PDA

View Full Version : Luận tình cảm, hôn nhân



kimcuong
19-06-13, 20:50
(Các bạn chú ý: Tôi thường viết ngay trên diễn đàn nên đôi khi có sửa lại và bổ sung khi cần thiết.)

Nói đến luận hôn nhân, khi xưa không bàn đến tình cảm trai gái, mà chỉ nêu lên các tiêu chí xác định thành bại của Tài hay Quan trong tứ trụ. Nữ mệnh dùng Quan Sát tinh đại biểu cho chồng, nam mệnh dùng Tài tinh đại biểu cho vợ. Tài vượng sinh Quan, hay Thực sinh Tài trong những điều kiện tốt đều là những nguyên nhân tạo nên hôn nhân tốt. Nhưng luận chính yếu như thế vẫn là luận cho nam, còn nữ thì vẫn xem là "tòng phu", tức là chồng có mệnh tốt thì bản thân được hưởng lây, ngược lại thì không.

Ngày nay, cũng dùng các luận cứ căn bản mà luận giải cho nam nữ như nhau. Điều đáng nói là thời nay chúng ta đã chú trọng thêm về hiểu biết tâm lý, tình cảm cá nhân, nhân sinh quan cận đại để tìm hiểu cho các mệnh số mà không vướng mắc vào việc bỏ sót hay từ chối những qui luật âm dương ngũ hành tiền nhân đã dầy công nghiên cứu.

Các nguyên tắc truyền thống luận hôn nhân như sau:

(Duới đây ghi chung "chồng, vợ hoặc người sống chung thời gian lâu" là chồng/vợ)

1. Quan Sát đối với nữ là chồng, Thiên tài và chính tài là vợ đối với nam.

2. Trụ ngày (cung phu thê): địa chi đại biểu cho chồng/vợ

Nữ: Bính nhật chủ lấy Quí là quan tinh làm chồng. Quí tàng trong Thìn, nằm ở cung phu thê là 1 trong những tiêu chí tốt. Đắc vị tốt nhất là Bính tọa Tí, vì Quí là bản khí của Tí.



năm
tháng
ngày
giờ




Bính





Thìn





mậu, ất, quí




Nam: Ất nhật chủ lấy Kỉ làm thiên tài. Trong cung phu thê Sửu tàng Kỉ bản khí, tức Tài tinh đắc vị.



năm
tháng
ngày
giờ




Ất





Sửu





kỉ, quí, tân





3. Vai trò của các thập thần gây nên nhiều vấn đề khác biệt về tình cảm hôn nhân:
- Tỉ Kiếp nhiều hợp Tài/Quan
- Tượng tranh hợp
- Quan suy nhược hoặc khuyết hẳn Quan tinh trong tứ trụ, gặp Thương quan vượng

....a- Chồng/vợ có lực hấp dẫn đối tượng khác hoặc ngoại tình
....b- Trước khi kết hôn, chồng/vợ đã có tình cảm sâu đậm với đối tượng khác hay đã ly dị
....c- Quan hệ tình cảm của chính mình đối với chồng/vợ hời hợt, thậm chí lợi dụng nhau

Thí dụ 2 Quí tranh hợp 1 Mậu, hoặc 2 Canh tranh hợp 1 Ất:



năm
tháng
ngày
giờ


Quí
Mậu
Quí






năm
tháng
ngày
giờ



Canh
Ất
Canh



4. Cung phu thê tĩnh là lý tưởng cho một hôn nhân vững bền hay tình cảm sâu đậm. Tĩnh tức là không bị Xung, Hình, Hại, Phá. Tam hợp, lục hợp, tam hội cũng thường thay đổi tính chất của Tài tinh, Quan tinh.

Nam: Quí nhật chủ lấy Bính làm chính tài. Bính là bản khí của Tị. Nhưng tam hợp Tị Dậu Sửu đã làm suy yếu tính chất của Tị hỏa. Hôn nhân có thể chỉ ngắn hạn hay không sâu đậm.



năm
tháng
ngày
giờ



Tân
Quí




Dậu
Tị
Sửu




bính, mậu, canh




5. Đặc biệt nhất là luận thần sát để xác định rõ hơn về thành hay bại của Hôn Nhân.

