị là sao Thiên Văn, văn chương chấn phát, nữ mệnh có chồng tốt. Người nhập cung Tị, thái độ trầm tĩnh, suy nghĩ nhỏ nhặt, tiểu tiết, hay vạch lá tìm sâu, phát cáu thiếu sót, dù là người thân gần kề cũng nhiều sợ hãi khi tiếp cận, sinh hoạt đơn độc, kỳ là khuyết điểm, mắt không phải nói, nhưng nổi bật là không mất từ bỏ sự điều khiển của mình. Ảnh hưởng rất lớn là quyết hành động tập trung vào chuyện nhỏ nhặt mà coi nhẹ việc lớn, khinh trọng thích hợp, đặc biệt là dù ở con đường phía trước có trở ngại. Cũng may người lập mệnh ở cung này, tâm tế phát triển, thủ đoạn khôn khéo, xử sự không lộn xộn, nếu đảm nhận là thương nhân buôn bán, năng lực hết sức tích ít thành nhiều, tiền đồ không có định lượng. Bình thường quá lo lắng, dễ có thể gây nên não bộ bị bệnh nhẹ. Như gặp tuế vận không tốt, thì bị ảnh hưởng phần bụng, mắc bệnh đường ruột, dạ dày, tiểu tiện bị bí, tiêu chảy, bệnh kiết lỵ các loại.
- Cung Ngọ là sao Thiên Phúc, vinh hoa, mệnh tốt. Người nhập Ngọ cung, trời sinh có đủ sang quý, có dã tâm hòa nhã thiết tha đặc biệt. Hơn nữa có ý chí kiên cường, mà còn khinh thường không sợ hiểm trở, có dũng khí đả thông hết thảy trở ngại, nhưng mà có khi hết sức kiêu ngạo mà là mưu tính quá mức trở nên nổi bật, thì lại không có một chút khuất phục để cầu việc lớn. Bình thường cư xử hóa ái dễ gần, cũng không có lung lạc thủ đoạn, lấy lòng người khác đem lại lợi ích cho bản thân phát triển. Giả sử dứt bỏ, loại trừ tính kiêu căng, bản thân sẽ có một ngày thành công. Như gặp tuế vận không tốt, về phương diện sinh lý có thể bị ảnh hưởng bộ phận thắt lưng, phát sinh đau buốt cột sống, phong thấp, bệnh viêm gan các loại.
- Cung Mùi là sao Thiên Dịch, cả đời vất vả, xa quê mới an nghiệp. Người nhập cung Mùi, nhất cử nhất động ở tính khiêm nhượng trong thái độ hay bẽn lẽn, xấu hổ, ngượng nghịu, giống như lá nhút nhát, nhưng tính cách thì mẫn cảm mà dễ phát sinh phẫn nộ; bề ngoài là nhu thuận, bên trong nội tâm thì rất kiên cường, không dễ dàng tiếp nhận ý kiến người khác. Là người làm việc chặt chẽ, cẩn thận, công tác cẩn thận, là biểu hiện hành động đều tốt. Hợp lại có lực lĩnh ngộ rất tốt cùng với có khả năng quan sát tốt, thích trầm tư, lực tưởng tượng sinh động phi thường, nhưng dễ dàng sa vào sắc đẹp phụ nữ, cần phải chú ý nhiều. Như gặp tuế vận không tốt, về phương diện sinh lý có thể mắc các loại bệnh như nấc cụt, tiêu hóa không tốt.
- Cung Thân là sao Thiên Cô, không nên kết hôn sớm, nữ mệnh thì cản trở chồng. Người nhập Thân cung, có đủ hai tầng tính cách, tâm lý khó được thăng bằng, do đó có khi đầy đủ tự tin lạc quan, có khi thì nghi ngờ, thất vọng. Có thể lấy về phương diện tâm linh cực kỳ nhanh nhạy. Như thảo luận về vấn đề mưu kế, mỗi khi có thể đề xuất sáng kiến không giống bình thường. Phong thái lời nói biểu lộ rất tốt, cho nên phát huy lực hấp dẫn đủ để cấu thành nên địa vị trong xã hội. Nếu luận tiền đồ sự nghiệp thì ứng với có thủy có chung, không thể bỏ dở nửa chừng. Như gặp tuế vận không tốt, về phương diện sinh lý cần đề phòng hai bộ phận ngực và phổi, phát sinh ho khan, ho suyễn, khí ách cùng hô hấp khí quan có tật bệnh.