...a- Đào Hoa: Tí Ngọ Mão Dậu



Địa chi trụ năm/ngày
Hợi
Mão
Mùi
Tị
Dậu
Sửu
Dần
Ngọ
Tuất
Thân

Thìn


Đào hoa tại



Ngọ
Ngọ
Ngọ
Mão
Mão
Mão
Dậu
Dậu
Dậu



...b- Hồng Diễm:



Thiên can trụ ngày
Giáp
Ất
Bính
Đinh
Mậu
Kỉ
Canh
Tân
Nhâm
Quí


Hồng Diễm tại
Ngọ
Ngọ
Dần
Mùi
Thìn
Thìn
Tuất
Dậu

Thân



Đào Hoa và Hồng Diễm là sao "tình ái". Trong tứ trụ biểu lộ sức hấp dẫn, ý tình rõ rệt đối với đối tượng. Tứ trụ nào không có 2 sao này gọi là bớt đi nhiều tính cách hấp lực về tình cảm ở cả 2 bên. Ở đại vận và lưu niên cũng được luận có hay không có Đào Hoa, Hồng Diễm, chúng nói lên thử thách, tiến tới tình cảm và đôi khi có kết quả về hôn nhân.

...c- Mộc Dục và Mộ: định theo 12 cung TSTT



Thiên can trụ ngày
Giáp
Ất
Bính
Đinh
Mậu
Kỉ
Canh
Tân
Nhâm
Quí


Mộc Dục tại

Tị
Mão
Thân
Mão
Thân
Ngọ
Hợi
Dậu
Dần


Mộ tại
Mùi
Tuất
Tuất
Sửu
Tuất
Sửu
Sửu
Thìn
Thìn
Mùi



Mộc Dục là trạng thái ẩn dụ của trẻ mới sinh còn đang tắm rửa chưa có y phục, nên luận ở trường hợp không thuận lợi ám chỉ tình dục thái quá hoặc đè nén, biến hóa tính cách.

Mộ là trạng thái thập can sau Tử đến nhập Mộ, ẩn ý là tàng chứa trong địa chi và không thấu lộ ra thiên can.

Cả hai Mộc Dục và Mộ trong ý nghĩa trên ám chỉ tâm lý ẩn hình trong nhật chủ. Nếu Tài hay Quan tàng trong địa chi Mộc Dục hay Mộ thường nói lên sự kiếm khuyết tình cảm sâu sắc của nhật chủ, hoặc là nhất thời, hay là không có ý tiến đến sự lâu dài của hôn nhân.

Ở đại vận và lưu niên, dĩ nhiên sẽ có ý hướng tình cảm nổi lên, nhưng còn tùy các cảnh tình khác mà luận hôn nhân hay không. Đây cũng là tùy câu hỏi chân thật của chính bản thân chúng ta.

Nữ: tướng mạo rất đẹp, quan tinh Tân tàng trong Sửu Tuất, cung phu thê có Hồng Diễm Đào Hoa, chồng cũng là người lịch thiệp thanh tú



năm
tháng
ngày
giờ


Quí
Nhâm
Giáp
Bính


Sửu
Tuất
Ngọ
Dần


kỉ, quí, tân
mậu, tân, đinh
đinh, kỉ
giáp, bính, mậu




Hồng diễm, Đào hoa




Nếu Quan tinh hoặc Đào Hoa, Hồng Diễm ở 3 trụ đầu đều là tiêu chí kết hôn sớm. Ở trụ giờ là quá muộn nên càng suy kém, không còn tính chất tốt nữa. Giải thích đơn giản là 2 tinh này thuộc về nhan sắc, nên không thể hoàn toàn mĩ mãn ở thời gian đã quá 45 tuổi (mỗi trụ tính 15 năm).

...d- Cô Thần Quả Tú: cô quả là ám chỉ tình trạng cô đơn, sinh ly tử biệt trong tình cảm và hôn nhân



Địa chi trụ năm/ngày
Hợi

Sửu
Dần
Mão
Thìn
Tị
Ngọ
Mùi
Thân
Dậu
Tuất


Cô thần tại
Dần
Dần
Dần
Tị
Tị
Tị
Thân
Thân
Thân
Hợi
Hợi
Hợi


Quả tú tại
Tuất
Tuất
Tuất
Sửu
Sửu
Sửu
Thìn
Thìn
Thìn
Mùi
Mùi
Mùi



(còn tiếp)

kimcuong
20-06-13, 11:25
Tóm tắt nội dung trên, những điểm sau đây cần chú ý khi luận hôn nhân bất thuận lợi:

1. Tài tinh, Quan tinh suy nhược hoặc gặp Xung
2. Khuyết Tài, Quan trong tứ trụ (và cung mệnh)
3. Tài, Quan bị Tỉ Kiếp hợp, hoặc nhật chủ bị tranh hợp
4. Thiên ấn quá mạnh và là kị thần, hoặc Thương quan vượng chế ngự Quan
5. Hoa Cái, Cô Thần, Quả Tú vượng thịnh


Thời gian kết hôn bình thường từ tuổi 20 đến 35. Trước hoặc sau thời gian này là sớm hay muộn. Nói đến điều này là cách xác định tuổi của các trụ. Đời người bình thường trung bình được 60 năm, vậy có thể chia ra mỗi trụ 15 năm. Hoặc có thể tính:



năm
tháng
ngày
giờ


1-17
18-34
35-51
52 trở đi



Ở từng trụ, chúng ta xác định các yếu tố đã nói trên để nhận định kết hôn có thể sớm hay muộn. Như 1 thí dụ nữ đã nêu, Quan tinh, sao Đào hoa, Hồng diễm tọa ở 1 trong 3 trụ đầu là có thể kết hôn sớm (ưu tiên cung phu thê). Nếu Tài Quan suy nhược ở trụ giờ, lại gặp Cô Thần Quả Tú, có thể nhận định không kết hôn hoặc kết hôn muộn.

Tài, Quan hợp với trụ đại vận hoặc lưu niên cũng khả dĩ tạo ra quan hệ tình cảm hay hôn nhân, đặc biệt xác định điều này cho những tứ trụ khuyết hẳn Tài, Quan.

(Thường nghe nói, không phải tứ trụ khuyết hành gì thì bổ sung ngay hành đó làm dụng thần. Điều này không thể đơn giản như vậy, vì còn phải phân tích dụng kị thần của tứ trụ. Thế nhưng, về tâm lý và nhất là để hiểu Tài và Quan là 2 mặt tinh thần không thể thiếu được, nên vẫn phải xét yếu tố Tài Quan xuất hiện ở đại vận, lưu niên là một điều không thể bỏ qua.

Bởi vì nếu khuyết Tài mà tứ trụ kị Tài, người này chỉ có thể biểu lộ sự tránh né tình cảm hoặc không có hấp lực đối với đối tượng, người khác vẫn có thể tiến đến hôn nhân, nhưng tình cảm càng về hậu vận càng phai nhạt. Tài còn là nguồn lộc nuôi sống chúng ta, nên luận "kị Tài" cũng không phải là hoàn toàn không làm ra tiền, mà rất có thể biểu lộ ở tính cách không xem trọng đồng tiền.

Đối với Quan tinh ở nữ mệnh cũng thế. Nếu khuyết hẳn Quan tinh ở bát tự thuộc ngoại cách, hoặc như Nhuận hạ cách là kị Thổ, ta cũng không thấy những người này đều không kết hôn! Ngược lại, về thực tế, đôi khi kết hợp với sự bổ sung Thổ Quan tinh này mà tự chế ngự hay điều hòa bát tự rất tốt.

Các cách cục của Tử Bình ở phần nhập môn vì vậy chỉ xác định ở hình thể ban đầu là chủ yếu. Phần vận dụng thực tế là Ngũ Hành Âm Dương đều cần phải có suy tưởng sâu sắc hơn. Khó mà nói hết được, cũng bởi vì từng bát tự với điều kiện sinh trưởng ở môi trường con ngưòi sinh sống làm cho sự hiểu biết của chính mình và đối nhân xử thế đều khác nhau.