- Cung Dậu là sao Thiên Bí, tính tình cương trực, có lúc gặp chuyện thị phi. Người nhập Dậu cung, thích trầm lặng, tĩnh mịch, suy nghĩ sâu sắc, tâm địa lương thiện, trung thực đáng tin, duy chỉ có khi hay biểu hiện tính táo bạo, cố chấp có thành kiến. Ở thời niên thiếu, hãy còn có biểu hiện tính ngang ngạnh, mãi đến tuổi trưởng thành thì có tính chủ quan quật cường, dần dần lâu ngày có hành động toại nguyện không khỏi ngông nghênh. Cuối cùng nhờ bạn bè can gián, tùy thời khuyên nhủ, chắc chắn bản thân sẽ chuyển đổi, nếu không sa vào bảo thủ, cố chấp tự cho là đúng. Lại là cả đời một thân giàu có lớn tự nhiên có quan hệ tốt, nổi tiếng khắp nơi, vui mừng nơi sơn thủy, Khi thất ý cố gắng hết sức để vượt qua mà bản thân có thể tẩy trừ phiền muộn cũng được vậy. Về phương diện Sinh lý như đến tuế vận không tốt thì có thể bị ảnh hưởng đến bộ phận yết hầu, phát sinh viêm khí quản, tâm trạng không yên.
- Cung Tuất là sao Thiên Nghệ, tâm tính ôn hòa, nghệ thuật nổi tiếng. Người nhập Tuất cung, cử động nhanh nhạy, công tác nhiệt tình, tinh thần dũng cảm. Đối với sự việc, một khi kế hoạch an bài xong, liền lấy toàn lực mở rộng thực thi, tuyệt không chần chừ lo ngại. Nhưng thiếu khuyết tính nhẫn nại, chính là sở đoản, cho nên cần phải khống chế sự tự tiện, không để nóng nảy sai khiến, có thể toại nguyện đưa vào quỹ đạo, để tạo thành công. Nói chung, bản tính là người hiếu động, kích động ngẫu nhiên, nếu như không phải nãn lòng thoái chí thì ngày càng táo tợn hơn, từ trước ra sau kết cục chưa hết thất bại, cũng thuộc được mất thất thường, ứng với lấy suy nghĩ bình tĩnh, làm kỹ càng suy xét chu đáo là cần thiết. Như gặp tuế vận không tốt, về phương diện sinh lý có thể bị ảnh hưởng bộ phận đầu,bệnh tật các loại như bị choáng, mắt mờ, trúng phong, tư tưởng thác loạn, răng, gân đau đớn.
- Cung Hợi là sao Thiên Thọ, hiền lành, sáng suốt, tự kìm nén mình, hay giúp người. Người nhập Hợi cung, tình cảm cực kỳ nồng hậu, thần kinh nhạy cảm, do đó đối xử với người và vật một lòng nhiệt tình mà sự việc vượt quá phân chia thì để vượt qua ngoài lý trí, trái lại dễ dẫn đến hiểu lầm, làm cho người khác trách móc. Là người có bản chất thực là khiêm nhượng, hay hoài niệm, mà có thể tăng thêm để tu dưỡng, mưu kế sự việc hơi trầm xuống thì tình thế nhiều thông đạt. Đến cả đời không có tài sản cá nhân, nguyện vọng cùng thân hữu tương đồng ở tại cõi ẩn dật, không màng sự đời, tâm ý tốt đẹp. Như gặp tuế vận không tốt, về phương diện sinh lý có thể bị ảnh hưởng toàn bộ thân thể, hoặc nguyên nhân cảm mạo mà thành chứng bệnh thống phong, hoặc các chứng bệnh do huyết dịch có độc mà hóa phù thũng lở loét, cùng với bệnh viêm khớp, thân thể tê dại.