Chính vì sự tinh tế này mà có những trường phái bất luận Cách Cục, bất luận dụng hỉ kị thần, chỉ luận diễn tiến sự việc thông qua các biểu lộ của thập thần, tương tác xung khắc hợp trong vận hạn để giải đoán số mệnh.)

kimcuong
20-06-13, 13:22
Những điều kiện ở trên khi kết hợp luận tứ trụ, chúng ta phải linh hoạt sử dụng, nghĩa là không phải có đủ các yếu tố tốt mới thành tốt, hoặc toàn là tiêu chí hung thì gặp toàn hung. Tử Bình có phương cách hay gọi là "Bịnh Dược Pháp", nôm na như là bịnh có thuốc chữa đúng vậy.

Hãy quan sát tứ trụ sau đây và nhìn nhận vì sao đương số lại kết hôn đúng tuổi thành niên trong khi cung phu thê bị lệnh tháng xung.

Nam, sinh 1.4.1965, giờ Tí, cung mệnh Mậu Dần



Tỉ
Thiên tài

Thương


Ất
Kỉ
Ất
Bính


Tị
Mão
Dậu



bính, mậu, canh
Mộc dục






- Không có Đào Hoa, Hồng Diễm
- Không có Cô Thần, Quả Tú
- Trụ năm gặp Mộc Dục
- Mão Dậu xung
- Kỉ thiên Tài thấu
- Mậu chính tài tàng trong Tị, thấu xuất ở cung mệnh

Như thế điểm yếu là xung Mão Dậu, nhưng có Tài tinh ở 2 trụ đầu, lại thêm Mộc Dục, suy được việc kết hôn sớm.

Vận Đinh Sửu (19-28), năm 1988 Mậu Thìn, 24 tuổi đã lấy vợ. Những tiêu chí sau đây tạo nên ý định và đi tới hôn nhân:
- Sửu ở vận tàng Kỉ thiên tài
- Mậu lưu niên thấu xuất chính tài
- Đinh hỏa ở vận tiếp sức cho Thổ tài
- Tị Dậu Sửu tam hợp, phá được Mão Dậu xung
- Tam hợp Kim chính là Tân kim ở cung phu thê
- Thìn lưu niên hợp Tí trụ giờ

Bài này chúng ta lưu tâm đến trọng điểm hôn nhân, tình cảm, có hay không? sớm hay muộn? hời hợt hay sâu đậm? Như thí dụ trên chỉ cho thấy thời điểm thuận tiện cho đương số quyết định hôn nhân. Thời gian về sau, hôn nhân bền hay không vẫn là do cung phu thê, chất lượng của Tài xác định. Đương sự này có tượng Mão Dậu xung tức là sẽ có lúc gập ghềnh với đời sống vợ chồng, dù là do ngoại cảnh (Dậu kim là thất sát) hay do tự bản thân mình (Mão là Ất chính bản thân nhật chủ).

kimcuong
25-06-13, 14:18
Luận tình cảm, hôn nhân, trong Uyên Hải Tử Bình có câu thơ:


mộc hổ sương vô tế > Giáp Dần
kim trư khởi hữu lang > Tân Hợi
xích hoàng mã độc ngọa > Bính Ngọ, Mậu Ngọ
hắc thử thủ không phòng > Nhâm Tí


mộc hỏa phùng xà hỏa bất trường > Ất Tị, Đinh Tị
kim trư hà tất cường xương cuồng > Tân Hợi
thổ hầu mộc hổ phu hà tại > Mậu Thân, Giáp Dần
thì đối cô loan vũ nhất tràng

Trên đây như vậy là nói đến Cô Loan Sát, 1 trong những thần sát bị cho là sao hung đối với nữ mệnh. Phạm phải Cô Loan thì khó mà hưởng hạnh phúc lâu dài.

Phân tích theo nhật chủ và can tàng, cung SVTT, chúng ta thấy hầu như là "thương quan gặp quan" hoặc "kiếp tài phá tài", ngũ hành của phu tinh tọa tuyệt địa, nên bị cho rằng chồng không có phúc.

Xét các cặp can chi:

Giáp Dần > Dần là tuyệt địa của Canh, thai địa của Tân (quan sát tinh của Giáp)
Tân Hợi > Hợi là nơi Bính hỏa tuyệt, Đinh hỏa thai
Ất Tị > trong Tị tàng Bính (thương quan) khắc Canh (quan), Ất tọa mộc dục ở Tị tức cung phu tọa bại địa
Bính Ngọ > Đinh trong Ngọ là dương nhận của Bính, tính tình quá cương liệt, tự cao tự đại, "bất thính phu ngôn"

... các cặp can chi khác tương tự như thế...


Cô Loan Sát còn gọi là "Thân Ngâm Sát", ý nghĩa về tình dục mạnh, nếu háo tiết vô chế thì tổn thọ.

Vậy gặp phải Cô Loan Sát chúng ta có từ chối không đi đến hôn nhân không? Dĩ nhiên, cổ nhân luận nữ mệnh luôn luôn nên "nhược" mới gọi là "thuận", ngược lại là không được tốt đẹp cho hôn nhân, mà cụ thể có lợi cho chồng con. Thế nhưng, may mắn là cổ nhân cũng không khăng khăng loại trừ những trụ phạm Cô Loan Sát như vậy, mà vẫn cho rằng có cách hóa giải sao cực hung này.

Điều kiện là trong tứ trụ (và cung mệnh) phải gặp: Thiên Đức, Nguyệt Đức, Thiên Ất và Văn Xương.



Sao hóa giải


Thiên đức, Nguyệt đức
Thiên ất, Văn Xương


Chi
tháng
Thiên Đức
Nguyệt Đức
Can
ngày
Thiên ất
Văn Xương


Dần
Đinh
Bính
Giáp
Sửu
Mùi
Tị


Mão
Thân
Giáp
Ất

Thân
Ngọ


Thìn
Nhâm
Nhâm
Bính
Hợi
Dậu
Thân


Tị
Tân
Canh
Đinh
Hợi
Dậu
Dậu


Ngọ
Hợi
Bính
Mậu
Sửu
Mùi
Thân


Mùi
Giáp
Giáp
Kỉ

Thân
Dậu


Thân
Quí
Nhâm
Canh
Sửu
Mùi
Hợi


Dậu
Dần
Canh
Tân
Ngọ
Dần



Tuất
Bính
Bính
Nhâm
Mão
Tị
Dần


Hợi
Ất
Giáp
Quí
Mão
Tị
Mão



Tị
Nhâm


Sửu
Canh
Canh





Thí dụ 1 tứ trụ nữ (sinh 8.10.1979), cung mệnh Ất Sửu (Sửu là Thiên Ất của Mậu):



năm
tháng
ngày
giờ


Kỉ - Kiếp
Quí - tài
Mậu

Kỉ - Kiếp


Mùi
Dậu
Thân

Mùi


Thiên Ất
Đào Hoa

Cô Loan Sát
Văn Xương

Thiên Ất



suy
tử
bệnh
suy



Quan tinh trong trụ là Ất tàng dư khí ở Mùi, Thương quan Tân kim là nguyệt lệnh, cung phu thê phạm Cô Loan Sát, nếu luận "kiếp tài phá tài" thì quan tinh không được tài sinh, nhưng thực tế hôn nhân vẫn bình hòa, vợ chồng tương đắc, không xảy ra sự cố gì.

Luận hóa giải: thiên can có hợp, tứ trụ không có Xung, Thiên Ất và Văn Xương như thế không bị xung phá nên có tác dụng giải được Cô Loan Sát.

Tóm lại, tuy không cần nói là "có hóa giải", nhưng các bảng thần sát đều có tương hỗ nhau, tức là 1 sao hung kèm với 1 sao cát thì lấy cát chế hung, miễn là sao cát không bị khắc chế mất tác dụng hoặc tọa Không Vong.

Vì thế khi gặp thần sát tốt hay thần sát hung, chưa vội mừng hay sợ, hãy quan sát kỹ lực mạnh yếu của thần sát đó mà khả dĩ nhận xét được kết luận.

tuongduy
03-06-21, 12:39
1. Tài tinh, Quan tinh suy nhược hoặc gặp Xung
2. Khuyết Tài, Quan trong tứ trụ (và cung mệnh)
3. Tài, Quan bị Tỉ Kiếp hợp, hoặc nhật chủ bị tranh hợp
4. Thiên ấn quá mạnh và là kị thần, hoặc Thương quan vượng chế ngự Quan
5. Hoa Cái, Cô Thần, Quả Tú vượng thịnh