Mệnh cung có mang theo Hoa Cái cùng Không Vong, đồng thời có Cô Thần Quả Túc, đặc biệt thích hợp học nghệ về nghiên cứu, thành tựu cũng lớn. Là người nho nhã, tinh khiết, cao trí, bản thân tài nghiệp suy sụp, do đó ứng với chủ có danh mà không chủ có lợi. Cách này chủ cô độc, mặc dù quý nhưng ít con, lục thân cũng thuộc loại vô tình, có thể dẫn đến xuất gia suốt đời.
Mệnh cung mang Dương Nhận, mệnh vượng không có chỗ dựa, tính tình cương mãnh liệt, dễ bị xung động, ứng với chú ý Lưu Niên cùng Mệnh cung chi tương xung khắc, đề phòng tai họa ngoài mong muốn. Nếu bát tự thanh thuần không tạp, Thất Sát hóa Ấn tương sinh mà Giá Nhận, thì đảm nhận mưu kế tài giỏi, có thể nhận về phương diện trách nhiệm, tiếng tăm vang dội bốn phương, không có luận sang bắt đầu sự nghiệp mới, hoặc đảm nhận chức vụ trọng đại đều có thể cử khinh nhược trọng.
Mệnh cung có Dịch Mã, nhất định xa cách quê hương mà phát triển; chi Mệnh cung tọa Tài tinh, chủ phát tài rất nhanh, lập nên sự nghiệp, có khả năng hợp lại tiền của phi nghĩa mà trở thành giàu có. Chi Mệnh cung tọa Thất Sát, có thể thành nhà Ngoại giao hoặc thành tướng lĩnh xuất ngoại chinh chiến.
( Trích từ sách Bát tự khinh tùng nhập môn 八字轻松入门, tiếng hoa)
Tôi đã từng xét cung mệnh như đoạn dưới đây, thế nhưng thật ra khó mà nghiệm được chính xác. Chẳng hạn như nói:
- Cung Dần Hợi hợp thành Mộc tinh nên lấy Mộc làm chủ. Là người thích hợp với các ngành như pháp luật, kinh tế, y học, có lợi cho cộng đồng cùng các việc làm từ thiện đoàn thể như ở tôn giáo, trường học, y viện, xã hội.
Ca sĩ Elvis Presley có cung mệnh là Dần nhưng không phải là người thuộc lĩnh vực nói trên.
- Cung Mùi thành Thái Ấm, sinh ở cung này là người có tính tình hay tự đắc, thích hợp thương mại, tiến hành vận tải đường thủy, mang tính kinh doanh lưu động về công thương nghiệp, hoặc làm bệnh viện khoa sản cùng đảm nhận y tá. Lập mệnh cung này, thường biểu hiện có tính khiêm nhượng.
Tứ trụ Angelina Jolie có cung mệnh là Mùi, ai cũng biết cô này, thử nghiệm xem tính tình của cô ta như thế nào và có tính "kinh doanh lưu động" hay là "y tá" không...
Vì thế luận cung mệnh như thế hình như có gì thiếu sót căn bản? Không lẽ tất cả người có cung mệnh Mùi đều giải thích giống nhau? Tại sao chúng ta đọc rất nhiều lý thuyết và không thấy ứng nhiệm nhưng cứ nhất định tin vào sách vở?
Hoặc như luận giải quá chi tiết này:
- Cung Dần, là sao Thiên Quyền, người có năng lực đức độ, thông minh, trung niên có quyền bính. Người nhập Dần cung, bản tính cương nghị, ánh mắt sắc bén, có nhiều năng lực chạy nước rút, tìm kiếm nhanh đường tắt để đạt mục đích....
Theo tôi là người viết sau này thêm vào rất nhiều (tam sao thất bổn là chuyện bình thường, man thư cũng đầy dẫy), vì cổ nhân không bao giờ viết những từ như "chạy nước rút", "kiếm đường tắt".... Các bạn đọc nhiều sách cổ khác sẽ thấy văn phong của người xưa không phải như thế.