Trong tứ trụ có những điều kiện trên, liệu Tài, Quan thấu ra ở đại vận thì có thay đổi không?

nam sinh 23.11.1971: Tân Hợi, Kỉ Hợi, Nhâm Tí, Nhâm Tí (cung mệnh Giáp Ngọ)
- Tài tinh là Bính Đinh thiếu, thiếu Tài là không có tình cảm với người khác phái
- nhưng có Hàm Trì, Hồng Loan trụ ngày, giờ >>> hơi bị trễ, trong khi ở Hợi là tọa Vong Thần gặp Lộc
- vận 16 Đinh Dậu, Đinh hợp Nhâm tức Chính Tài hợp
- vận 26 Bính Thân, Bính hợp Tân cũng tức là Thiên Tài hợp
>>> hợp này là hợp trói, hợp mất dạng vì địa chi là Kim không hỗ trợ, cũng như trong bát tự không có Tài, khi thấy Tài thì không có tình cảm lộ ra nào... Đến giờ vẫn độc thân.

Chứng tỏ khi Tài tinh kiếm khuyết thì sự hấp dẫn đồng cảm ái lực giảm thiểu hay biến mất! Gặp vận không hỗ trợ thì không có thay đổi gì.

Hay trụ của đức Đạt Lai Lạt Ma, 6.7.1935: Ất Hợi, Nhâm Ngọ, Quí Mùi, Giáp Dần (cung mệnh Ất Dậu)
- Tài tinh là Hỏa tọa trụ tháng Ngọ, tàng trong Dần, Mùi
- không có Đào hoa, hồng loan, cô thần quả tú
- nhưng tứ trụ thiếu Ấn là Canh Tân
- trong Mùi cung vợ chồng tọa Đinh là Tài tinh nhập mộ
>>> điểm này chắc là trọng yếu nhất, nhưng tới vận Đinh Sửu là đã 50 tuổi, Nhâm Đinh hợp và Sửu xung Mùi vô tác dụng với hôn nhân, vả lại Đạt Lai Lạt Ma đã được thừa nhận từ năm 2 tuổi.

tuongduy
04-06-21, 11:11
Có vài mệnh "cô đơn", để đây giải từ từ... Ai thích thì bàn luận, diễn đàn im ắng quá...

1. nữ, sinh 19.6.1958, mậu tuất - mậu ngọ - đinh mão - đinh mùi

2. nữ, sinh 3.12.1972, nhâm tí - tân hợi - mậu thìn - đinh tị

3. nữ, sinh 3.10.1961, tân dậu - đinh dậu - kỉ tị - nhâm thân

tuongduy
04-06-21, 11:50
3. Vai trò của các thập thần gây nên nhiều vấn đề khác biệt về tình cảm hôn nhân:
- Tỉ Kiếp nhiều hợp Tài/Quan
- Tượng tranh hợp
- Quan suy nhược hoặc khuyết hẳn Quan tinh trong tứ trụ, gặp Thương quan vượng

....a- Chồng/vợ có lực hấp dẫn đối tượng khác hoặc ngoại tình
....b- Trước khi kết hôn, chồng/vợ đã có tình cảm sâu đậm với đối tượng khác hay đã ly dị
....c- Quan hệ tình cảm của chính mình đối với chồng/vợ hời hợt, thậm chí lợi dụng nhau

Thí dụ 2 Quí tranh hợp 1 Mậu, hoặc 2 Canh tranh hợp 1 Ất:



năm
tháng
ngày
giờ


Quí
Mậu
Quí







năm
tháng
ngày
giờ



Canh
Ất
Canh




Ngoài ý nói trên, tượng tranh hợp còn cho thấy thời gian kết hôn chậm trễ, hoặc tình cảm không chuyên, do dự, có thể còn là đồng tính.
Thời gian kết hôn thông thường mà gọi là sớm (đến 30 tuổi) thì trong trụ có những điểm:
- Tài hay Quan trong trụ năm, tháng
- Có Đào Hoa, Hồng Loan trong 2 trụ đầu (không bị xung, phá)

Nếu không có Tài Quan thì sao? Thiệt ra nhật chủ vẫn kết hôn, có tình cảm luyến ái, nhưng lại đánh giá các khía cạnh khác của đời sống cao hơn, như nghề nghiệp. Khi có lựa chọn, thì hôn nhân là thứ yếu, hoặc hy sinh tình cảm để đạt điều gì khác. Tác dụng này còn thấy ở những mệnh Tài Quan suy nhược hay bị xung phá. Hạnh phúc chắc hẳn là kém.

Mệnh có Tài Quan thiếu hay nhược:
- xấu nhất là không thấy ở vận hạn mà còn gặp cô thần quả tú
- thứ nhì là gặp ở vận hạn nhưng bị tranh hợp hay bị xung, mệnh chủ có thể gặp quan hệ tình cảm, nhưng dừng lại tại chỗ!
- Tài Quan thấu ra ở khoảng 20 tuổi, khả năng quyết định hôn nhân sớm, không thì trễ hơn; nói cách khác, nghĩa là thấu ra vận hạn nào thì thời gian đó có thể kết hôn

sherly
18-07-21, 04:07
Sách hay nói
Chi ngày tý ngọ mão dậu hôn phối dung mạo đẹp, có tài năng và sự lạc quan
Chi ngày dần thân tị hợi, hôn phối dung mạo bình thường, thích xung động
Chi ngày thìn tuất sửu mùi, hôn phối dung mạo xấu xí, tính thụ động
Tuy nhiên cái đẹp, xấu của tứ trụ (hay tướng pháp) nó khác với cái đẹp hiện đại ngày nay của người mẫu diễn viên.
Tương truyền vợ gia cát lượng là hoàng nguyệt anh có da hơi đen, tóc vàng, gia cát vũ hầu có sử sách ghi chép lại bát tự trụ ngày thuộc tứ mộ, từ đó người ta cứ thi nhau thêu dệt rằng hoàng nguyệt anh rất xấu, "ngũ xú trung hoa".
Với tiêu chuẩn hiện đại, người ta thi nhau sửa mũi, nâng gọt cằm thì nhận định đẹp xấu trên nó không còn đúng thậm chí là trái lại.
Ta chỉ nên hiểu chi ngày tứ chính thì người phối ngẫu có dung mạo đẹp theo tướng pháp, dễ mang đào hoa diện, có tài năng thơ ca âm nhạc, má dễ đỏ, tính tình lạc quan vui vẻ, chứ không nên hiểu là đẹp như mấy cô hoa hậu.

tuongduy
20-07-21, 12:03
Chi ngày tý ngọ mão dậu hôn phối dung mạo đẹp, có tài năng và sự lạc quan
Nhân nói đến Tí Ngọ Mão Dậu với chủ đề hôn nhân, có thuyết kể tại sao lại gọi Tí Ngọ Mão Dậu (cung hàm trì) là thần sát Đào Hoa.

Người xưa cho rằng hoa đào cũng là thần của rượu và sắc, nên có câu “sắc là con dao”. Đào hoa tinh phân ra 4 mùa có hoạt, tử, dâm dục...

Từ tháng giêng đến tháng ba, trời nắng đẹp, mùa xuân là mùa hoa đào nở rộ nên có tên là Đào Hoa Xuân. Người xưa du xuân vào tháng 3. Lúc này các thi nhân, tiểu thư mở lòng vì hương hoa đào thơm ngát. Đào hoa mùa xuân xem Mão là hoa đào đích thực (chân đào hoa). Ngoài ra, có những lời giải thích chi tiết hơn: Tân Mão là hoa đào đã chết, Quí Mão và Kỷ Mão là hoa đào còn sống, Ất Mão là hoa đào tốt bụng và Đinh Mão là hoa đào dâm đãng. Hoa đào chết thì không còn nở, trong khi hoa đào còn sống thì dễ mở lòng, nhân hậu, tính tình đào hoa, không có ác tâm; người có hoa đào dâm đãng thì lời nói, hành vi thấp kém, giỏi dâm ô.