Tôi viết trong bài mà thachmoc trích từ lớp học là những gì tôi chứng nghiệm được, tuy không phải qua hàng ngàn lá số nhưng khả dĩ là có cơ sở để tôi lập luận được.
Nếu các bạn muốn thử phương cách tôi dùng có đúng hay không thì hãy tự xét tứ trụ của mình và người thân. Chúng ta ai cũng đều có ít nhất là 5, 6 tứ trụ. Nếu nghiên cứu kỹ lưỡng từng tứ trụ thì cũng có thể biết được ít nhất luận theo Tam Mệnh Thông Hội có chính xác hay không.
Trong bài tôi viết ở trên cũng đã nói rõ ở đoạn thứ 3 mà thachmoc gửi lên: Địa chi cung mệnh như 1 thành phần tạo nên sinh-khắc-hình-hại-hội-hợp đối với các địa chi khác trong trụ. Thiên can cung mệnh xét như thiên can khác trong trụ, tức là khí lộ, khí có cường căn hay không..v.v... Tôi cũng có viết nhiều ví dụ ở nhiều bài khác nhau, các bạn có thể tìm lại xem.
Nếu còn nghi ngại tứ trụ không đúng tính cách, cát hung đã xảy ra, hãy thử luận thêm cung mệnh. Đó là cách tốt nhất tìm hiểu mọi vấn đề của môn Tử Bình.
Ngoài ra, tôi đánh giá các luận giải của tài liệu Bát Tự Khinh Tùng Nhập Môn là tương đối chính xác và thực dụng hơn. Vai trò của Cách Cục, thần sát, vận hạn... được chú ý giống hệt như ta luận tứ trụ.
Qua đó chúng ta cũng thấy rằng, không phải chỉ riêng tôi luận cung mệnh như thế (nên có thể các bạn thấy khác người khó tin) mà nhiều nhóm người nghiên cứu Tử Bình cũng đã làm.
Cô KC cùng các bạn thân mến, cho đến giờ này khi ứng dụng Mệnh cung, lesoi cũng chưa thấy ứng nghiệm nhiều. Vì có một vài ví dụ khi tứ trụ cùng phối hợp với Mệnh cung ( cho là trụ thứ 5) thì có trụ thân nhược, nhưng nếu phối vào cung Mệnh thì lại là không nhược; khi phán đoán sẽ dễ sai lầm.
Vì thế theo lesoi nếu luận cung Mệnh thì luận riêng, và xem nó như là ngôi nhà của Tứ trụ ẩn náu suốt cuộc đời vậy. Sau đó, đến đại vận hoặc lưu niên thì phối riêng với cung mệnh ( coi như là đại diện cho tứ trụ), về phần này thì le soi chưa nghiệm chứng cho nên cũng chưa biết ra sao? Các bạn thảo luận để cô KC là người nghiên cứu lâu sẽ đàm luận cùng với chúng ta vậy.
Chào anh lesoi,
Cung mệnh xác định theo chi tháng và chi giờ nên em thường áp dụng cung mệnh cho nguyên cục của tứ trụ. Cụ thể là xác định chính xác cách cục mà trụ đó đang hành khi xảy ra tình trạng kiêm cách. Em cũng không sử dụng trong việc định thân vượng nhược. Anh thử xem sao có thể thu được nhiều điều bổ ích.
Chào anh lesoi,
Cung mệnh xác định theo chi tháng và chi giờ nên em thường áp dụng cung mệnh cho nguyên cục của tứ trụ. Cụ thể là xác định chính xác cách cục mà trụ đó đang hành khi xảy ra tình trạng kiêm cách. Em cũng không sử dụng trong việc định thân vượng nhược. Anh thử xem sao có thể thu được nhiều điều bổ ích.
Cảm ơn Chung.
Anh sẽ xác định lại khi phối cung Mệnh nhiều hơn nữa.
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.