Hoa đào nở từ tháng 4 đến tháng 6 được gọi là Đào Hoa Phiến (phiến là cái quạt) khi cây đào đơm hoa kết trái. Vì tháng 4, 5, 6 là mùa hè, là mùa để mọi người tận hưởng cái mát, cái nóng nên quạt đã trở thành vật cưng trong tay của giới mộ điệu. Người lấy Ngọ làm hoa đào cũng tỏ ra tao nhã, tự tại (lửa là hình tượng của văn minh). Nhưng cũng có những loại: Nhâm Ngọ là hoa đào tàn, Giáp Ngọ là hoa đào sống, Bính Ngọ là hoa đào nghi lễ, Mậu Ngọ là hoa đào héo và Canh Ngọ là hoa đào vàng (kim sai đào hoa). Vì vậy, người có Ngọ là đào hoa nói chung có trách nhiệm hơn với cuộc sống.

Từ tháng 7 đến tháng 9 là thời điểm thu vàng, vì KIM đương lệnh nên được đặt tên là Đào Hoa Đao. Những người có Dậu là hoa đào được xem là những con dao, cây kiếm đúng nghĩa (chân đào hoa), trong đó Tân Dậu là những con dao mạnh nhất, còn Quí Dậu và Đinh Dậu là những bông hoa đào dâm đãng. Những người mang đào hoa này có chức năng thận đặc biệt mạnh. Ất Dậu là hoa đào không rễ, Kỉ Dậu là hoa đào sống. Bất cứ ai đeo đào hoa kiếm đều có thể dễ dàng dùng vũ lực với nhau khi họ đang kết hôn hoặc đang yêu.

Tháng 10 đến tháng 12 là mùa đông, vụ hạn, mùa để người xưa thưởng ngoạn. Không tránh khỏi việc uống rượu vui miệng nên có tên là Đào Hoa Tửu. Đào hoa tháng này là dâm đãng nhất vì thú vui ngẫu hứng sau những cuộc nhậu nhẹt chốn bụi đời cổ kính. Nhâm Tí là rượu hoa đào mạnh mẽ nhất, Canh Tí đứng thứ hai, Bính Tí và Mậu Tí là hoa đào tàn, chỉ có Giáp Tí là hoa đào nhân từ. Lại còn thêm hình tượng cho người chuyên ngâm rượu hoa đào là có công năng bổ thận tráng dương nên ham muốn dục vọng.

Đời sống tình dục thường được gọi là: 'Ba mươi giống như một con sói, bốn mươi giống như một con hổ, và năm mươi là một con báo.' Đào hoa trong tứ trụ khác nhau là do vị trí của nó. Những người có hoa đào trụ năm là biểu hiện cho những năm đầu đời; những người có ở trụ tháng là thanh niên (ngực và vai), là tuổi trẻ, là hoa đào hiện dụng; những người có đào hoa ở trụ ngày là đối với vùng bụng, đó là độ tuổi trung niên, ở trụ giờ là chân tức tuổi già.

Hoa đào ở trụ năm, tháng là hoa đào trong tường (tường nội đào hoa), tại trụ ngày là hoa đào ngoài tường (tường ngoại đào hoa). Có một bông hoa đào ngoài bức tường là của mọi người, nên sẽ có kẻ trộm hái hoa, dù là nam và nữ. Cũng là không phân biệt âm dương chính là tình yêu đồng giới.

Vẻ đẹp là bản chất của con người, và ai cũng có niềm yêu thích cái đẹp. Không có gì sai với sắc đẹp, tất cả đều do rượu mà ra. Trăm năm đào hoa kiếp sát, miễn bình luận về công trạng và phẩm chất.

tinhdau
23-07-21, 08:37
Bát tự của em đều là tý ngọ mão dậu đây:
Quý Dậu-Ất Mão-Đinh Dậu-Bính Ngọ
Có đào hoa ở trụ giờ bính ngọ, vậy em là đào hoa nghi lễ :)
Sau cưới dc vợ đẹp, cũng thích :D

tinhdau
23-07-21, 13:26
A lại gặp anh bouda, anh viết cho em đúng ko ạ. Vợ đẹp theo cảm nhận của em là dc chứ ko cần như hoa hậu đâu a, cao quá em cũng ko thích, em thích mấy cô gái nhỏ nhắn dễ thương hơn. Từ thiện ah, em có lòng thương người, bố thí những người ăn xin, mua ủng hộ vé số hay bịch tăm thì cũng có chứ đi từ thiện kiểu như Thuỷ Tiên vợ Công Vinh thì chưa bao giờ ạ.